Kim Hài
NỤ CƯỜI ANGKOR
Trên rất nhiều con đường tôi đă đi qua, có biết bao nụ cười. Tôi vẫn thường ví von nụ cười là tặng vật hào phóng nhất của Thượng Đế cho con người. Dù nụ cười xuất phát từ nỗi hân hoan, hạnh phúc hay đau khổ, tuyệt vọng, th́ khi hé môi cười, tất cả cảm xúc thái quá ấy sẽ vơi đi, dần trả chúng ta trở về trạng thái thanh thản, b́nh yên. V́ vậy, nụ cười phải được đặt lên vị trí cao nhất của loại cảm xúc phô bày.
Thời trung học, tôi học về học giả Nguyễn văn Vĩnh. Điều chúng tôi nhớ nhất khi nhắc đến ông là bài viết độc đáo mở đầu bằng câu : An Nam ta, ǵ cũng cười …Nụ cười” ba phải” của người Việt dù được xem là nụ cười hiền, hóa giải được hết những bực tức, giận hờn, nghi kỵ, vẫn bị phê phán là “đôi khi vô t́nh, độc ác… “ V́ chúng tôi c̣n quá trẻ, chưa trải sự đời, nên khi đọc bài viết của ông, chúng tôi lại chỉ biết cười. Cười v́ không lư giải được những mâu thuẩn trong suy nghĩ của ḿnh trước nhận xét đó. Suốt tuổi nhỏ tôi “ǵ cũng cười”, thánh thiện, ngây thơ, tự nhiên, dồi dào như nước mắt, th́ làm sao hiểu được những lời phê b́nh thâm thúy đó của một học giả già dặn như ông .
Chỉ khi lớn lên, trải nghiệm cuộc sống, thấy rằng đôi khi phải khó khăn đến dường nào mới có được nụ cười đúng nghĩa. Bởi phần lớn những nụ cười là để đối phó, để ngoại giao, lấp liếm. Tất nhiên mọi thứ đều có nguyên do. Nhưng dù v́ nguyên do ǵ đi nữa, dù cười hay không cười, con người đă dần đánh mất đi nụ cười nguyên thủy, nụ cười ngu ngơ trong sáng thời thơ ấu.
Có phải v́ vậy mà bức tượng Phật nào cũng mỉm cười trầm mặc. Có phải v́ vậy mà nụ cười La Joconde khiến bao trái tim thổn thức. Và giờ đây trước những bức tượng đền Bayon của Angkor, trái tim tôi bỗng ấm lại một thời tuổi nhỏ.
Tôi biết Angkor từ khi c̣n học lớp nhất bậc tiểu học. Bức tranh Đế Thiên Đế Thích trong cuốn sách Địa lư phô bày một Angkor huyền bí với những ngôi đền vĩ đại nhiều tháp nhọn, những h́nh nhân khảm đá huyền hoặc, nổi bật trên nền rừng già bí hiểm.
Với một số bạn bè, ngôi đền trong h́nh chẳng rực rỡ, quyến rũ bằng các thắng cảnh phương Tây, nhưng với tôi, bức h́nh đen trắng đó ẩn dấu vô vàn những bí mật muốn khám phá, vô vàn những tưởng tượng mà đầu óc nhỏ bé của tôi có thể nghĩ được.
Ước là thế nhưng măi đến hôm nay tôi mới được chiêm ngưỡng tận mắt Angkor.
Đoàn du lịch chúng tôi đầy một xe 40 chỗ, đa phần là người trẻ. Đường dài, cảnh vật đơn điệu, làng mạc ruộng vườn không khác Việt Nam nên hầu hết mọi người ngủ vật vờ trên xe và chỉ choàng tỉnh dậy khi đến bữa. Thức ăn tại nhà hàng chúng tôi ăn khá ngon, gia vị nêm nếm giống y chang Việt Nam, cả món mắm ḅ hóc mà khi ở nhà chỉ nghe tên thôi là đủ sợ. Song, lúc ngửi, nh́n và nếm thử, mọi người ăn khí thế. Mới biết nghệ thuật ẩm thực không đơn giản, một món không ngon đặc biệt th́ làm sao được xem là quốc tuư của một dân tộc.
Nhưng nói thật, tôi không tiêu hoá nổi các món côn trùng bán đầy dẩy bên ngoài nhà hàng. Thử th́ muốn thử, nhưng cứ nh́n ruồi nhặng quanh quẩn trên các mâm bóng dầu đâm sợ. Ấy vậy mà giới trẻ ăn ngon lành. Dế, nhện, ḅ cạp chui tọt rất nhanh vào những chiếc tàu há mồm trẻ trung đến người già phải ghen tị. Anh hướng dẫn viên dẻo miệng dụ dỗ “Bất ăn côn trùng phi hảo hán …Chưa ăn ḅ cạp chưa đến Khmer.” Tất nhiên nhát gan như tôi chỉ cười trừ, chỉ mong nhanh nhanh đến Siemriep để sớm được thưởng thức bữa tiệc bằng mắt ḿnh từng mơ ước.
Rồi, hôm sau, trong nắng sớm, giữa bốn bề rừng ǵa, Angkor hiện ra trước mắt tôi, rêu phong, rệu ră dưới áp lực thời gian. Nhưng kỳ diệu thay, không v́ thế mà Angkor mất đi vẻ đường bệ oai nghiêm của một kinh đô đă từng phát triển rực rỡ trong 6 thế kỷ. Gọi là kinh đô hay thành phố đều không sai (từ Angkor xuất phát từ tiếng Phạn - Nagara -có nghĩa là thành phố ), nhưng là một thành phố xem ra khá kỳ lạ với số lượng đền tháp rất nhiều. Có hơn 1000 ngôi đền kích cở h́nh dáng khác nhau làm thành quần thể Angkor. Không thấy dấu tích hiện hữu các khu dân cư quanh đó. Có lẽ sau khi Thái Lan chiếm được Angkor vào năm 1431, người dân Angkor đă bỏ chạy để lại vườn không nhà trống. Người Thái đă không thể chiếm đóng một thành phố không người, ven rừng già. Do vậy, sau khi lấy đi tất cả những ǵ có thể lấy được, họ để lại một Angkor điêu tàn, và thời gian làm nốt công việc biến Angkor thành một phế tích.
Có một điều kỳ lạ, tôi vẫn tự hỏi, làm sao mà người dân Angkor lại dễ quên những ǵ mà ḿnh đă dày công xây dựng đến thế ? Làm thế nào mà hằng bao năm người dân Camphuchia không hề biết đến những báu vật vĩ đại như vậy hiện hữu bên cạnh cuộc sống của ḿnh ? Angkor đâu phải chỉ được gầy dựng và sống trong vài ngày. Từ năm 802 theo lệnh của vua Hindu Jayavarman II, người dân Campuchia đă đổ biết bao công sức mồ hôi, nước mắt, của cải, để có một Angkor tương đối hoàn chỉnh. Và Angkor đă tồn tại cùng với sự phát triển rực rỡ của Đế Quốc Khmer trong nhiều thập kỷ. Vậy mà Angkor đă bị lăng quên theo vận nước. Phải để đến ngày một nhà thám hiểm nước ngoài, ông Henri Mouhot, đi lạc trong khu rừng già bản địa phát hiện trước sự ngạc nhiên, bàng hoàng, thích thú của thế giới. Quả là nghịch lư ! Song có lẽ khi xây dựng Angkor, người xưa Khmer đă thấm nhuần tư tưởng sinh diệt, có không của Phật giáo (90% dân số Campuchia theo Phật giáo), nên họ vẫn an nhiên trước sự mất c̣n. Điều nầy bàng bạc trong cách sống, xă hội, văn hoá người Khmer, và thể hiện rất rơ qua những tác phẩm nghệ thuật mà điển h́nh là các bức tượng, phù điêu ở đây.
Hăy nh́n ngắm và chiêm nghiệm. Những nụ cười trước mặt tôi hàm ư như vậy. . . Thịnh trị và suy vong. Bất diệt và huỷ diệt. Hy vọng và tuyệt vọng. Hạnh phúc và đau khổ. Tất cả đều song hành bên nhau trong thế giới này, cuộc sống này. Vậy đâu có ǵ phải khóc than, thương tiếc ! Hăy tận hưởng niềm vui và hạnh phúc. Hăy mỉm cười và nhảy múa như các tiên nữ Apsara đi, hỡi mọi người…
Trên bất cứ góc cạnh nào của cung đền Angkor cũng được chạm khắc các h́nh tượng. Nhưng nhiều nhất vẫn là tượng nữ thần Apsara với hàng trăm tư thế diễn tả điệu múa cung đ́nh nổi tiếng của Campuchia. Ngoài ra c̣n có những bức phù điêu tạc cảnh những vũ nữ cung đ́nh, những thần linh nam nữ đang vui đùa trêu chọc nhau, thể hiện t́nh yêu, hạnh phúc, hoặc các trận chiến của các vị thần, phỏng theo sử thi Ramanaya của Ấn Độ v. . v
Có hai chi tiết trên phần lớn các gương mặt tượng điêu khắc người của Camphuchia, đôi mắt luôn nh́n xuống, hoặc nhắm lại, và nụ cười qua làn môi dày. Nhưng lạ thay, ai cũng nhận ra được sự viên măn qua thần thái của tượng đá. Ngay cả trên gương mặt các chiến binh cũng chẳng đằng đằng sát khí . Tôi rất tin vào cảm nhận của ḿnh bởi ngay cạnh đó, chỉ sau một cánh cửa, nữ thần Apsara cùng các nữ thần khác ngực trần, múa hát. Chắc chắn đó phải là những bài hát ca ngợi hoà b́nh, t́nh yêu, hạnh phúc. Và trên tất cả, vây quanh , những gương mặt thần Alovakitesvara mỉm cười trầm ẩn, ấm áp. Những nụ cười tin cậy, hồn nhiên có lẽ đă, đang và sẽ bảo vệ người dân đất Chùa Tháp khỏi những cạm bẫy, nước độc, do cuộc sống xô bồ phiền toái đem lại.
Hôm tôi ngắm Angkor, thời tiết rất đẹp. Rừng xanh thăm thẳm. Ngồi dưới chân một gương mặt từ bi, tôi nh́n ra ngoài. Angkor Thom và Ta Prohn là hai cung điện lớn nhất và bị tàn phá nhiều nhất. Chung quanh ngổn ngang đá tảng, mỗi viên nặng hàng tấn nằm rải rác cạnh chân đền. Nhưng rơ ràng, những viên đá to lớn ngh́n năm được giữ ǵn ngay tại chỗ nó dời đến. Nghe nói các nhà trùng tu di tích chờ đợi kinh phí để đưa về đúng chỗ của nó, nên tốt nhất, không được xê dịch để dễ dàng biết được chính xác viên đá nào thuộc về mảng tường nào. Đó là quyết định thông minh. Tôi nghĩ. Có phải v́ vậy các gương mặt thần mỉm cười an nhiên ? V́ Angkor sẽ được giữ ǵn bởi một cộng đồng biết ư thức kho tàng quư báu của đất nước ḿnh nói riêng và của thế giới nói chung. Tôi lại lẩn thẩn nhớ đến các di tích của quê ḿnh, Đại Nội Huế, thành Hồ. . v. . v. . với những chương tŕnh trùng tu nhiều tranh căi, với việc ǵn giữ môi trường dưới trung b́nh. H́nh như quê ḿnh các gương mặt tượng ít khi mỉm cười ?
Cậu hướng dẫn viên du lịch nói với chúng tôi, người thầu việc canh giữ, tổ chức du lịch cho Angkor là một người Campuchia gốc Việt giàu có nhất ở đây. Tôi nhớ lại. Angkor nằm giữa rừng già, nhưng tất cả các con đường dẫn đến các ngôi đền đều sạch sẽ, không rác, không lôm côm hàng quán, không người xin ăn, không kẻ đeo bám bán hàng. Angkor thu hút rất nhiều du khách. Khách đến Angkor thoạt tiên nao nức, từ từ chuyển sang khâm phục để rồi ra về mang theo bao lưu luyến và h́nh ảnh nụ cười Angkor.
Buổi chiều, chúng tôi di chuyển sang đồi Bakheng để ngắm Angkor wat trong nắng hoàng hôn. Quả không hổ danh là kỳ quan của thế giới. Đền Angkor wat hầu như c̣n nguyên vẹn, nếu nh́n từ bên ngoài. Angkor wat rực rỡ, lung linh tựa một lâu đài kỳ vĩ, soi bóng dưới hai hồ sen rộng lớn.
Rất xa, qua những cánh rừng xanh thẩm, một chiếc khinh khí cầu màu cam, đưa các du khách muốn khám phá Angkor từ trên cao, đang bay lên như tô đậm thêm ánh chiều.
Bên khung cửa sổ của tầng Thiên Đàng đền Angkorwat, tôi ngắm bầu trời Angkor lần cuối trước khi tạm biệt. Với Angkor, đọng lại trong tôi vẫn là nụ cười bất diệt. Dân tộc nào biết mỉm cười an lạc sẽ măi măi phát triển bền vững dù thế giới có thế nào đi nữa.
Kim Hài.
Kim Hài |