CONFESSION

Lev Tolstoy

 

TỰ THÚ

Bản dịch: Đỗ Tư Nghĩa

 

1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16

 

~~ooOoo~~

 

CHƯƠNG XV

 

Nhiều lần tôi đă ganh tỵ với những nông dân về sự dốt nát [1] và sự thiếu giáo dục của họ. Họ không thể thấy cái ǵ hư dối [2] trong những giáo lư  của đức tin mà với tôi dường như nảy sinh từ sự nhảm nhí hiển nhiên [3] ; họ có thể chấp nhận chúng và tin vào chân lư, cùng cái chân lư mà tôi tin vào. Nhưng thật bất hạnh cho tôi, rơ ràng là cái chân lư đó bị buộc chặt vào một sự dối trá  [4]  bằng những sợi chỉ vi tế mỏng manh nhất, và hiển nhiên là tôi không thể chấp nhận nó trong một h́nh thức như vậy.

Tôi đă sống như thế vào khoảng 3 năm, và khi, giống như một người bị quỷ ám, tôi bắt đầu nhích từng bước về phía chân lư  – được dẫn dắt chỉ duy nhất bởi bản năng, về phía cái nơi mà ánh sáng dường như chiếu sáng – th́ những cái có vẻ là phi chân lư [5] đă không làm tôi bận tâm nhiều lắm. Khi tôi không hiểu một cái ǵ đó, tôi thường nhủ thầm, “Tôi có tội, tôi sai lầm.” Nhưng tôi càng tiếp thu được những chân lư mà tôi nghiên cứu, chúng càng trở nên cái nền tảng của cuộc sống, cho đến khi những phi chân lư trở nên ngày càng khó khăn hơn và gây bối rối hơn. Cái đường ranh giới  – phân cách những điều (mà) tôi không biết làm thế nào để hiểu ra khỏi những điều mà tôi có thể hiểu chỉ bằng cách tự dối ḿnh – cái đường ranh giới ấy trở nên rạch ṛi hơn.

Mặc dù những hoài nghi và ṿ xé, tôi vẫn đang bám víu vào Hội thánh Chính thống. Nhưng những câu hỏi về cuộc sống (mà) phải được giải đáp cứ tiếp tục nổi lên, và giải đáp của Hội thánh về những câu hỏi này th́ trực tiếp chống lại cái đức tin mà nhờ đó tôi sống; đây là cái mà sau cùng đă dẫn tôi đến chỗ từ bỏ khả tính của một mối quan hệ với Hội thánh Chính thống. Trước hết, những câu hỏi này gắn liền với mối quan hệ giữa Hội thánh Chính thống và những giáo hội khác,  với mối quan hệ giữa nó với Công giáo [6] và những người gọi là Raskolnik. Vào thời điểm đó, do mối quan tâm của tôi vào đức tin, tôi trở nên quen biết với những tín đồ của nhiều tín điều [7] khác nhau: những người Công giáo, Tin lành, những Cựu tín đồ [8], những người Molokan [9], và những người thuộc những giáo phái khác. Và trong số họ, tôi gặp nhiều người có phẩm chất đạo đức cao nhất, họ là những tín đồ đích thực. Tôi muốn là một người anh em của những người này. Nhưng cái ǵ đă xảy ra? Cái giáo lư[10]  – mà đă hứa hẹn cho tôi một sự hợp nhất với tất cả qua t́nh yêu và một đức tin chung duy nhất  – lại chính  là cái giáo lư mà, từ cửa miệng của những tín đồ ưu tú nhất của nó,  cho tôi thấy rằng, tất cả những người này th́ đang sống trong một sự dối trá; rằng cái ban cho họ sức mạnh để sống là một sự cám dỗ của quỷ sứ, và rằng, chỉ riêng chúng tôi [11] mới sở hữu cái chân lư duy nhất khả hữu[12]. Và tôi thấy rằng, những thành viên của Hội thánh Chính thống xem tất cả những ai mà không có cùng tín ngưỡng như họ là những kẻ tà đạo [13] ; cũng hệt như vậy, những người Công giáo và những người (thuộc những giáo phái) khác th́ lại xem những thành viên của Hội thánh Chính thống như là những kẻ tà đạo. Tôi thấy rằng, mặc dù cố t́nh che giấu, Hội thánh Chính thống xem là kẻ thù tất cả những ai không chấp nhận cùng những biểu tượng [14] và những biểu đạt[15] về đức tin như họ. Và sự thể phải là như vậy, bởi v́ trước hết, khẳng định rằng, bạn sống trong một sự dối trá trong khi tôi sống trong chân lư, đó là cái điều tàn nhẫn nhất mà một người có thể nói với một người khác; và, kế đến,  bởi v́ (nếu) một người thương yêu con cái và anh em ḿnh, th́ y không thể không xem như kẻ thù những ai muốn cải đạo [16] cho con cái và anh em của y,  dẫn chúng vào một đức tin hư dối. Và mối ác cảm này tăng lên theo tỷ lệ của kiến thức của họ về những lời dạy của giáo lư. Ngay cả tôi, kẻ đă cho rằng chân lư nằm trong sự kết hợp của t́nh yêu,  cũng bị bó buộc phải công nhận rằng những lời dạy của giáo lư lại hủy diệt chính cái mà nó bắt tay vào để tạo dựng nên.[17]

Sự cám dỗ (phải nghi ngờ những giáo lư đang được rao giảng. ĐTN) th́ hiển nhiên đối với những người có ăn học như chúng tôi, sống trong những đất nước nơi mà nhiều loại tín điều được tin theo và thấy sự khinh thị lẫn nhau quyết liệt giữa các giáo phái: Công giáo khinh bỉ Chính thống giáo và Tin lành; Chính thống giáo khinh bỉ Công giáo và Tin lành, và Tin lành khinh bỉ cả hai; điều này cùng áp dụng cho những Cựu tín đồ, những Revivalists, và những Shakers [18] và tất cả những giáo phái c̣n lại. Điều đó th́ quá hiển nhiên, đến nỗi thoạt nh́n th́ thật là bối rối. Bạn nhủ thầm, “ Nó không thể đơn giản như vậy. Có thể nào mà người ta không thấy rằng, cho dù 2 lập trường có xung đột với nhau, chẳng lẽ cả hai đều không thể nuôi giữ cái chân lư duy nhất khả dĩ cấu thành cái nền tảng, cơ sở của đức tin? Phải có một sự giải thích nào đó ở đây.” Tôi cũng nghĩ rằng có một loại giải thích nào đó, và tôi t́m kiếm nó và đọc mọi thứ mà tôi có thể về đề tài đó, và tham khảo ư kiến mọi người mà tôi quen biết. Nhưng sự giải thích duy nhất mà tôi có thể t́m thấy là lời giải thích theo kiểu như vầy: những Kỵ Binh Sumsky th́ tự xem ḿnh là cái trung đoàn thiện chiến nhất trên thế giới, trong khi những người Uhlans Vàng [19] th́ lại tự cho ḿnh là số một. Những giáo sĩ của mọi giáo phái, những đại diện ưu tú nhất của tín ngưỡng của họ, tất cả đều bảo tôi cùng một điều – cụ thể là :  niềm tin của giáo phái họ là niềm tin đích thực và tất cả những niềm tin khác đều sai lầm;[20] họ cũng bảo rằng cái điều duy nhất mà họ có thể làm cho những người của các giáo phái khác, là cầu nguyện cho những người đó. Tôi viếng thăm những tu viện trưởng, những  giám mục, những giáo sĩ cao niên, và những nhà tu khổ hạnh, không ai trong số họ bỏ công ra để giải thích cái cạm bẫy này cho tôi. Chỉ có một người thuyết minh vấn đề ấy cho tôi, nhưng lời giải thích của ông ta th́ như thế nào đó, khiến cho tôi không c̣n hỏi bất cứ ai một câu hỏi nào nữa.

Tôi đă nói rằng, đối bất cứ kẻ thiếu đức tin nào mà trở lại với đức tin (và tại đây tôi có trong trí toàn bộ thế hệ trẻ của chúng tôi), th́ câu hỏi đầu tiên được nêu ra là: tại sao chân lư không nằm trong Hội thánh Luther hay Hội thánh Công giáo, mà lại nằm trong Hội thánh Chính thống?  Trong trường học, người ta được dạy và đều biết cái mà người nông dân không biết – cụ thể là, những người Tin lành và những người Công giáo đều tự đ̣i cho ḿnh cái quyền làm sở hữu chủ của chân lư – cái chân lư độc nhất và duy nhất – mà chính chúng tôi cũng đang tự đ̣i quyền làm sở hữu chủ. Những bằng chứng lịch sử  – bị xuyên tạc bởi mỗi giáo phái để phù hợp với mục đích của riêng nó – th́ thiếu sót, bất cập. Phải chăng là không có thề, như tôi đă gợi ư, là khi đạt tới một mức độ hiểu biết cao hơn, th́ những khác biệt sẽ biến mất, y như chúng đă biến mất đối với những kẻ-có-đức-tin đích thực [21]  ? Phải chăng là không thể đi xa hơn xuống con đường mà dọc theo đó chúng ta đă khởi hành với những Cựu tín đồ? Họ đă đă tuyên bố rằng, có một cái thay thế [22] cho con đường mà trong đó chúng ta làm dấu thánh giá, kêu to ‘hallelujahs’[23] và di chuyển xung quanh bàn thờ. Người ta đă nói, “Bạn tin vào Tín điều Nicene, vào 7 phép bí tích, và chúng tôi cũng vậy. Chúng ta hăy tuân thủ cái đó; về những cái c̣n lại của nó, bạn có thể làm như bạn thích. Như thế, chúng ta có thể đoàn kết lại bằng cách đặt những thành tố cốt tủy cao hơn cái không cốt tủy.” Phải chăng là không thể nói với những người Công giáo,  “Bạn tin vào cái này và cái kia, vào những ǵ (mà là) quan trọng; c̣n đối với chuyện về filioque [24] và đức Giáo Hoàng, hăy làm như bạn thích.” Phải chăng là không thể nói cái điều tương tự với những người Tin lành, và liên hiệp lại với nhau trong cái điều độc nhất cần thiế?  Tôi nói điều này với một người (mà) đồng ư với sự suy nghĩ của tôi, nhưng anh ta bảo tôi, những nhượng bộ như thế sẽ khơi dậy sự khiển trách [25]  của giới tăng lữ, họ sẽ phản bác rằng, điều này đánh dấu một sự trệch hướng ra khỏi đức tin của tổ tiên chúng ta, và gây ra sự bất đồng, bất qui phục [26], và rằng giới tăng lữ có nhiệm vụ phải duy tŕ trong mọi điều tất cả sự tinh tuyền [27] của đức tin Chính thống Hy Lạp – Nga, mà đă được tổ tiên chúng ta truyền xuống cho Hội thánh.

Rồi tôi hiểu tất cả mọi thứ đó. Tôi đang truy tầm đức tin, cái lực của sự sống, nhưng họ lại t́m kiếm những phương tiện tốt nhất để hoàn  thành cái mà người ta xem là những bổn phận nào đó của con người. Và để chu toàn  những bổn phận con người này, họ thực hiện chúng trong một cách thức quá-đỗi-con-người.[28] Bất luận họ có thể nói ǵ về ḷng thương xót của họ đối với những huynh đệ mà đă đi lạc đường, hay về những lời cầu nguyện của họ cho những ai (mà) sẽ đến trước ghế phán xét của Đấng tối cao, th́ những bổn phận con người chỉ có thể được thực hiện bởi bạo lực; [29] và từ trước tới nay, bạo lực vẫn luôn được thi hành, bây giờ đang được thi hành, và sẽ luôn luôn (c̣n măi) được thi hành. Nếu mỗi trong 2 tôn giáo tin rằng, chỉ có nó mới phù hợp với chân lư trong khi tôn giáo kia sống trong một sự lừa dối, rồi bởi v́ họ muốn dẫn những huynh đệ của họ đến chân lư, họ sẽ tiếp tục rao giảng cái giáo lư riêng của họ. Và nếu một Hội thánh đang cư ngụ trong chân lư, mà một giáo lư hư dối lại được rao giảng cho những đứa con thiếu kinh nghiệm của nó, th́ Hội thánh đó không thể không đốt những quyển sách và trục xuất kẻ nào đang dẫn dắt con cái của Hội thánh vào trong sự cám dỗ. Phải làm cái ǵ với một kẻ tà đạo (mà) công bố một cách nhiệt thành cái mà Hội thánh xem như là một đức tin hư dối, và đang dẫn dắt những con cái của Hội thánh đi lạc đường trong cái điều quan trọng nhất của cuộc sống, trong đức tin? Phải làm ǵ với y ngoài việc chặt đầu y và nhốt y trong tù? Vào thời của Alexis Mikhailovich[30], th́ y (kẻ tà đạo) bị hoả thiêu tại giàn hỏa, nghĩa là, y  gặp phải biện pháp mạnh nhất của luật pháp; cái điều tương tự th́ cũng đúng với thời đại của chúng ta: họ bị biệt giam. Khi tôi xoay sự chú ư của tôi sang những cái mà người ta đă làm nhân danh tôn giáo, tôi kinh hăi và gần như hoàn toàn rút khỏi Hội thánh Chính thống. Một điều khác là mối liên quan giữa Hội thánh với những vấn đề của cuộc sống – về thái độ của nó đối với chiến tranh và những cuộc hành h́nh.

Trong thời gian này, nước Nga đang ở trong chiến tranh. [31] Và nhân danh t́nh yêu Kytô giáo, những người Nga đang giết những huynh đệ của họ. Không có cách nào để tránh khỏi suy nghĩ về điều này. Không có cách nào để bỏ lơ không ngó đến cái sự kiện rằng, việc sát nhân là xấu và đi ngược lại với những giáo lư nền tảng nhất của bất cứ đức tin nào. Tuy nhiên, trong các nhà thờ, người ta đang cầu nguyện cho sự thành công của những vũ khí của chúng tôi, [32] và những vị thầy của đức tin xem cuộc sát nhân này như là cái hệ luận logic của đức tin. Và không chỉ việc sát nhân trong chiến tranh được phê chuẩn, mà trong suốt những rối loạn theo sau chiến tranh, tôi thấy những thành viên của Hội thánh, những vị thầy của nó, những tu sĩ, và những nhà khổ hạnh – những người này đều tha thứ  cho việc giết chết những người trẻ đi lạc đường[33] bơ vơ. Tôi xoay sự chú ư của tôi sang mọi thứ mà những kẻ tự xưng là những người Kytô giáo đă làm, và tôi kinh hăi.


 


[1] Illiteracy.

[2] False.

[3] Patent nonsense.

[4] A lie. Không phải ai cũng đủ sáng suốt như Tolstoy, để nhận ra điều này ! ( ĐTN).

[5] Seeming untruths.

[6] Catholicism.

[7] Creeds.

[8] Old believer.

[9] Molokan: “những người uống sữa”, tạo thành một tông phái không tin vào việc ăn kiêng. Họ chế giễu những khía cạnh nghi lễ của tôn giáo, và sử dụng Kinh thánh như là nền tảng duy nhất cho sự thực hành và tin tưởng của họ.

[10] Doctrine.

[11] We alone – những người như Schopenhauer, Solomon, Tolstoy… ( ĐTN).

[12] The only truth possible.

[13] Heretics.

[14] Symbols.

[15] Expressions.

[16] Convert.

[17] Thật là… nghịch lư ! ( ĐTN).

[18] Shakers: những thành viên của một tông phái tin vào Thời đại Hoàng kim, phát xuất từ Anh quốc, vào năm 1747; họ sống độc thân, và một cuộc sống cọng đồng, khổ hạnh.

 

[19] The Yellow Uhlans.

[20] Đây chính là mầm mống của chiến tranh tôn giáo ! ( ĐTN).

[21] Genuine believers.

[22] Alternative.

[23] “ Hăy ngợi ca Thiên chúa.”

[24] Fiolique có nghĩa là “ và từ Đứa con trai”, là một lời được thêm vào Tín điều Nicene – Constantinoble trong Giáo hội Latin. Nó theo sau cụm từ “ Chúa Thánh thần … kẻ phát xuất từ Chúa Cha.” Gợi ư rằng, Chúa Thánh thần khởi lên từ Chúa Cha lẫn Chúa Con.

[25] Censure.

[26] Dissent.

[27] Purity.

[28] All-too-human fashion.

[29] Nhân danh những cái thiêng liêng, mà bao nhiêu máu đă đổ ra trong lịch sử ! ( ĐTN).

[30] Alex Mikhailovich ( 1629 – 1676) là vị Nga Hoàng Romanov thứ hai của Nga ( 1645 – 1676), và là cha của Peter Đại đế.

[31] Ở đây, Tolstoy đang nói đến cuộc chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ ( 1877-78), chấm dứt khi Nga tiến vào Istanbul. Đây cũng là thời điểm khi mà nước Nga bị nạn khủng bố hoành hành.

[32] Thật là mỉa mai! ( ĐTN).

[33] Có lẽ, đây là những người “ cải đạo” sang đạo khác? ( ĐTN).

 

 

 

trang đỗ tư nghĩa

chân trần

art2all.net