art2all.net

 

TƯỞNG NIỆM

NỮ SĨ HOÀNG HƯƠNG TRANG

(1938 - 2020 )

 

 

THƠ - VĂN - NHẠC

 

 

ĐỂ LẠI HUẾ MÙA XUÂN

Em để lại mùa xuân ở Huế,
Anh có về tìm hộ em không,
Mùa xuân xưa bên trường cũ vôi hồng,
Bên hàng phượng ươm màu nắng mới.

Để lại Huế mùa xuân thơ mộng,
Có tình yêu say đắm ru lòng,
Có âm thầm đau đớn chờ mong,
Có tất cả cuộc đời em ở Huế.

Em để lại mùa xuân ở Huế,
Gởi bến đò Thừa Phủ, Văn Lâu,
Gởi Ngự Bình và dốc Nam Giao,
Trăng nước Hương Giang, mơ màng Bến Ngự.

Em để lại mùa xuân ở Huế,
Anh có về Gia Hội, Đông Ba,
Anh có về Vỹ Dạ, Hàng Me,
Tìm hộ nhé, mùa xuân em để lại.

Hoàng Hương Trang

 

~~oOo~~

 

 

Mời Em
 

Anh mời em về thăm Lục Ngạn
Ăn trái vải thiều đẹp dáng Quý Phi
Anh mời em về quê Quan Họ
Tiếng hát ngân lên xuân thắm dậy thì

Anh mời em về thăm Hạ Long
Núi biếc quanh co, sóng lặng thầm
Anh mời em thăm nàng Tô Thị
Xứ Lạng mơ bầu rượu nắm nem

Mời em về quê hương cô Tấm
Nhân nghĩa dịu hiền trái thị bước ra
Mời em về thăm quê Thánh Gióng
Tuổi trẻ vươn lên gìn giữ quê ta

Anh mời em thăm quê Hai Bà
Thăm đền Hùng di tích nguy nga
Thăm chùa Hương rừng mơ thoang thoảng
Thăm thành Nam hào khí Đông A

Mời em thăm nương chè mới hái
Thấp thoáng đâu đây bà Chúa thuở nào
Thăm thành xưa Cổ Loa độc đáo
Đánh giặc xâm lăng còn mãi tự hào

Mời em thăm Mỵ Châu chung thủy
Giếng ngọc ngàn thu vẫn sáng lòa
Mời em tìm dặm đường lông ngỗng
Trọn chữ tình, mang tiếng phụ vua cha

Anh muốn mời em đi khắp nơi
Rồi về Ba Sáu Phố Phường chơi
Anh sẽ dắt em qua cầu Thê Húc
Dừng bước bên hồ lặng ngắm trăng soi

Mời em nghe tiếng thơ Bà Huyện
Rảo bước thăm bia tiến sĩ ngày nào
Nghe thơ Xuân Hương bên hồ Trúc Bạch
Một Cột chùa xưa sen nở đầy ao

Hương hoa sữa đường Nguyễn Du thanh khiết
Vườn Thúy xa xưa dáng Thúy Kiều
Mời em gói cốm xanh biêng biếc
Trái hồng sính lễ giữa mùa yêu

Mời em lắng tai nghe vó ngựa
Của người áo vải đất Tây Sơn
Voi trận rùng rùng xua giặc dữ
Cờ đào phất phới thành Thăng Long

Mời em tìm dấu xưa Huyền Trân
Làm dâu xa tận đất vua Chàm
Cây quế giữa rừng còn đứng lặng
Mối tình xa vọng Trần Khắc Chung

Anh muốn đưa em về thăm nguồn cội
Chiếc nôi xưa dân tộc ra đời
Lời ru còn mãi… nghe vời vợi
Rung động tim ta đến tuyệt vời
Mời em về nhé… anh chờ đợi
Khúc hát ân tình sẽ lên ngôi!

Hoàng Hương Trang
6/2004

 

~~oOo~~

 

Giọt Nước Trong Vườn

             Thân tặng bạn Tuệ Nga

Vườn tôi giọt nước hiền lành
Nhỏ rơi tí tách trên Nhành Mộc Lan
Mỗi giọt rơi, mỗi tiếng đàn
Thì thầm hoa cỏ ươm ngàn nụ xinh
Gió đi qua, gió tự tình
Nắng đi qua, nắng lung linh gọi mời
Trăng đi qua, ngập ngừng soi
Cánh chim qua, cũng reo lời bình yên ...

Ngoài kia giông bão triền miên
Đì đùng sấm chớp rạch nghiêng đất trời
Ngoài kia mưa gió liên hồi
Nước dâng, đất lở, cõi đời phong ba

Vườn tôi giọt nước cỏ hoa
Dịu dàng tinh khiết âm ba xa vời
Bên hiên thầm lặng tôi ngồi
Ngắm từng giọt nước thả rơi trên cành
Góc vườn một cõi thơ xanh
Cho tôi hứng những Giọt Lành Yêu Thương ...

Xin đừng giông bão tai ương
Xin đừng sấm chớp vấn vương nơi này
Cám ơn giọt nước hàng ngày
Nhỏ rơi bình lặng cỏ cây trong vườn.

Hoàng Hương Trang
2004

~~oOo~~


Thương Gửi Diệm Phương (*)

Chẳng tiến, chẳng lùi, nên đủng đỉnh
Trà khan, thiếu Bạn, có gì vui !
Còn mươi tháng nữa tiễn Dần đi
Nàng Mão khoan thai, Xuân lại về
Dăm vần thơ thẩn cùng mây gió
Thế sự, cửa ngoài chẳng kể chi,

Gửi Bạn đôi lời thương nhớ lắm
Trời Nam, đất Mỹ, quá xa xôi !
Tâm tình... thôi gửi Mây ngàn vậy
Chúc Diệm Phương Cười, tươi nắng mai
Nhớ nhau đọc lại bài thơ cũ
Mây trắng lưng trời, mây trắng trôi,

Một kiếp nhân sinh, đa hệ lụy
Hơn đời ta lãi Nụ Cười Vui ...

Tuệ Nga
Hồng Thành Oregon
Mùa Xuân Canh Dần 2010

(*) Hoàng Thị Diệm Phương tức Hoàng Hương Trang

 

~~oOo~~

 

Thơ Hoàng Hương Trang tặng Thanh Trí và Tuệ Nga

 

 

 

 

 

~~oOo~~

 

TÁM MƯƠI DƯ

       (Quý tặng La Thụy)


 

Ngó lên, ta thua người trăm tuổi

Nhìn xuống, tớ hơn lũ bảy mươi.

Mắt không mờ

Tai không nghễnh

Răng không rụng

Lưng không còm

Tự hào “tứ quý” trời cho.

Thơ hơn chục cuốn, vạn bài

Văn ngoài dăm quyển, ngàn trang

Họa sáu mươi niên, dư vài trăm bức

Nhạc điểm xuyết mấy khúc ca.

Ngâm nga gần bảy chục năm, Tao Đàn nổi tiếng

Hát hò chưa ca sĩ, bạn bè vẫn vỗ tay khen.

Ghét bonsai, cây thiếu đất

Chê chim cá, cảnh chậu lồng

Không chơi non bộ, trò núi giả

Chỉ thích rừng sâu biển cả

Chỉ ngắm cá nước chim trời.

Đoạt bảy giải thưởng suốt đời, gồm đủ Thơ Văn Nhạc Họa

Hỏi ai kẻ bằng ta?

Sống tám chục năm qua, hiếm khi bệnh tật.

Tình một mối hẹn hò, trải dài ba kiếp tái sinh

Nhà một mái đơn sơ, đi về tự do tự tại.

Tiền không tỉ phú, nhưng “hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy”

Túi chưa bao giờ rỗng đáy

Đời chẳng lên xe xuống ngựa

Mà chân đi khắp mọi miền, Bắc Trung Nam đều bước tới.

Tuổi tám mươi dư, không còn gì hơn ở kiếp này

Kỳ vọng Nợ Duyên kiếp sau tròn mộng.

Bạn bè khắp năm châu bốn biển, tính đến vạn kẻ thân quen

Học trò trong nước ngoài nước, đếm quá ngàn, tình thân chí thiết.

Giao lưu cuối đất cùng trời, từ Âu sang Á…

Cũ mới mọi thời

Hẹn ước chỉ một người, ngự trong tim vĩnh viễn.

Đầu xuân Đinh Dậu, nghe gà gáy, gẫm lại đời mình

Làm thơ tặng mình, mình đọc cười chơi

Xuân sang nâng chén soi gương

Tóc bay bạc trắng, ta rót ta say túy lúy.

Chắp tay cám ơn Trời Phật

Cho ta dư tuổi tám mươi

Cúi đầu tạ ơn Tiên Tổ

Đã ban tài nghệ vẹn toàn ngoài mơ ước.

Kiếp này tạm mãn nguyện rồi

Xin hẹn kiếp sau sẽ hơn thế nữa

 

Đầu xuân Đinh Dậu, Sài Gòn 2017

Mừng tuổi Đinh Sửu, 81 mùa xuân
 

HOÀNG HƯƠNG TRANG

 

~~oOo~~

 


CỔ THỤ VÀ HOA


Có gốc cổ thụ già cằn cỗi
Thở từng hơi nhè nhẹ cuối cùng
Bỗng một hôm nắng sớm tưng bừng
Cơn gió ngọt ngào mang bông hoa tới.
Bông hoa bảy sắc màu tươi rói
Nở chói lòa như ánh cầu vồng
Hoa đến bên cổ thụ khô cằn
Tỏa hương thơm dịu dàng như mật.
Hoa đẹp hơn ngàn bông hoa có thật
Hoa thì thầm ẩn ngữ tình yêu
Hoa hẹn hò chờ đợi kiếp sau
Bao say đắm quên mình là cổ thụ.
Và quên hết thời gian, quá khứ…
Như chơi vơi trong cõi Thiên Đường
Ở bên hoa tươi đẹp lạ thường
Gốc cổ thụ nở bừng cùng hoa thắm.
Cổ thụ giờ đây không còn ảm đạm
Ôm trọn đóa hoa thơm ngát trăm năm
Lời hẹn thề từ cõi xa xăm
Nay đã gặp bông hoa tiền kiếp.

Hoàng Hương Trang
(2017)
 

~~oOo~~


NAM MÔ

Cho tôi niệm tiếng Nam Mô
Nguyện thương, nguyện nhớ
Nguyện cho cuộc tình
Cho tôi niệm tiếng cầu kinh
Đừng hờn, đừng giận
Người mình dấu yêu.
Trái tim tôi, tiếng kinh chiều
Nam Mô ký ức
Đã yêu nghìn đời
Trái tim tôi gửi về nơi
Tiếng Nam Mô
Với ngọt bùi từ bi.

Hoàng Hương Trang
(2019)

 

~~oOo~~

 

“Bài ca Tận túy” đi hoang
Biết đâu Hoàng lại gặp Hoàng chiều nay
Vẽ nên độc dược mà say
Hóa công chưa dễ khéo bày đặt hơn
Gió trăm cơn bụi ngàn cơn
Một cơn say đủ sạch trơn thế tình
Nguyện trường túy bất nguyện tinh
Say ai? Mình chỉ say mình đó thôi
Túy-ca bè đã thả rồi
Túy-hương xưa hãy cùng trôi ngược về.

 

~~oOo~~

 

 Chiều say nhớ Hoàng


“Biết đâu Hoàng lại gặp Hoàng chiều nay”
Mới vừa dăm chén đã say
Trong men chếnh choáng nhớ ngày năm xưa
Bút gươm chém lệch đường thơ
Mực đau giấy ảo, kịch hờ thương Mây
Trả gươm cho gió nghiêng vai
Trả thơ cho mộng, trả ngày cho đêm
Kiều Thu, hề! Đẫm gót sen
Mười hai tháng sáu trả men cho tình
Trời một phương, đất một mình
Cảm thông nhân thế cái tình phù du
Tài hoa hệ lụy sa mù
Chén vui, hề! Chén buồn xưa hiện về
Ơi Hoàng, nửa chén si mê
Ơi Hoàng, nửa chén vụng về trao tay
Rượu đây, hề! Ta cứ say
“Biết đâu Hoàng lại chiều nay gặp Hoàng”.

(Sài Gòn, 10-10-2006)


~~oOo~~


 

Huế Tình Đầu

Ai xa Huế mà không nhớ Huế
Nhớ chuông chùa Diệu Đế, nhớ Văn Lâu
Nhớ Trường Tiền da diết sáu nhịp cầu
Nhớ Kim Long, nhớ bến đò Thừa Phủ.
Nhớ dốc Nam Giao, nhớ bờ sông Bến Ngự
Nhớ Hàng Bè, Thượng Tứ, nhớ Bao Vinh
Nhớ sông Hương chan chứa thiết tha tình
Nhớ thông reo đỉnh Ngự Bình gió mát.
Nhớ Tịnh Tâm, hồ sen bát ngát
Nhớ đò Cồn, An Cựu, Chợ Dinh
Nhớ con đường Vỹ Dạ bóng cây xanh
Nhớ Gia Hội, Đông Ba, Hàng Me, Đập Đá.
Nhớ Ngự Viên, nhớ Nội Thành, Mang Cá...
Huế của ta ơi, biết nhớ mấy cho vừa!

Ai xa Huế mà không thương Huế
Thương mẹ già lặn lội mùa Đông
Thương em thơ đi học mưa dầm
Thương chị, thương anh mùa hè cháy nắng
Thương bữa cơm nghèo, nồi canh mướp đắng
Thương dĩa mắm cà, con cá thệ kho khô...
Huế của ta ơi, thương biết chừng mô!

Ai xa Huế mà không mơ về Huế
Dạo bước trên cầu áo trắng tung bay
Vành nón nghiêng nghiêng che mái tóc mây
Ánh mắt trong veo dòng Hương gợn sóng
Đêm trăng hè trời cao lồng lộng
Chiều thu êm tím ngát cả không gian
Tiếng hò trên sông ngơ ngẩn bàng hoàng
Hò ơ hò... chiều chiều trước bến...
Mơ sớm mai chèo đò qua cồn Hến
Trái bắp tươi non, nấu chén chè thơm
Dĩa bánh bèo tôm chấy hồng ươm
Đợi cơm hến, bánh canh, bánh ướt...
Nhớ biết mấy, những món quà quê hương
không gì thay thế được
Dải đất quê nghèo mà mặn nồng yêu thương
Ai đã từng uống nước sông Hương
Ai đã từng hưởng ngọn gió chiều đỉnh Ngự
Ai đã từng bước đi trên những con đường tình tứ
Ai đã thả hồn trên những chiếc võng âm thanh
Ai đã đắm say tình Huế quê mình
Dẫu xa xôi mà không mơ về Huế
Huế tình đầu thơm ngát, Huế yêu ơi!


Hoàng Hương Trang
 

~~oOo~~

 

 

Độc dược
(Túy ca 10)

Mang nhiều mộng ước vào đời
Anh đem độc dược cho tôi ươm sầu
Đời tình như trận mưa mau
Trái tình đã hái nhưng mầu còn xanh
Những ngày vừa mới yêu anh
Ngỡ mình tạc tượng, khung tranh đời đời
Bây giờ vườn lá thu rơi
Khung tranh ẩm mục, nụ cười mòn rêu
Bây giờ mây xám vây chiều
Lá bay xào xạc tin yêu mỏi mòn
Trái sầu lập thể chon von
Bước chân thần thoại héo hon một đời
Tình yêu làm chết con người
Nâng ly độc dược tôi mời tôi say
Tuổi tình đáy cốc cuồng quay
Tôi giết tôi để tháng ngày nguôi quên
Mai này nằm xuống ngủ yên
Mồ xanh độc dược, ưu phiền đuổi xa!


(Sài Gòn, 1971)

Hoàng Hương Trang

 

~~oOo~~

 

Uống Rượu Trong Mưa

Tay nâng hứng giọt trời cao
Chén đầy thương nhớ, xin trao tới người
Uống say chén lệ đầy vơi
Rượu hay mưa ướt tình người tình ta
Mưa từ năm cũ mưa sa
Rượu từ ngày cũ chưa là cố nhân
Mưa cho ướt chiếu chăn nằm
Say cho quên hết đừng căm hận gì
Trong mưa lầm lũi bước đi
Trong men chếnh choáng ta vì nhau say
Mong cho mưa ngập lối này
Cho ta ngã xuống liệm đầy nước mưa
Rượu pha nước mắt tình xưa
Ta say đã mỏi, người chưa thấy về
Uống cho mắt lạnh môi tê
Uống cho thân xác ê chề đớn đau
Cơn mưa dã rượu vơi sầu
Lại đong chén nữa say nhầu trong mưa.


Hoàng Hương Trang


~~oOo~~

 

VÙNG TRỜI QUÊ HƯƠNG

Cánh chim anh những ngày say gió bão
Bay trên vùng đất nước thân yêu
Ôm quê hương miền Nam ruộng thắm
Dừa xanh tươi bến nước chợ chiều.
Bãi cát phẳng miền Trung biến động
Bóng thùy dương xõa tóc đìu hiu
Tháp vươn tay Chiêm nương trầm mặc
Những hoàng hôn máu nhuộm bãi chiều.
Và những trai anh hùng, gái lịch vui reo
Bước tiến bước, muôn lòng như một.
Lời ca vui mắt người chim hót
Có anh trai áo xanh tình mật ngọt
Súng trận trên tay giữ xóm giữ làng
Có anh trai áo đen sờn bạc
Trên chòi canh hướng mắt nhìn xa
Những mẹ già gánh củi về nhà
Những em gái em trai sớm chiều đi học.
Và những lúa ngô quí hơn vàng ngọc
Nuôi con thơ Hồng Lạc bốn ngàn năm.
*
Dưới cánh mỏng anh nghe tình biển mặn
Muối Sa Huỳnh, Hòn Khói trắng phau
Thôn xóm bình yên thẳng tắp hàng cau
Dừa rợp Tam Quan, xoài thơm Bình Định.
Dưới cánh mỏng anh nghe miền Lục tỉnh
Bưởi Biên Hòa vàng rực tháng giêng
Lúa Cà Mau, thạch động Hà Tiên
Bến nước Ninh Kiều tình thơm mùa hạ.
Xứ Tây đô đón lòng trai xa lạ
Viễn khách nghe buồn vọng cổ Trà Ôn
Chiều Tha La xứ trảng nhẹ vương hồn
Những Châu Đốc, Hà Tiên, Sóc Trăng, Rạch Giá.
Nắng tháng ba thuyền đơm đầy cá
Ngọt vô cùng thốt nốt, sầu riêng
Đôi cánh anh xuôi ngược trăm miền
Ôm ấp những giọng hò, câu hát.
Sông Hương sương thu bàng bạc
Áo trắng học trò xứ Huế nên thơ
Chiều Quảng Nam, Quảng Ngãi đợi chờ
Gió biển mặn Tuy Hòa mát rượi.
Đà Lạt chiều mơ, Kontum sương muối
Những Dakto, Daksut xa xôi
Những rừng thiêng núi thẳm muôn đời
Mùi gỗ quí thơm hương xứ mẹ.
Những cao nguyên bốn mùa gió nhẹ
Những đồng bằng ruộng lúa xanh non
Những ngô khoai, bắp đỗ vẫn còn
Tình mật ngọt quê hương ôm ấp nhé!
*
Anh còn vượt rừng, băng sông, lướt bể
Để tình ôm trọn vẹn sông Hồng
Dưới cánh anh sông núi vẫn tình chung
Ai chia cắt? Anh cố tình hàn gắn.
Đôi cánh mỏng dù súng gào đạn bắn
Nhưng tình yêu đất mẹ vững vô cùng
Trên mây cao nhìn xuống núi sông chung
Đây Vĩnh Bình, Nhật Lệ
Đây sông Nhị, núi Nùng
Mỗi tấc đất anh thu về thắng lợi.
Mỗi chuyến bay người yêu anh chờ đợi
Ngày tiếp ngày
Anh ôm bóng quê hương
Núi Bắc sông Nam nguyên vẹn tình thương
Anh còn đi, đi hoài
Giữ gìn trời bể.
Cho phù sa đất mẹ thắm muôn nơi
Cho gái sông Hương trai Hà Nội mỉm cười
Cho gió Sài Gòn thổi về Thanh Hóa.
Cho bát nước chè xanh thơm ngon khói tỏa
Cho cam Xã Đoài ngọt lịm bưởi Đồng Nai
Cho gạo thơm hai xứ Trong, Ngoài
Cho mắt em thơ Quỳnh Lưu hiền dịu
Cho những vì sao bầu trời không thiếu
Em hiểu không
Anh còn phải đi nhiều
Còn bay hoài che trời nắng lửa
Để chuyến tàu Nam Bắc đi về mỗi bữa
Để cốm thơm mùa cưới thu về
Để chiều hè diều giấy rợp bờ đê
Để đình đám hội hè tháng giêng tháng tám.
Để mẹ già đừng nhăn vầng trán
Để trai làng trẩy hội gái Lim xinh
Để trầu cau mai mối trao tình
Gió Tam Đảo, Ba Vì
Gió Hà Tiên, Phú Quốc
Trăng Bắc bộ sương mù
Trăng Nam phần sáng rực
Dệt thành trăng xứ Huế mơ màng
Dệt thành trăng Phan Thiết mênh mang
Như nắng Sài Gòn ngùn ngụt
Như mưa Thái Nguyên
Mưa Tuyên Quang buồn heo hút
Phơi ngô khoai, tưới ruộng lúa an lành
Nắng Sài Gòn phơi bắp đỗ ngoài Thanh
Mưa Hà Nội tưới ruộng vườn Đồng Tháp.
*
Anh còn xa
Còn đi
Còn bay hoài
Dù gió cuồng bão táp
Nhất định chưa về
Khi đất nước chưa bình yên
Cánh dù mỏng
Nhưng tim anh nung nấu lời nguyền
Quyết ôm ấp giữ gìn
Vùng trời xứ mẹ.
Vùng trời rộng bao la
Quê hương mình đẹp đẽ
Như những giòng thư em viết cho anh
Giòng thư em mang trọn màu xanh
Anh ôm ấp để thấy vùng trời cao cả
Để thấy rừng sâu sông dài
Sóng cồn trắng xóa
Là của anh, của em
Của người Việt chúng ta
Anh yêu mến giữ gìn
Không cho lũ giặc ngông cuồng phí phạm
Dù gian nguy bay vào lửa đạn
Anh vẫn cười ngạo nghễ trên cao
Dưới chân anh xương máu tuôn trào
Lũ bán nước quyết phải đền tội lỗi.
Đất nước mình một mai
Hết u buồn tăm tối
Anh sẽ về phố thị thăm em
Vùng trời đất nước bình yên
Bắc Nam chung một lời nguyền sắt son.


Hoàng Hương Trang
(trích tuyển tập Việt Nam Quê Hương Ta, Hội Văn nghệ sĩ Quân đội xb, SG,1969)

~~oOo~~

 

CHÉN TRĂNG KHUYA

Trăng về lay gọi hồn khuya
Nửa đêm nâng chén bốn bề tịch liêu
Rượu nhòa ánh bạc hắt hiu
Làm sao gửi được người yêu chén này
Biết bao giờ có đêm nay
Rót cho nhau chén rượu đầy ánh trăng?

 

~~oOo~~

 

NGHE HÁT QUAN HỌ Ở VĂN MIẾU

Áo tứ thân vui mùa trẩy hội
Nón thượng quai thao, tóc đuôi gà
Giọng bổng trầm quan họ ngân nga
Sân Văn Miếu, ngỡ Cầu Lim Nội Duệ

Hàng bia tiến sĩ im lặng thế
Rùa đá khum lưng gánh thời gian
Hồn xưa khoa bảng soi nghiêng bóng
Đâu đó ngựa quan tiếp võng nàng

Cô gái hát câu quan họ lý
Mắt lúng liêng” Người ở đừng về...”
Giải yếm bắc cầu bao thế kỷ
Quan nghè ruỗi ngựa bái vinh quy

Xốn xang chiêng trống như ngày hội
Khăn lược, áo the, yếm hoa đào
Bia đá mỉm cười, rùa vui bước
Giữa làn giai điệu tự thuở nao...

Cô gái cất cao lời thanh thoát
Phải chăng hồn đá cũng ngẩn ngơ
Hoa cỏ dịu dàng thơm bát ngát
Lời ca, bia đá, thật hay mơ ?

Hoàng Hương Trang
 

~~oOo~~

 

TRUYỆN NGẮN

TIẾNG TRỐNG DA TRÂU



https://giacngo.vn/userimages/2010/12/03/1/datrau.jpg

            Sau những năm sống cuộc đời lính, lúc ở rừng, lúc ở hang với rau rừng nước suối, có lúc hành quân qua những rừng cây trụi lá, đất bốc oi nồng, mùi thuốc khai quang, nóng rát, cứ như vừa qua một trận hỏa hoạn, không một con thú nào có thể sinh sống được, Vũ bị thương trong một trận đánh lớn, được đưa về tuyến sau chữa trị. Viên đạn đã được bác sĩ gắp ra từ ống xương đùi. Tuy vậy, vài mảnh bom li ti nằm bên sườn không gắp ra được…

Ngày kết thúc chiến tranh, anh giải ngũ với giấy chứng nhận thương binh, và trở về làng quê cũ… Mẹ già đã qua đời. Làng xóm tốt bụng vẫn coi giữ mái tranh nghèo có bàn thờ đơn sơ của mẹ anh…

Anh vội vã đi cám ơn làng xóm và hỏi thăm nơi mộ phần mẹ mình. Bà con cho biết nhà cửa anh được giữ gìn, mộ phần mẹ anh được vun đắp, vườn tược nhà anh được chăm tưới xanh tươi là nhờ bàn tay cô Vân - bạn anh năm xưa, vẫn thường xuyên lui tới với bà cụ trong bao năm anh vắng nhà, và cả sau ngày cụ mất.

Vũ bàng hoàng xúc động nhớ đến cô bạn thuở thiếu thời cùng nhau đi học mấy năm ở trường làng, cùng chăn trâu, cùng tắm suối, cùng thả diều trên rẫy - Biết bao kỷ niệm về cô bạn nhỏ có đôi mắt to tròn và chiếc răng khểnh duyên dáng. Cô bạn dễ thương ấy trước lúc anh lên đường nhập ngũ đã bạo dạn cầm tay anh và bảo: "Em chờ anh trở về…".

Chỉ có thế, một câu nói tưởng chừng bâng quơ đơn giản, người lính ở chiến trường đã bỏ quên trong bom đạn, nhưng người con gái mộc mạc quê mùa ấy lại vẫn nhớ, vẫn chờ…

Vũ tìm đến nhà Vân ở cuối xóm Đồi. Cha mẹ Vân đều đã mất trong thời chiến tranh chống Pháp, chỉ còn lại hai chị em làm nương làm rẫy nuôi nhau. Xuân - chị của Vân - chịu khó làm lụng, cố gắng cho em đi học trường làng. Vũ ngập ngừng đứng lại hồi lâu trước ngõ nhà Vân. Hàng dâm bụt năm xưa vẫn nở hoa đỏ thắm, chỉ có khác là trước ngõ giờ đã có thêm khóm trúc vàng và giàn bông giấy nở đầy hoa tím. Nhìn vào sân, cây mận già vẫn đơm nhiều quả. Ngày trước anh và Vân đã cùng hái mận biết bao lần.

Tiếng chó sủa, người phụ nữ thập thò trong cửa liếp nhìn ra. Vũ nghĩ có lẽ là chị Xuân bèn lên tiếng:
- Chị Xuân ơi, em là Vũ đây! Em đến thăm chị và cô Vân…

Câu chào chưa dứt thì anh đã đến cửa liếp. Người phụ nữ bưng mặt khóc òa, anh bối rối:
- Chị Xuân, có gì xảy ra không chị? Sao chị lại khóc? Còn cô Vân đâu?

Người phụ nữ đã đứng tuổi, đổ ập trên vai anh nức nở:
- Em là Vân đây… chị Xuân em đã vào thanh niên xung phong và hy sinh rồi anh ạ.

Vũ sững sờ, bối rối, cứ đứng trơ trơ như tượng đá. Trên vai anh ấm nóng và nằng nặng. Người con gái vẫn khóc như chưa bao giờ được khóc, để trút hết bao nỗi niềm chất chứa trong lòng. Chờ cho Vân nguôi đi, anh nhẹ nhàng nâng đầu cô bạn gái năm xưa nhìn thật gần để tìm những nét thân quen ngày nào… Anh đau đớn nhận ra khuôn mặt xinh xắn năm xưa, nay đã sạm màu mưa nắng, đôi mắt không còn to đen lay láy như ngày nào. Duy chỉ còn chiếc răng khểnh cho anh cảm nhận sự duyên dáng quen thuộc. Anh dịu dàng:
- Anh không ngờ sau chiến tranh, làng xóm ta nhà nào cũng mất mát nhiều quá, nhà nào cũng có bàn thờ và bằng liệt sĩ, Tổ quốc ghi công. Ruộng rẫy xác xơ tiêu điều, có lẽ thiếu người lao động phải không em?

 

Vân chỉ gật đầu, cô lặng lẽ nhìn ngắm thật kỹ khắp người Vũ xem anh có còn nguyên vẹn hay không. Vũ hiểu ý, anh dìu Vân đến ngồi trên ghế, rồi đến trước bàn thờ cha mẹ Vân và chị Xuân, đốt ba nén nhang cắm lên và chắp tay lâm râm khấn vái:
- Thưa hai bác, thưa chị Xuân, xin hai bác và chị cho phép Vũ và Vân được thành gia thất, xin hai bác nhận ở con lòng chân thành…

Vân đã đến đứng bên cạnh anh, cô hỏi khẽ:
- Bao nhiêu năm em không hề có tin tức anh, nên không biết anh đã có gia đình chưa? Tuy nhiên lời em đã hứa chờ anh, em vẫn chờ, em vẫn đến với mẹ và mẹ cũng coi em như dâu con, do đó em vẫn an lòng đợi anh…

Vũ quay lại nhìn Vân:
- Chiến tranh ác liệt, cái chết chực chờ, anh đâu có lòng dạ nào nghĩ đến chuyện lập gia đình. Bây giờ anh đã về, anh đã bị thương tật một chân nhưng may không què cụt. Anh cũng đã vừa xin hai bác và chị Xuân chấp nhận anh là con trong nhà, chẳng biết em có nhận lời không? Giờ cả hai ta cũng đâu còn ai nữa…?

Vân đưa cả hai bàn tay chai khô ráp đặt lên hai vai anh, nhỏ nhẹ trả lời:
- Em đã làm dâu mẹ bao năm rồi, khi mẹ mất em đã xin phép làng xóm cho em thọ tang để mẹ khỏi tủi thân. Sao anh còn gọi ba mẹ em là "hai bác".

- Ồ, anh thật vô ý. Em bỏ qua cho người lính vụng về. Từ đây anh gọi là ba mẹ…

Một nếp nhà tranh đơn sơ nhưng gọn gàng ngăn nắp, mái bếp tỏa khói ấm nồng, đôi vợ chồng anh thương binh sống chan hòa hạnh phúc. Cây cỏ vườn tược xanh tươi, họ cùng nhau ngày ngày trồng khoai, trồng lúa, đào ao thả cá, đời sống ngày một tốt hơn. Họ chỉ còn ao ước có một mụn con để chăm chút thương yêu. Họ cũng biết đã sắp hết khả năng sinh nở rồi. Bao nhiêu năm chiến tranh đã cướp mất quãng đời thanh xuân của họ. Mãi gần hai năm trôi qua Vân mới có bầu. Họ sung sướng vô ngần, thầm cám ơn Trời Phật, cám ơn cha mẹ đã phù hộ. Họ sắp được làm cha làm mẹ rồi. Họ cố gắng làm lụng tích lũy để sau này có thể nuôi con học hành nên người. Biết bao hy vọng tương lai. Những chiều muộn bên mâm cơm, họ nói về đứa con yêu quý sắp ra đời với bao lời trìu mến thiết tha.

Rồi ngày khai hoa nở nhụy cũng đến. Vũ đưa vợ ra trạm xá làng. Bụng Vân khá to, nhưng nhờ làm lụng hàng ngày nên cô vẫn nhanh nhẹn khỏe mạnh chứ không quá nặng nề.

Vũ gởi vợ ở trạm xá rồi trở về tranh thủ cuốc cho xong đám rẫy sắp xuống giống cho kịp thời vụ.

Vũ đang cắm cúi cuốc mong cho chóng xong còn về nấu cơm đem lên trạm xá cho vợ. Anh đồ chừng giờ này cô cũng bắt đầu chuyển dạ rồi. Bỗng thằng Tài con bà Thơm hàng xóm la oai oái trên đường làng:
- Chú Vũ, chú Vũ, mau lên trạm xá, cô Vân sinh rồi, mẹ cháu đang ở trên ấy, chú nhanh lên!

Vũ ném cuốc, vui mừng quá, bỏ quên cả bình nước bên bụi cây chạy như bay, quên cả cái chân đã bị thương thỉnh thoảng vẫn còn đau những lúc trái gió trở trời.

Trạm xá kia rồi, Vũ nhảy thoắt lên thềm. Bà Thơm đứng dang cả hai tay chặn cửa, miệng la bài hải không cho Vũ vào:
- Khoan vào đã Vũ! Nghe bác nói đã nào!

Vũ đứng khựng lại, vừa thở hổn hển vừa hỏi bà Thơm:
- Sao rồi bác? Vợ cháu sinh trai hai gái? Cô ấy khỏe không? May có bác ở đây chắc cô ấy cũng đỡ sợ. Cháu chỉ về cuốc chỗ vạt đất dang dở mà không kịp. Gớm! con so mà cũng nhanh quá bác nhỉ?

Mặt bà Thơm lạnh tanh, hai mắt bà cụp xuống. Vũ như linh cảm có chuyện gì, anh lay hai vai bà:
- Sao thế bác? Có chuyện gì à? Để cháu vào xem sao…

Bà Thơm lại ngăn Vũ:
- Khoan đã, nghe bác nói đây, nó sinh một lúc hai thằng cu, con ạ… Nhưng sinh khó quá, nó cũng lớn tuổi rồi mà… một đẻ ngược, một đẻ xuôi, băng huyết ồ ạt, đường từ đây lên huyện quá xa, giờ này làm gì có xe cộ nữa, ở đây chỉ là trạm xá làng, thiếu thốn mọi thứ, mặc dầu cô mụ đã cố gắng hết sức, nhưng con ơi… nghe bác nói đã… sống chết có số trời định cả rồi, con hãy bình tĩnh rồi bác đưa vào vuốt mắt cho vợ con…

Vũ gào lên:
- Sao? Vợ cháu chỉ sinh bình thường thôi sao lại chết được? Còn hai cháu bé sinh đôi đâu? Cháu phải vào xem vợ cháu ra sao, con cháu ra sao?

Anh xô dạt bà Thơm sang bên, kéo cửa bước vào phòng trạm xá. Mùi máu tanh nồng hắt tận mũi. Trên giường trạm, một thi thể đã được đắp tấm vải. Bên dưới gầm giường vẫn còn lênh láng máu.

Vũ giở tấm vải đắp, ôm lấy xác vợ hãy còn nóng ấm, đôi mắt vẫn mở nhìn anh, chờ anh tới. Tóc tai cô tung xõa rũ rượi, mồ hôi còn ướt đẫm cả mớ tóc mai. Vũ nói nghẹn ngào trong nước mắt:

- Vân ơi, em ơi, anh có ngờ đâu, một lần sinh con mà em đã bỏ anh, bỏ con. Rồi đây anh biết làm sao để nuôi con đây? Sao trời lại bất công với em quá, bao nhiêu năm chờ đợi anh... em ơi!

Bà Thơm đã đến bên cạnh. Cô mụ giục Vũ:
- Thôi, đây là trạm xá, đừng khóc gào quá bà con sẽ sợ hãi anh Vũ ạ. Anh hãy vuốt mắt cho chị yên nghỉ đi, rồi nhanh chóng ra làm thủ tục đưa vợ về an táng và làm thủ tục khai sinh cho con anh.

Mãi đau đớn vì cái chết tức tưởi của vợ, anh quên mất con anh hiện ra sao. Anh chưa thấy nó. Anh nói với cô mụ:
- Cô làm ơn cho tôi thăm hai cháu.

Bà Thơm đưa mắt nhìn cô mụ như thầm hỏi có nên đưa Vũ sang xem hai đứa bé không? Cô mụ cũng lưỡng lự giây lát rồi đành nói rõ:
- Con của anh ấy mà, ruột thịt mà, dù sao cũng phải cho cha con gặp nhau chứ biết làm sao bây giờ hở bà?

Bà Thơm và cô mụ đi trước dẫn đường, Vũ theo sau. Cánh cửa phòng mở ra, ba người bước vào, tiếng Vũ thét lên:
- Con tôi đây sao? Trời ơi..., sao lại thế này?

Bà Thơm phải đỡ Vũ mới khỏi ngã quỵ xuống.

Trên mặt bàn trải tấm chăn bông trắng, hai đứa hài nhi đỏ hỏn, một đứa ngọ ngoạy hai tay, một đứa nằm im không nhúc nhích, cả hai đều dị dạng. Đứa ngọ ngoạy có vẻ khỏe mạnh hơn, chiếc đầu to không có mắt, hai hố mắt bằng phẳng, liền da như ai đã dán băng keo lên đó, hai tay có dạng bình thường ngo ngoe liên tục, nhưng lưng thì cong vẹo, xô chiếc bụng nghiêng lệch sang một bên, còn hai chân thì nhỏ xíu và teo lại hình như không có xương ở trong đó. Chỉ riêng bộ phận sinh dục minh chứng nó là con trai. Còn đứa thứ hai, không mắt không mồm, tay chân đều nhỏ xíu không có xương, nằm bất động chỉ còn thoi thóp thở nhè nhẹ rồi lịm dần chỉ vài ba phút sau đó, người nó lạnh dần và tím tái. Cô mụ bảo:
- Cháu đã không thể sống nổi rồi, còn cháu này may ra có sức khỏe hơn, anh cố nuôi cháu, trong nhà có tiếng trẻ thơ cũng vui.

 

Cô mụ bỗng hỏi Vũ:

- Anh là thương binh phải không?

- Dạ!

- Anh ở chiến trường hay hậu trạm?

- Tôi đi tác chiến mới bị thương chứ ạ!

- Ừ nhỉ, xin lỗi, tôi quên. Thế nơi anh đóng quân là rừng núi hay đồng bằng?

- Dạ, toàn rừng là rừng, rừng trụi lá, chẳng có cây nào sống nổi, cũng chẳng có chim chóc hươu nai gì sống nổi, trơ sỏi đá, nóng hầm hập cứ như cháy rừng ấy cô ạ.

Cô mụ gật đầu:
- Ấy là bị rải thuốc khai quang diệt cây cỏ rồi… thảo nào… thảo nào…

Ấy thế mà cái khối thịt đỏ hỏn chỉ ngo ngoe hai tay ấy đã được anh Vũ chăm sóc, bồng bế đi xin sữa khắp làng… rồi cũng lớn dần… Nhưng cháu không đi được, không nhìn được, cháu chỉ nghe, chỉ nói ngọng nghịu, chỉ có hai tay là toàn vẹn nhất trong cơ thể. Lưng vẹo nên nó chỉ nằm một chỗ. Tuy vậy hai tai nó lại nghe rất thính, nghe rất xa.

Một hôm làng mở hội xuân, tiếng trống rộn ràng, nó lắng nghe rồi hỏi Vũ:
- Ba ơi, tiếng gì nghe rùng rùng, bùng bùng vậy ba?

- À, đó là tiếng trống hội làng đó con.

Nó ngạc nhiên:
- Tiếng trống hả ba? Trống là cái gì ba?

Anh Vũ tìm cách giải thích cho nó hiểu:
- Cái trống làm bằng gỗ, bên trong rỗng, hai đầu bịt bằng da trâu, đánh lên nghe to lắm con ạ. Khi nào có hội hè thì mới đánh lên cho cả làng đến dự hội.

Thằng bé vẫn còn thắc mắc:
- Hai đầu trống bịt bằng da trâu hả ba? Đánh bằng hai tay hả ba? Đánh vậy đau tay lắm phải không ba?

Anh Vũ ôm lấy con mà cười:
- Người ta làm hai cái dùi bằng gỗ để đánh mới kêu to vậy con ạ. Tội nghiệp con của ba không thể nào đi lễ hội để thấy cái trống làng.

Thằng bé lại cười hồn nhiên:
- A ha! Ba quên rồi, con đâu có thấy cái trống được, con chỉ nghe tiếng trống thôi!

Đó là những giây phút hai cha con cười đùa vui vẻ với nhau. Hàng ngày, Vũ bận rộn đi làm rẫy, đến hết buổi về nấu cơm hai cha con ăn với nhau rồi anh lại ra hồ cá chăm sóc đàn cá.

Riêng thằng bé từ khi được cha giải thích cho nó biết về cái trống, nó vô cùng thích thú, suốt ngày cứ dùng hai tay vỗ xuống giường, đánh trống mồm "Tùng tùng, cắc, tùng tùng…" không ngớt. Đó là trò chơi nó thích thú nhất.

Rồi mùa thu đến, bọn trẻ trong làng kéo nhau đi rước đèn, đánh trống, cười đùa ầm ĩ ngoài đường làng. Thằng bé lại hỏi cha về những cái trống bọn trẻ đang chơi ngoài kia với một vẻ thèm thuồng thích thú. Nó khao khát, mơ ước có một cái trống để đánh lên, kêu thật to, cho mọi người nghe thấy và biết có nó đang ở đây.

Trước nỗi khát khao tột cùng của đứa con bất hạnh, Vũ đành phải hứa liều sẽ làm cho nó một cái trống. Vì quá thương con, anh không quản khó nhọc, lò dò ra tận xóm Đình hỏi cụ từ giữ đình về cách làm trống. Rồi anh cất công đi kiếm gỗ tốt; lên tận lò mổ trâu bò trên huyện nằn nì xin được hai miếng da trâu. Dưới sự chỉ bày của cụ từ giữ đình, anh đã mày mò làm được một cái trống da trâu, cỡ bằng cái khạp gạo, mang về cho thằng bé.

Làm sao quên được nét mặt rạng rỡ vui sướng của thằng bé tật nguyền tội nghiệp ấy, khi cha nó hớn hở chạy về trao cho nó cái trống khá to so với cơ thể nó. Rồi sau đó cha nó đã dạy nó ôm cái trống trên bụng, một tay giữ trống, một tay cầm dùi đánh. Tiếng trống đầu tiên vang lên, hai cha con ôm nhau cười ha hả. Kể từ đó thằng bé như được sống trong một cõi thần tiên! Nó suốt ngày đùa vui với cái trống. Vũ lại ra công dạy con hát nhiều khúc đồng dao, nhiều câu hát lý để nó vừa hát vừa đánh trống nhịp nhàng.

Ít lâu sau, anh dạy thằng bé đánh trống theo ám hiệu. Thường anh phải đi làm ngoài rẫy, nó ở nhà một mình với cái trống. Anh dạy nó khi có ai đến nhà tìm anh thì nó đánh nhịp ba "Tùng tùng tùng, cắc, tùng tùng tùng…" để gọi anh về. Khi có việc cấp bách, như có chó vào nhà hay hỏa hoạn, thì nó đánh trống liên hồi cấp bách là anh chạy về ứng cứu ngay. Còn thường ca hát hay chơi một mình thì chỉ chơi nhịp hai,chầm chậm, nhẹ nhàng, anh ở ngoài rẫy nghe là yên tâm. Khi nào không nghe tiếng trống là anh biết nó đang ngủ.

Rồi tiến tới là anh dạy nó học chữ, học số bằng viên phấn cầm tay nắn nót cho nó viết trên mặt trống. Chủ đích của anh là chỉ tìm cho nó một niềm vui để quên đi kiếp sống dị dạng tật nguyền. Nhưng thằng bé rất chăm chỉ, nắn nót rờ rẫm trên mặt trống, nó ghi nhớ rất nhanh. Dần dà, nó đã viết được những câu ngắn trên mặt trống, mặc dầu nó không hề thấy chữ nó viết.

Một hôm đi làm rẫy về, anh bỗng sững sờ thấy trên mặt trống ghi dòng chữ xiên xẹo: "Ba ơi, con thương ba lắm." Vũ đã khóc lặng đi vì quá xúc động.

Từ đấy, cái trống da trâu vừa để cho thằng bé đánh trống "tùng tùng" và hát những bài đồng dao, những bài ca dao, mặt trống cũng là cái bảng đen để nó vui học. Không những thế, nhờ có tiếng trống và những câu hát ngọng nghịu ngây ngô của mình, nó đã có rất nhiều bạn trong xóm lân la đến chơi. Trước đây không một đứa bé nào dám mon men đến nhà Vũ vì rất khiếp hãi thằng bé. Lỡ khi nào cha mẹ có việc gì dắt chúng đến tìm ba của thằng bé thì chúng sợ sệt nép vào người lớn chứ không dám đến gần. Nhưng từ khi có tiếng trống vang xa, đã mê hoặc, quyến rũ chúng đến chơi với thằng bé. Thằng bé dạy cho bạn hát và đánh trống. Có hôm Vũ đi làm về chợt thấy năm, sáu đứa bé hàng xóm đang say sưa vừa múa vừa hát, còn thằng con anh thì đánh trống nhịp. Chúng chơi với nhau thật vui vẻ hồn nhiên, như không còn cái ranh giới sinh động và nằm liệt. Thằng bé học tiến bộ rất nhanh, mặc dầu chỉ có đôi tay mò mẫm chứ không có mắt. Nó cũng mỗi ngày ca hát thêm nhiều bài. Ngoài những khúc đồng dao, ca dao do Vũ dạy, các bạn cũng dạy nó thêm những bài hát ở trường học. Thằng bé sống vui vẻ, hồn nhiên, yêu đời và sinh động hẳn lên. Nó như quên đi những bất hạnh đè nặng lên số phận nhỏ bé của mình.

Năm lên tám thì tự nhiên một cánh tay thằng bé yếu dần rồi mềm nhũn và teo lại. Thế là nó chỉ còn một tay, và sức khỏe nó cũng yếu dần đi, may mà niềm đam mê vào cái trống da trâu vẫn còn nguyên vẹn trong cái cơ thể điêu tàn ấy. Vũ rất lo buồn, anh đã bế thằng bé đi nhiều bệnh viện huyện và cả ở tỉnh, nhưng nơi đâu cũng không giúp gì được cho nó. Tội nghiệp thằng bé, sợ ba nó buồn lo, nên dù sức khỏe đã yếu đi nhiều, hàng ngày nó vẫn cố gắng đánh trống với cánh tay yếu ớt còn lại, đánh trống để ba nó ở ngoài đồng, trên rẫy nghe thấy sẽ yên lòng, đánh trống để các bạn nghe thấy may ra có đứa nào nghỉ học thì chạy đến chơi với nó.

Một hôm làm đồng cả buổi mà Vũ không nghe tiếng trống của thằng bé, anh nghĩ là nó đang ngủ, dạo này nó yếu nên ngủ nhiều. Nhưng càng đến trưa, đã đứng bóng rồi, vẫn không nghe tiếng trống, có bao giờ nó ngủ lâu như vậy? Anh lo lắng, bỏ cuốc chạy về. Nhà yên ắng không một động tĩnh gì, Vũ vừa chạy vào sân vừa gọi con:
- Con ơi, con ngủ hay thức? Sao không đánh trống cho ba nghe?

Nhà vẫn yên ắng, không có tiếng thằng bé đáp lại, khác hẳn với mọi khi, nghe tiếng ba về là nó líu lo ngọng nghịu hỏi đủ thứ, khoe đủ thứ nó làm gì, bạn nó vui chơi trò gì…

Thằng bé nằm im, co quắp rất tội nghiệp, cái lưng vốn đã vẹo vẹo, bây giờ như gồ hẳn lên, vẹo vọ hơn, đầu nó ngoẹo sang một bên, bọt mép sùi ra. Nó đã tắt thở từ lúc nào!

Vũ ôm lấy xác con, bế thốc thằng bé lên lòng, gục đầu vào ngực con khóc tức tưởi. Dù rằng anh biết ngày cuối cùng này rồi cũng xảy ra, vì thằng bé sức khỏe kém dần, nó ăn uống ít dần, nhưng anh không ngờ nó đi nhanh chóng quá, và lại ra đi lúc anh không có mặt bên cạnh nó. Vũ không biết lúc ra đi nó có đau đớn quằn quại gì không? Thôi đành vậy…

Khi Vũ đặt con nằm ngay ngắn xuống giường, kéo tấm chăn đắp lên mình con, thì bắt gặp cái trống nằm nghiêng trên đầu giường. Khi với lấy cái trống, Vũ kêu lên đau đớn:
- Trời ơi, con của ba, trước khi ra đi con còn nhớ thương ba nhiều thế này sao? Trên mặt cái trống, dòng chữ nguệch ngoạc bằng phấn trắng nổi bật trên màu xám của tấm da trâu: "Con thương ba lắm" - chỉ bốn con chữ cuối cùng đơn sơ nó để lại cho ba nó. Có lẽ với sức yếu ớt như thế, nó phải cố gắng lắm, đem chút hơi tàn lực kiệt để viết nên dòng chữ này.

Vũ đọc đi đọc lại dòng chữ trên mặt trống: "Con thương ba lắm… Con thương ba lắm", anh như trong cơn mê, trong nỗi đau đớn tột cùng.

Kể từ ngày đứa con dị dạng tật nguyền mà Vũ đã thương yêu hết lòng hết sức qua đời, ngôi nhà đã trống vắng như càng trống vắng hơn. Chiếc bàn thờ đơn sơ bằng gỗ tạp, nơi thờ Vân bây giờ có thêm một bát nhang và cái trống da trâu, vật kỷ niệm duy nhất của con anh để lại, trên đó vẫn mang dòng chữ "Con thương ba lắm" anh cố trân trọng giữ gìn cho đừng bị phai mờ nét phấn. Mỗi buổi đi làm rẫy về, anh lầm lũi nấu cơm, bữa ăn nào anh cũng xới một bát cơm đặt trước cái trống, rồi đốt nhang gọi con về ăn cơm. Mỗi khi nhìn đến cái trống, Vũ không khỏi rơm rớm nước mắt và lẩm nhẩm đọc: "Con thương ba lắm", rồi anh tự trả lời như đang nói với con: "Ba thương con lắm".

Từ ngày thằng bé dị dạng mất đi, trong xóm không bao giờ nghe tiếng trống da trâu nữa.
 

Hoàng Hương Trang

(*) Tác phẩm đạt giải nhì giải cuộc thi Văn-Thơ Phật giáo "Hướng về 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội" do báo Giác Ngộ tổ chức
 

 

 

~~oOo~~

 

NHẠC

 

CHIỀU TƯỞNG NHỚ

 

Thơ Hoàng Hương Trang

Nhạc Lan Đài

Tiếng hát Minh Nhơn

 

 

 

CHIỀU TƯỞNG NHỚ

Chiều đi lặng lẽ
Thương nhớ muôn bề
Khi người yêu đã chết
Nhạc thu chưa thấy về

Chiều buông mờ sương
Quạnh vắng phố phường
Khi người yêu đã chết
Nhạc tình sao luyến thương

Bàn tay đâu tìm không thấy nữa!
Bờ môi đâu, mắt đâu ôi tìm đâu!
Dấu chân anh xa vời vợi
Nghìn muôn xưa quên lãng rồi

Hồn chìm tưởng nhớ
Dòng thư xanh mờ
Hôn tình thư anh viết
Gửi em xưa đến giờ

Chiều đi lặng lẽ
Mộ chí hoa tàn
Ôi màu hoa tang trắng
Liệm tình em nát tan

Thơ Hoàng Hương Trang
Nhạc Lan Đài

 

~~oOo~~

 

 

 

 

 

 

 

 

~~oOo~~

 

CHÂN DUNG

Thơ Hoàng Linh Bảo

Hoàng Hương Trang diễn ngâm

 

 

 

~~oOo~~

 

NGHE QUAN HỌ Ở VĂN MIẾU

 

Thơ Hoàng Hương Trang

Nhạc Quỳnh Hợp

Tiếng hát Trang Nhung

 

 

 

 

 

 

 

~~oOo~~