Thơ Miền Nam
trong thời chiến (1) là một cuốn sưu tập thơ đồ sộ, dày 856
trang, quy tụ 263 tác giả, người c̣n kẻ mất, nơi quê hương
hay hải ngoại. Có người qua đời trên chiến trường giữa tuổi
thanh xuân. Sách do Thư Ấn Quán sưu tập và phổ biến, do nhà
văn Trần hoài Thư và bè bạn dày công tầm nă từ những trang
báo cũ ngày nay ly tán.
Lời nhà xuất bản :
”Đây là những trang thơ được sưu tập từ một thời kỳ đen
tối của quê hương, khởi điểm bằng lệnh tổng động viên và
chấm dứt bằng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Hy vọng tập sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những
nhà phê b́nh văn học, những người nghiên cứu văn học sử, và
những ai chưa có dịp tiếp cận với nền văn chương Miền Nam
trong thời chiến tranh để họ có cái nh́n rơ và đúng đắn hơn
về một ḍng văn chương t́nh tự, rất là tự do, khai phóng,
sáng tạo và nhân bản”.
Sưu tập không phải là tuyển tập, không có chọn lọc ư thức về
mặt nghệ thuật hay quan điểm. Dĩ nhiên là tính khách quan
bao giờ cũng tương đối: đă sưu tầm, th́ mặc nhiên phải có
lựa chọn, dù chỉ trong tâm cảm hay tiềm thức. Nhưng quư hồ
là người sưu tầm không có thành kiến hạn hẹp.
Như vậy, cuốn sưu tập phong phú, đa dạng và có nhiều ưu
điểm, xin khuyên ngay một điểm hồng và một điểm son.
Điểm hồng: non ngàn bài thơ không có bài nào thật dở. Công
b́nh mà nói, ở đời, thơ dở bao giờ cũng nhiều hơn thơ hay.
Điểm son: khi nghe đến “thời chiến” người ta nghĩ ngay đến
chiến tranh, chiến đấu chống cái ǵ. Sách sưu tập không có
bài thơ nào tuyên truyền, thỉnh thoảng có đôi chữ “quân thù”
trong nghĩa đối phương, đối thủ, tự nhiên phải có trong
chiến cuộc.
Nhà văn Phạm văn Nhàn, người cùng góp công vào công tŕnh,
đă viết:
“ Với hằng trăm bài thơ mà chúng tôi đă t́m được của hơn 200
nhà thơ trước 1975. Họ là ai? Là nhà báo, là thầy giáo, là
công chức, là quân nhân (đa phần bị gọi nhập ngũ). Nhưng qua
những bài thơ của những nhà thơ trước 1975 hầu hết là quân
nhân không bao giờ mang tính cách hận thù hay kích động hận
thù trong ḷng người đọc, đó là nhân bản. Mà thơ họ vẫn nói
lên được: thân phận, chiến tranh, t́nh yêu đích thực của một
nền văn học” (2).
Lại công b́nh mà nói: Miền Nam thời đó, không phải là không
có thơ tuyên truyền, nhưng v́ không mấy người ưa, không mấy
ai nhớ, ban sưu tập không ghi lại, cũng là duy lư.
Tuy nhiên, nếu nhất thiết phải t́m cho ra một lập trường
chính trị cho thơ Miền Nam, th́ nó là: khát vọng ḥa b́nh,
khát vọng này mang theo những hệ luận: t́nh yêu quê hương,
gia đ́nh, vợ chồng, nam nữ, bạn bè, đồng đội. Dường như
không có một ngoại lệ nào qua sưu tập. Một “lập trường” như
thế dĩ nhiên là “nhân bản” và cao quư. Nhưng người yêu nền
thơ nọ không phải v́ cái nhân bản kia, mà v́ thơ hay, hoặc
v́ nhiều đặc điểm lư thú. Ngày nay, nếu các bạn nêu cao ngọn
cờ “nhân bản tự do” th́ ra chỗ “tránh vỏ dưa đạp phải vỏ
dừa”. Cái bẫy bên trái hay bên phải vẫn là cái bẫy.
Khi anh dùng thơ để phục vụ hay biện minh cho cái ǵ đó, th́
khó có được thơ hay.
Khi đuợc câu thơ hay th́ không những là biệt lệ, mà cái hay
không ăn nhập ǵ vào ư đồ của anh, thậm chí có khi c̣n đi
ngược lại.
Năm 1966, chiến tranh Việt Nam lên cao điểm, nhà thơ Kiệt
Tấn cho in tập thơ Điệp Khúc t́nh yêu và trái phá,
cái tên rất nổ, trong đó bài Biết bao giờ, bắt đầu và
kết thúc như sau:
Khi hơi thở vàng về đậu lên màu đỏ màu đỏ về đậu trên cây
điệp
cây điệp về đậu trên kư ức
(...)
hăy nằm im
và đừng hỏi
tại sao
đừng hỏi tại sao
những con ruồi say nắng
rụng cánh
nằm chết
trên bàn tay ấm áp của mùa hè
(tr.233)
Bài thơ hay, tân kỳ và độc đáo, v́ tác giả không biện minh
cái ǵ cả. Chỉ là mùa hè đang về trong tâm tưởng. Câu thơ
hay như một cành hoa dại, nở tung trong một khí hậu, không
gian thơ. Cần một không gian, một khí hậu, mới thể hiện được
hồn thơ, bừng nở câu thơ.
Tham vọng của sách Thơ Miền Nam trong thời chiến là
ghi lại những tác phẩm đang xiêu lạc, của một số tác giả ít
được biết đến, mai kia sẽ ch́m trong quên lăng. Nó là “nguồn
tài liệu cho những nhà phê b́nh, những người nghiên cứu”.
Tham vọng cũng là tâm vọng của người biên tập “suốt cả
mấy trăm trang với trên 220 tác giả, ngồi đánh lại như gơ
ngay vào chính tim ḿnh những điều đau buốt lẫn bồi hồi. Tội
t́nh cho cả một thế hệ. Chiến tranh nào có ǵ vui” (3).
Tham vọng không những đă thành tựu mà c̣n được vượt qua:
cuốn sưu tập không những là một nguồn văn liệu, nghĩa là
những văn bản chết, một văn miếu. Nó c̣n là một nguồn sống
cho thơ. Nó tạo được chất thơ cho đời sống, như dưỡng khí
cho cỏ cây. Nguồn thơ đích thực gặp địa lư thuận lợi sẽ
thành sông thành biển; nhưng gặp nghịch cảnh, có khi đành
lẩn khuất vào mô đất nọ để một mai tái hiện nơi núi đồi kia.
Những ai, như tôi, nghĩ rằng thơ cần cho đời sống, là thành
phần của đời sống, sẽ cùng tôi biểu dương công tŕnh, và
công t́nh, của ban sưu tầm và biên tập; việc làm của các bạn
đă đưa đến những thành quả vượt quá dự án. Những “hiệu ứng
cánh buớm” có thể các bạn thoạt kỳ thủy không nghĩ đến.
*
Đă là thơ thời chiến th́ phải nói đến chiến tranh. Vậy thơ
ấy nói ǵ về khói lửa? Xin lấy bài Phan xuân Sinh làm ngày
Tết 1972, Uống rượu với người lính Bắc Phương làm
tiêu biểu :
Hăy rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí
Chuyện ngày mai có chi đáng kể
Dẹp nó đi cho khỏi bận tâm
Thằng lính nào mà không rét lúc ra quân
Khi xung trận mà không té đái
(...)
Những thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn hay thù chẳng có một lằn ranh
(tr. 617)
Ṭ ṃ tôi hỏi: thời điểm 1972, chiến cuộc tàn khốc, sao có
chuyện nhậu nhẹt? Và được nhà thơ trả lời: Chuyện xảy ra tại
huyện Dục Đức, tỉnh Quảng Nam, vào ngày Tết. Hai bên hưu
chiến da beo, mỗi đơn vị giữ nguyên vị trí, ngưng bắn để ăn
Tết. Bỗng dưng có tiếng bên kia chúc Tết bên này, và bên này
đáp lại. Thế là Phan xuân Sinh hứng chí làm bài thơ trên.
Bữa tiệc chỉ xảy ra trong tâm tưởng – v́ như vậy bài thơ mới
có giá trị tinh thần. Chén rượu rót vào thực tại, lại là
chuyện thường t́nh giữa những người lính... say.
Gặp địch quân nam phái th́ nhậu. Gặp đối phương khác phái
th́... làm ǵ? Nhà thơ Linh Phương, nổi tiếng với bài Kỷ
vật cho Em được Phạm Duy phổ nhạc, đă kể trong bài
Hành Quân :
Dăm thằng đánh trận. Dăm thằng chết
Chỉ sót ḿnh ta cứ sống nhăn
Đù má, nhiều khi buồn hết biết
Lo măi sau này cụt mất chân.
Chiều qua sém chết v́ viên đạn
Du kích bên sông bắn tỉa hù
Cũng may gặp phải thằng cà chớn
Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô.
Nhớ hôm bắt được em Việt cộng
Xinh đẹp như con gái Sài g̣n
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân.( !)
(tr. 305)
Trong từ vựng này, cà chớn, giang hồ, hảo hán, cùng một nội
hàm.
Dĩ nhiên những thái độ buông thả nói trên không tiêu biểu
cho cuộc chiến ác liệt, hay tinh thần chiến đấu, hay kỹ
thuật và kỷ luật quân sự của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Nhưng nó là sắc thái đặc biệt của một tâm lư. Tâm lư ấy là
nhược điểm trên bản đồ quân sự, mà là ưu điểm trên trang
thơ, bằng cớ là hơn một ngàn năm nay, người ta ngợi ca, ngâm
nga măi câu túy ngọa sa trường quân mạc tiếu của
Vương Hàn ; say sưa như vậy nhất định ông không phải là một
quân nhân thiện chiến.
Thơ về chinh chiến, xưa nay không ai theo kịp Đỗ Phủ, được
người người đời đời xưng tụng, nhưng không phải là thơ hô
hào chiến đấu. Việt Nam, cho dù có thật là « đỉnh cao trí
tuệ của loài người » cũng không thể tự đặt ḿnh làm ngoại
lệ, nói khác đi, sẽ làm tṛ cười cho thiên hạ.
Lẽ thường trong chiến tranh là thắng hay bại. Điều lạ trong
tập thơ này là không có chiến thắng, dù trong mơ ước hay
ngông nghênh. Ngược lại trong Kỷ vật cho Em, Linh
Phương hẹn với người yêu: mai mốt anh về, không bằng chiến
thắng… Mai anh về trên đôi nạng gỗ, bại tướng về làm gă cụt
chân, thậm chí c̣n có thể là: ḥm gỗ cài hoa (4).
Hồ Minh Dũng, với bài Khi giải ngũ về, đă nhắn nhe
với người t́nh, hay người vợ:
C̣n ba năm nữa anh sẽ về
anh biết chắc không c̣n quê hương để ở
em gắng sắm cho anh một cây đàn bầu
làm bằng nắp ḥm người lính nghèo
chết ngoài mặt trận
anh sẽ đàn cho mọi người cùng nghe
mà không xin tiền
chỉ t́m lại ngững đôi mắt trân tráo
những bước chân đi qua vỉa hè
với nụ cười mà nhiều năm anh đă mất
(tr. 166)
Những lời thơ bi thảm như vậy, so với thực tế sau này, vẫn
c̣n là lạc quan, thậm chí hoang tưởng: sau chiến tranh, chắc
ǵ trên vỉa hè, c̣n được tiếng đàn bầu và nụ cười? Nhưng
trên vỉa hè, sẽ có ( nhiều) người xin tiền.
Khát vọng thiết thân thời đó là ḥa b́nh, như lời người mẹ,
trong bài Đêm Giáng sinh ở Việt Nam, vẫn của Hồ minh Dũng:
Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con
cũng đem chiếc áo lành ra mặc
cũng ăn một bữa cơm cho no
cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu
khổ đau lúc này mẹ gói trong mo
Chữ ḥa b́nh, ta sử dụng ngày nay, là b́nh thường, thậm chí
là quy luật, sau chiến tranh. Nhưng thời đó là viễn vọng, là
huyền thoại, như những bồng lai, địa đàng:
Xin hăy đến đây đi
hỡi ḥa b́nh lạ mặt yêu dấu
sao người cứ kiêu hănh như giai nhân
hoài hoài lỗi hẹn
khi tuổi xuân chúng tôi chỉ có một lần
làm sao chờ được trăm năm
mà đến trăm năm c̣n ǵ xương máu anh em
Hà thúc Sinh, Xin hăy đến, ḥa b́nh (tr.141)
Ḥa b́nh là giấc mơ không tưởng, con người lúc ấy, như
Nguyễn Bắc Sơn, chỉ dám mơ ngày ngưng chiến (5) :
Mai kia trong những ngày ngưng chiến
ta chắc rằng không thể yêu ai
nhà thương điên nếu c̣n chỗ trống
xin chiếc giường cho xác tàn phai
(tr.401)
Trong bài Căn bệnh trong thời chiến này, Nguyễn Bắc
Sơn nói về mẹ:
Mày gửi một chân ngoài trận mạc
Mang về cho mẹ một bàn chân
Mẹ già khóc đến mù hai mắt
Đời tàn theo lứa tuổi thanh xuân.
Mẹ là t́nh thương muôn nơi, là thần tượng muôn đời. Nhưng
trong chiến tranh – và cuộc chiến Việt Nam này – người mẹ có
khuôn mặt riêng. Chỉ vài mươi năm, nó đă xa h́nh ảnh b́nh
an, xa màu “áo đỏ người đem trước dậu phơi” của Lưu
trọng Lư hay người mẹ ngồi “vá bên chiếc rổ thơm mùi cũ”
của Tế Hanh.
Nguyễn dương Quang trong bài Đêm cuối năm viết cho Má
:
H́nh như cây súng con lạ lắm
Sao nó run lên khi đạn lên ṇng
Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không ?
Trước mặt con: những ngọn đồi cát máu
Đêm th́ thầm cùng những nấm xương
Ôi, trái tim con măi tôn thờ má
Đă dạy con hai tiếng yêu thương
Từ má lỏng bàn tay d́u dắt
Con bơ vơ giữa cuộc phù sinh
Ḍng nước nào xa nguồn mà không đục
Sợ một mai con lạc dấu chân ḿnh
(tr. 428)
Tác giả ít được biết đến, nhưng bài thơ hay quá, chất trí
tuệ quyện vào tâm huyết, hồn nhiên mà điêu luyện. T́nh cảm
ch́m ch́m mà ư tứ lâng lâng. Trong sáng, sao mà u uất? Thơ
đích thực là điều đơn giản kỳ diệu « có nói cũng không cùng
».
*
Đă vậy, đành vậy, Thơ Miền Nam trong thời chiến, trong tất
cả bề thế của nó, nếu muốn « gói tṛn thương tiếc chiếc
khăn tay », ta có thể thu lại trong bốn chữ: « Thơ
Lính Học Tṛ », với tất cả nội hàm sâu lắng của mỗi chữ.
Thơ đây là thơ, đích thực, chân chính, không phải là lời nói
hoa mỹ, bắt thành vần vè. Thi nhân không phải là người thông
minh, uyên bác, sâu sắc, tài hoa, cho dù họ có thể có đủ các
đức tính ấy, hoặc ngược lại, không được cái nào cả. Họ là
một bộ tộc riêng, du mục trong thành phố hay « đầu thai
nhầm thế kỷ » như ta thường nghe nói.
Thơ là một phẩm chất của tâm hồn, trong cuộc sống, và cuối
cùng là của ngôn ngữ. Là thành phần cuộc sống, thơ phản ảnh
thời thế nhưng không phải là sản phẩm của thời thế, nhất là
của một chế độ, bất cứ chế độ nào.
Thế c̣n « lính học tṛ » là thế nào? Là cậu học sinh, từ sân
trường bước ngay vào quân trường, chiến trường, nhiều khi
chưa kịp kinh qua cuộc sống xă hội, trong các quan hệ nghề
nghiệp, t́nh yêu, hôn phối.
Trong mỗi cậu học tṛ mười lăm, mười bảy, đă có một người
lính mai phục đợi chờ. Và trong mỗi người lính về sau, vẫn
c̣n cậu học tṛ ẩn náu, dở dang. Lính học tṛ là vậy.Lính
học tṛ, trên đường hành quân với Nguyễn Bắc Sơn:
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hăy tựa gốc cây, hăy ngắm mây trời,
Hăy tưởng tượng ḿnh đang đi picnic…
Tr 396
Họ làm thơ, tuổi mười lăm mười bảy, gọi là « làm văn nghệ »
trên báo nhà trường, báo địa phương. Làm thơ như một tâm
thế, một lối ứng xử với đời. Không phải để thành danh, hay
đi vào lịch sử văn học. May mắn có bài thơ, cái truyện đăng
« báo Sài G̣n » là tràn nhau bữa rượu. Rồi thôi, vậy thôi,
cùng lắm là có chút tự hào với người bạn gái chưa bao giờ
dám hẹn ḥ trong cuộc đời không thấy ngày mai.
Rồi đời đă bắt kẻ làm thơ đi làm lính, họ bước chân vào
chiến cuộc, mang trong đầu những ư nghĩ trong veo / xem
cuộc chiến như tai trời ách nước , như lời Nguyễn Bắc
Sơn ( tr 408 và 409 )
Và không biết bao nhiêu người đă gục ngă giữa tuổi xuân
xanh, khi vừa mới bước vào chiến trường, như nhà thơ Hoài
Lữ, tử trận khi tập thơ Mắt cỏ vừa xuất bản, 1963, mà
ban sưu tập có lẽ v́ không t́m ra nên không nhắc đến.
Tôi nhớ măi mấy câu thơ Hà Nguyên Thạch, làm khoảng 1970,
không có trong sưu tập:
C̣n những chén rượu sầu ḷng chưa uống cạn
Nên làm thơ c̣n có nghĩa chờ say
Lúc say khướt sẽ quay cuồng hoài vọng
Chạy quanh đời nghe hồn nhẹ như mây
Từ đó, tôi có thể nói: thơ là một tâm thế, một cách ứng xử
với đời, đa đoan và hạn hẹp, một lối quản lư thời gian, xử
lư không gian, và phản ứng với nhân gian. Có lẽ ở đâu, thời
nào, thơ đích thực cũng vậy thôi, nhưng tại Việt Nam, thời
ấy nó là một bức bách của một thế hệ, nó vừa hiện hữu (existentiel),
vừa thiết yếu (essentiel).
Bắt đầu nền thơ này là chuyện văn nghệ, trao đổi, thù tạc
giữa bạn bè, nhưng sau cùng trở thành huyết mạch của một thế
hệ, mà Trần hoài Thư gọi là « tội t́nh ». V́ đă bị lịch sử
làm t́nh làm tội. Có thế mới hiểu v́ sao, khi đánh máy lại
những bài thơ cũ, ba, bốn mươi năm sau, anh c̣n thấy «
như gơ vào chính tim ḿnh những niềm đau buốt ». Và
người đọc ngày nay, nhất định đâu đây c̣n có người thấu hiểu
và chia sẻ niềm đau buốt ấy. Làm sao cho sưu tập này, và tấm
ḷng kia đến tay người nọ?
V́ vậy Thơ Miền Nam trong thời chiến không chỉ là nguồn tư
liệu - một nghiă trang – văn học. Nó là cuộc sống đang thao
thức và thao thiết, là nguồn thơ dù đổi địa h́nh hay khí
hậu, vẫn tiếp tục, âm thầm, đâu đó, bồi dưỡng cho đời sống
văn học.
Và cho đời sống nữa chứ.
Chẳng riêng ǵ đời sống của những chúng ta.
Đặng Tiến
13/10/2006
___________
(1) Thư Ấn Quán xuất bản, địa chỉ
TQBT, P.O. Box 58 – South Boundbrook, NJ 08880, USA
email:
tranhoaithu@verizon.net.
Ấn phí 35 US $, ngoài Hoa Kỳ thêm cước phí 5 US $
(2) Phạm văn Nhàn, Thư Quán Bản Thảo, tr. 8, số 25, tháng
10-2006, New Jersey. USA
(3) Trần hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo, số 25 đă dẫn, tr. 13.
(4) Linh Phương, Kỷ vật cho Em, 1971, tập thơ, Thư Ấn Quán
tái bản, sách in để biếu tặng, 2006, New Jersey.
(5) Nguyễn Bắc Sơn, tập thơ, Chiến tranh Việt Nam và Tôi,
1971, Thư Ấn Quán tái bản, sách in để biếu tặng, 2005, New
Jersey.USA
Nguồn: Vũ Trụ Thơ II của Đặng Tiến, Thư Ấn Quán xuất bản