laiquangnam
THỬ
ĐỀ NGHỊ MỘT GIẢI PHÁP GIỚI THIỆU THƠ TIỀN NHÂN TA
BÀI THƠ DI SẢN CHỮ HÁN
NGÔN HOÀI
CỦA KHÔNG LỘ THIỀN SƯ ( ? - 1119)
Phần I -
Đi t́m văn bản
Ngôn Hoài thư quy
Phần II -
Truyện Không Lộ
trong Lĩnh Nam Chích Quái (trong này có phần đối chiếu với Câu chuyện
của Lư Cao và cao tăng Duy Nghiễm)
Phần III - Dàn Đồng Ca
đă vu cáo Không Lộ Thiền sư như thế nào ? (trong phần này có phần các
biện giải kháng cự và lời có cánh của các Giáo sư đầu ngành)
- IIIA
- IIIB
Phần IV - Giải mă “mật
ngữ” trong thi kệ Ngôn Hoài
-
Đoạn thứ nhất, Dẫn nhập và tâm t́nh
-
Đoạn thứ hai, “thuật ngữ của người xưa”
- Đoạn thứ ba, bài pháp thoại của Không Lộ thiền sư mà Lĩnh Nam Chích
Quái dấu kín.
PHẦN III
KẺ ĐỐT ĐỀN: DÀN
ĐỒNG CA
ĐOẠN IIIA
1- Thói quen khó bỏ của lớp đàn anh khi đọc một bài cổ văn và tán phét
của giới văn học trong nước
2 Dàn Đồng Ca họ là ai ? Và nhập cuộc như thế nào, các lư luận dẫn đến
sự phỉ báng nhân thân Không Lộ thiền sư và loại bỏ bản văn Ngôn Hoài ra
khỏi sách Giáo khoa và Văn Học Lư Trần
---------------o0o0o----------
Đất nước ta đă bị hai lần hủy diệt sạch về văn minh
và văn hóa bởi bọn Tàu phương Bắc.
Lần thứ nhất vào năm 43 SCN -nền văn minh cội nguồn, tạm gọi là văn minh
Lạc Việt, có trước khi tiếp xúc với người Hán đă bị diệt sạch. Tại lần
thứ nhất này, người Lạc Việt chúng ta đă xây dựng được "mười nét chính
khác với văn hóa phương Bắc" mà Mă Viện sau khi làm cỏ dân tộc ta, y đă
có báo cáo về cho vua Hán. Hậu Hán Thư cho dù có xuyên tạc và nói xấu
dân tộc này chúng vẫn c̣n ghi. Sau khi đọc bản báo cáo từ Mă Viện, vua
Hán ra lệnh phải diệt sạch, hủy sạch mọi vết
tích về văn hóa (chữ viết
? tôn giáo? phong tục, giáo dục gia đ́nh ? đạo hiếu ? ) và văn minh (
trống đồng và ? ) để người Lạc Việt khó mà giữ được bản sắc của dân tộc
ḿnh. Vua Hán luôn muốn làm cho sự đồng hóa của Tàu lên dân tộc này từ
nay được dễ dàng hơn. Mười nét đó là ǵ ? Tôi không thấy các sử
gia Việt khai khác về mảng đề tài này.
Sau một ngàn năm bị đô hộ gần như mất sạch văn hóa nguồn, Tổ quốc ta hồi
sinh từ năm 938 đến năm 1400. Gần 500 năm nền văn minh mới, tạm gọi là
văn minh Đại Việt được xây dựng trên nền văn minh Lạc Việt xa xưa. Người
dân Đại Việt xây dựng lại cơ đồ với một ít văn hóa vay mượn của Tàu. Tôi
tự hỏi, Họ đă vay mượn ở cấp độ nào và xoay xở ra sao khi chỉ xử dụng
một số từ và và một số chữ viết rất ít ỏi từ người đô hộ ḿnh, trong khi
đa phần dân chúng hầu như hoàn toàn nói tiếng Việt. Một số ít người có
học chữ Hán trường lớp từ năm 1070 th́ đưa âm đời Đường với số
lượng không nhiều vào ngôn ngữ của chúng ta.
Tiếc thay, việc tốt như thế phải dừng lại. Vào năm 1407 – Thời Minh
thuộc - toàn bộ nền văn hóa mà sắc dân Lạc phục sinh được sau 500
năm độc lập bị diệt sạch lần thứ hai. Chúng ta ngày nay đă quá khó khăn
khi đi t́m lại vết của nền văn minh đó. Với luận cứ khả tín nào có thể
giúp cho thế hệ mai sau làm hành trang sinh tồn trước âm mưu đồng hóa
dai dẳng của dân tộc Hán? Tôi thành thật cầu cứu đến các Bạn hiền của
tôi về vấn nạn này.
Xưa nay một âm, một tự, một tiếng mà người nước này (A) vay mượn của
nước kia (B) th́ tại A không bao giờ dẫn nở về nhiều tầng, nhiều lớp về
nghĩa theo từng ngữ cảnh và từng t́nh huống như chính ngôn ngữ của người
bản địa (A) dùng hàng ngày. Ngôn ngữ của B mới biến hóa trong ḷng dân
tộc B mà thôi. Chính v́ thế mà ngôn ngữ của người dân Lạc Việt ( B) gởi
vào trong ca dao hay các câu chuyện truyền kỳ truyền khẩu. Do không có
chữ viết, hệ tư tưởng và minh triết của dân tộc này (B) khó xây dựng sâu
hơn và truyền qua được nhiều thế hệ, nó dần dần mai một đi.
Ngài thiền sư đa tài và "đa hệ" là Không Lộ đă sáng tác bài Ngôn Hoài
vào cuối thế kỷ 11 đă rơi vào t́nh huống như thế.
Sự khó khăn sẽ làm nản ḷng "Ai đó" muốn bắt tay phục hồi điểm phát xuất
do sự lưu manh của bọn đại Hán phương Bắc. Họ đă nhất quán trong việc
xóa bỏ cội nguồn của dân tộc bị trị này. Bọn Tàu làm việc xóa bỏ như thế
để tạo điều kiện cho chính người Việt tự nguyện làm Kẻ Đốt Đền hay làm
người mở hộp Pandora. Bọn người này đă bôi tro trát trấu vào tiền nhân
người Việt. Ác thay bọn chúng đều là người có học cả, có chức có quyền
cả!. Người dân đen không bằng cấp, họ hoàn toàn vô tội, không biết ǵ về
sự thâm độc này, cùng lắm là vài kẻ trong số đó là kẻ vỗ tay a dua, tội
kẻ a dua thiếu học đâu có nặng.
Thói quen khó bỏ của lớp đàn anh khi đọc một bài cổ
văn
Trong Lĩnh Nam Chích Quái, tại phân đoạn viết về ngài Không Lộ thiền sư,
nếu như bạn hay chính chúng tôi là người hóa thân vào người Thị giả th́
chúng ta rơi vào t́nh huống nào?
Thị giả (là bạn, là tôi ) ḷng mừng thầm v́ được gặp vị cao tăng. Ta
mong được Ngài mở rộng ḷng từ bi gíảng dạy chỗ cho ta c̣n vướng mắc, do
bởi ta đọc kinh sách nhiều mà không hiểu hết được chỗ vi diệu của Pháp
Phật. Ta mong được Ngài giúp ta vài kinh nghiệm như một người đi trước
đáng kính, người đă thực hiện con đường Bát Chánh Đạo nhuần nhuyễn, ta
nương theo đó mà học, mà hành, mà vượt qua bước cuối cùng là diệt chấp
ngă một cách triệt để. Là người cư sĩ, là người tăng sĩ, ai cũng mong
sớm đến bờ giác ngộ.
Lĩnh Nam Chích Quái có viết câu này, "Sư (Không Lộ thiền sư) xem xong
bảo: "Ngươi (tức người Thị giả ) đem kinh đến, ta v́ ngươi nhận, ngươi
mang nước đến, ta v́ ngươi uống, th́ có chỗ nào mà ta lại không cho
ngươi tâm yếu?". Bèn cất tiếng cười ha hả. Sư thường nói kệ rằng:
"Kiểu đất long xà chọn được nơi,
T́nh quê nào chán suốt ngày vui.
Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng,
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời. (1)
_Điếc !, _Trời đất !. Ông khùng!, đó là lời bật môi ngay lập tức của
người Thị giả khi nghe Không Lộ thiền sư đọc đoạn thơ Việt ngữ trên. Sao
ngài Không Lộ thiền sư hôm nay lại "đọc thơ" truyền thừa kỳ lạ như thế?
Ai đă nhập vào Ngài? Bài thơ quốc âm mà ai đó dịch sẵn cho Ngài đọc nó
chả ăn nhập ǵ vào "bài thơ mớm " của người thị giả trong Lĩnh Nam Chích
Quái trước đó. .
Đoán luyện thân tâm thỉ đắc tinh
Sum sum trực cán đối hư linh
Hữu thân lai vấn không không pháp
Thân tại b́nh biên ảnh tập h́nh.
Rơ ràng đă có một sự lạc điệu khi "Ai đó" thấy bài thơ tứ tuyệt viết
bằng chữ Tàu của tiền nhân ta, "Ai đó" xem như ḿnh đang đứng trước một
bài thơ Đường, ḍng tứ tuyệt. "Ai đó" từ đó mà phăng phăng chém tới!.
Cách tiếp nhận bản văn như thế này đă tồn tại gần 100 năm nay rồi. . .
Thật không may cho dân tộc này.
Hệ lụy của cách đọc là ǵ ?
Di sản tinh thần đối với thế hệ trẻ ra sao?
Tán phét !.
Lần giở lại tài liệu năm xưa, bắt đầu từ cái nền là Tuyển tập "Thơ
Văn Lư, Trần". Tài liệu này được xem như là tài liệu THƯ QUY từ thập
niên 60 của đất Bắc. "Ai đó" tại Hanoi, cho dù họ thuộc giới Hán Nôm hay
giới đang giảng dạy tại Đại Học muốn tra cứu về đề tài này đều phải dùng
và trích dẫn từ tuyển tập thư quy này.
Giáo sư Đặng Thai Mai đă viết về bản văn Ngôn Hoài trong tuyển tập này
như sau : "Tâm hồn nhà sư thi sĩ này c̣n nhuốm thêm cả mầu sắc của
đạo học, hay đúng hơn là của một thầy "phong thủy" (2)
Và Kiều Thu Hoạch, một "Cây Đa Cây Đề" ở Viện Hán Nôm Hanoi đă viết
trong đó : "kiểu đất long xà" là "theo cách nh́n của của các nhà
phong thủy hay đi xem kiểu đất th́ nơi nào có h́nh thế của rồng rắn là
nơi đất đẹp, có thể ở được".
Từ cái nôi là Viện VĂN HỌC và Viện Hán Nôm tại HANOI, bản văn này được
triển khai đến thầy cô giáo cấp 3. Nguyễn Phạm Hùng (3), trong bài viết
hướng dẫn thay sách lớp 10 cải cách của trường Đại học Sư phạm Việt Bắc
năm 1990, Ông có hai đánh giá-cấp cho ta data nào?
- Một về tác giả Không Lộ: "Con người trong bài
thơ, con người đam mê giữa mênh mông không gian, thiên nhiên sống động
kỳ tuyệt, giữa vô tận thời gian của niềm khoái cảm tột cùng, bỗng đột
khởi một hành động phi thường, vụt lớn lên chót vót như đỉnh núi cao có
tầm vóc kỳ vĩ, đối diện với cả vũ trụ lớn lao làm cho cả bầu trời phải
thay đổi trước một tiếng kêu dài sảng khoái" (trang 108). . . ( theo
Nguyễn Khắc Phi )
- Và hai là về chủ đề của Ngôn Hoài : "Bài thơ thể
hiện niềm say mê yêu đời và tâm trạng sảng khoái, hào hùng của tác giả,
ngợi ca vẻ đẹp kỳ vĩ và sức mạnh phi thường của con người trong thế giới
rộng lớn". (Trang 108 - Hướng dẫn giảng dạy văn học lớp 10 -
tài liệu bồi dưỡng thay sách).
Tại nước CHXHCN -Việt Nam, sách Giáo khoa là pháp
lệnh. Sách viết sao th́ người giáo viên cứ thế mà " chấp nhận và thi
hành đi!, không ai được phép tranh căi " one deux " ǵ cả !". Người viết
Sách Giáo khoa Văn 10, chú tâm đến đến hai câu cuối mà họ cho là trọng
tâm, "Hữu th́ trực thượng cô phong đỉnh, Trường khiếu nhất thanh hàn
thái hư. " nên đă đặt câu hỏi như sau:
" 1-Tại sao đang nói ư tươi vui với t́nh quê như thế lại chuyền sang
nói ư một ḿnh trèo thẳng lên đỉnh núi trơ trọi kêu dài một tiếng làm
lạnh cả bầu trời? Ở đây tư thế và khát vọng của con người là như thế nào?"
Người hướng dẫn sách viết luôn đoạn văn mẫu cho giáo viên : "sự kết
hợp giữa niềm vui về hạnh phúc trần thế với khát vọng ḥa nhập cùng vũ
trụ bao la. Thứ nhất, là t́nh yêu quê hương đất nước, đặc biệt với đất
nước nông nghiệp thường được bắt đầu từ nguồn vui "thú quê" chung đó.
Thứ hai, là khát vọng vươn tới trời đất vũ trụ bao la như một nhu cầu
nhân văn cao đẹp. Nhà sư đang vui nỗi vui trần thế, bỗng nhiên lên đỉnh
núi cao trơ trọi, kêu vang một tiếng làm lạnh cả bầu trời. Ở đây đă trèo
lên là trèo lên thẳng một mạch, không chút rụt rè. Đă lên cao là lên cao
không lưng chừng. Và chỉ một tiếng kêu vang đủ làm cho cả vũ trụ bao la
kia kinh ngạc đến rùng ḿnh, ớn lạnh". ( theo Nguyễn Khắc Phi)
Trần Đ́nh Sử, giáo sư đại học đầu ngành về Thi pháp học cho rằng "
theo cách giải thích này th́ thú quê là thú quê thật, leo núi là leo núi
thật, cả bài như một bức tranh tả thực và tư thế hiên ngang chinh phục
vũ trụ được hiểu khá rơ " (4).
GS. Trần Đ́nh Sử cũng giúp giáo viên cấp 3 trả lời câu hỏi trên với đoạn
văn này : " 'Lên thẳng' là h́nh ảnh của đốn ngộ, xảy ra trong chốc
lát, như ánh chớp. 'Đỉnh núi cao trơ trọi' đây thuần tuư chỉ là ẩn dụ
chỉ thế giới không vô. 'Thái hư' là thế giới của nhà Phật mà chỉ những
kẻ đắc đạo mới có thể đạt đến, và cái ' tiếng kêu dài làm lạnh cơi thái
hư' ấy là dấu hiệu hoà nhập ta và thế giới, thế giới và ta". (4)
GS. Nguyễn Đ́nh Chú, người Thầy đầu ngành về cổ văn, người cấp không ít
văn bằng tiến sĩ, đă giúp giáo viên cấp 3 câu kết luận : "Tiếng cười
của Không Lộ th́ 'trong tiếng kêu làm ớn lạnh cả thái hư' (vũ trụ) này
là cả một khát vọng phi thường: khát vọng hoà nhập vũ trụ "
Lớp trẻ hơn, học tṛ của hai vị trên, thế hệ F mấy, F?, nay đang là PGS
đang dạy tại trường ĐHKHXH&NV thành phố HCM, theo bước chân thầy ḿnh và
tiếp tục trả bài như sau " Thiết nghĩ rằng, h́nh ảnh con người chọn
thế đất có thể dung nạp được ḿnh, để hoà đồng và vui suốt ngày với
thiên nhiên là h́nh ảnh con người mang khát vọng hoà nhập và chế ngự
thiên nhiên được thể hiện qua lời thơ thoát phàm, bay bổng. C̣n 'tiếng
kêu vang lạnh cả bầu trời' kia là tiếng reo của một người chứng ngộ,
thoát khỏi cảnh giới trần thế. Cái tiếng kêu vang sang sảng đă 'làm lạnh
cả bầu trời'; đă chế ngự được thiên nhiên phải là một tiếng kêu sảng
khoái của một tâm hồn khoáng đạt với tư tưởng phá chấp triệt để và tinh
thần thoải mái tột cùng, chứ không thể là của một người suốt ngày gơ mơ
tụng kinh, câu nệ vào tín điều một cách cứng nhắc khô khan. Tiếng kêu đó
chính là trực cảm tâm linh, là trạng thái chứng ngộ của thiền sư. Và
cũng nhờ trực ngộ mà con người hoà nhập vào đại ngă của vũ trụ" (5).
Cuối cùng, một tiếng nổ long trời! Nhà thơ Chế Lan Viên xuất hiện, khi
Ngài bắn ra, khi Ngài thi sĩ luận về câu thứ tư "Trường khiếu nhất thanh
hàn thái hư. " rằng: "Không có tiếng kêu dài này th́ không có chiến
thắng Bạch Đằng!" (6)
Dẫn chứng đến đó, laiquangnam nghĩ cũng đă đủ. Tuồng như các giáo sư
tiến sĩ "phe ta" đa phần rất giỏi khi viết lời có cánh, rất giỏi tầm
chương trích cú và rất giỏi "tán". Họ rất đa tài!. . DATA ư ?, hổng cần
!.
Bạn có thấy tầm tác hại của các" lời tán" này đối với nhiều thế hệ học
sinh con em của chúng ta chăng?. Học văn giỏi?. Dễ ẹc !. Ô là là, bạn
hăy dạy con ḿnh làm sao viết lời có cánh cho thật giỏi như các giáo sư
tiến sĩ bên trên. Đừng bao giờ Ngu như "Ai đó" mà động năo tốn th́ giờ
đi t́m DATA dẫn chứng cho các bản văn cổ của tiền nhân ta bởi công việc
đó không có gạo đổ vào nồi cho Vợ con!.
Viết đến đây, laiquangnam nhớ lại câu kết đề trong một bài thất ngôn bát
cú của thi hào Nguyễn Du trên đường đi sứ vào năm 1813, khi Ngài ngồi
bên mộ Đổ Phủ nh́n trời và th́ thầm với một thi nhân Tàu qua bài thơ "
Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 1" và hai câu kết đề như sau
Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị?
Địa hạ vô linh quỷ bối xi !.
==>
Bệnh cũ lắc đầu nay đă bớt?,
Suối vàng nô giới bớt khèo quê !
• Khều là nói lời móc họng hay là lời chọc quê
Bạn Y/N?.
Dàn đồng ca lên tiếng
Bất ngờ trong một tác phẩm đoạt giải thưởng cấp bộ có tên là "Văn Hóa
Việt Nam Nh́n Từ Mẫu Người Văn Hóa" đă viết "Từ sự hoài nghi khoa
học này ( về bài Ngôn Hoài ) của Hà Văn Tấn, Đinh Tiến Bảng, Văn nghệ,
No 43, 1993 đă tiến tới phủ nhận Không Lộ là tác giả Ngôn hoài. "Ở đây
cần làm rơ các nghi ngờ của Hà Văn Tấn bằng khẳng định: Thiền sư Không
Lộ không làm bài thơ này". Có thể, thái độ phủ nhận này đă khiến
Đoàn Thị Thu Vân không chọn bài Ngôn hoài vào tuyển tập Thơ
Thiền Lư Trần (Nxb Văn nghệ thành phô Hồ Chí Minh, 1998)? " (7)
Hà Văn Tấn, Đinh Tiến Bảng, Đoàn Thị Thu Vân, Họ là ai?. Thẩm quyền nào
?. Ai đă cấp thẩm quyền "trảm " một bản văn cổ văn lừng danh của đất
Lĩnh Nam cho họ?.
Người thứ nhất là Viện trưởng Viện Khảo cổ Việt Nam, kiêm Phó hiệu
Trưởng đồng cấp với Thầy Thích Thanh Từ trường ĐHPGVN, người thứ ba là
PGS tiến sĩ Trưởng khối Ngữ Văn trường ĐHSP THÀNH PHỐ HCM hai thập niên
90 ( thế kỷ 20) và 10( thế kỷ 21)
Ngon !. kẻ trước người sau, bọn Họ đă hiên ngang xuất hiện như một Kẻ
Đốt Đền, lên tiếng "Tôi đó ". Họ phủ nhận bài Ngôn Hoài của Không Lộ
thiền sư, một bài thi kệ truyền thừa "lừng lẫy" nhất trong ḍng thi
thiền của văn minh Đại Việt, chắc ǵ các bài thi thiền của Tàu đă hơn ?.
Bạn thử đọc đi đoạn mà Ngài Suzuki giảng trong Thiền Luận chắc ǵ
hay hơn và thực tế hơn ?. Chính v́ lẽ đó mà các tác giả lừng danh, trong
số những người học giỏi nhất nước ta thuộc thế kỷ 14 đă đưa vào "
Chuyện lạ đất Lĩnh Nam", như là một sự xác nhận về giá trị văn bản.
Vài điều về Ngôn Hoài mà bạn quên để ư
Ngôn Hoài là một bản văn đời Lư xuất hiện về thế kỷ 11, 12, lúc này nước
ta vẫn chưa có chữ viết. Chữ Tàu thể hiện trong bản văn chỉ là thứ chữ
vay mượn trong đó đă có 27 /28 từ. 27 từ trong bài thi kệ truyền thừa
này là những từ được người Việt dung nạp cho đến tận thế kỷ 21 này. Các
từ này nay đă được Việt hóa, thế nên "Ai đó" nghĩ ngay đó là các chữ Hán
như hàng ngàn chữ Hán khác trong các bài thơ ĐƯỜNG mà họ đă tiếp xúc.
Bản văn Ngôn Hoài chính là một bản văn Việt ngữ đấy. Nó chỉ mượn kư tự
của Tàu nhằm thể hiện ngôn ngữ Việt. Người xưa dùng chữ Hán như là một "
dụng tâm " để có thể ghi lại trên giấy cho lớp học tṛ của họ dễ nhớ một
bài giảng dài theo một thứ tự mạch lạc, sau này khi cần thay lời thầy
giảng lại cũng không đến nỗi chật vật mà thôi. (Chú riêng của người viết,
tại Phần thứ tư, giải mă laiquangnam sẽ viết rơ hơn. Nơi đây không thích
hợp để thuyết minh. Xin lỗi à nghen ! )
Dàn Đồng ca nhập cuộc như thế nào ?
Dàn đồng ca đă nhầm, t́nh huống này giống như một em học sinh người Việt
sinh tại Mỹ đọc câu Việt ngữ này đă được ghi trên một trang giấy vào lúc
nào đó, "Tưởng rằng Đồ nọ hóa Đồ kia ". Trẻ phải biết Ai nói?. Là người
Việt ở phía Nam hay người Việt ở phía Bắc?. Vào t́nh huống nào? th́ họa
may lúc đó Trẻ mới hiểu "đồ là ǵ " và ư câu nói ǵ. Từ đó chúng mới
hiểu, đó là một câu mỉa cay độc? hay là câu đầu môi mà người huynh
trưởng đang la rầy con trẻ " cù lần " bởi bọn chúng đă làm sai ư họ muốn
nhờ cậy. Nhờ A mà lấy B chả hạn..
Thổi kèn xung trận: Hà Văn Tấn
Năm 1992, giáo sư Hà Văn Tấn thổi kèn xung trận đầu tiên, qua bài viết "
Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam, Tạp chí Văn
học, số 4-1992, tr. 11", (8)
"Đọc truyện Thiền Sư Duy Nghiêm (751-834) trong Cảnh Đức truyền đăng
lục, ta gặp bài thơ của Lư Tường [ 李 翱 ], (9) nói về tiếng cười vang
của nhà sư này khi ông đi kinh hành trên đỉnh núi:
Tuyển đắc u cư hiệp dă t́nh,
Chung niên vô tống diệc vô nghinh.
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh,
Nguyệt hạ phi vân tiếu nhất thanh.
(Chọn được nơi ở vắng vẻ thỏa thú quê,
suốt năm không phải đưa ai mà cũng chẳng đón ai.
Có lúc trèo thẳng lên đỉnh non côi.
Dưới trăng rẽ mây cất một tiếng cười.)
Và nhớ đến bài thơ Ngôn hoài của Không Lộ, Hà Văn Tấn viết tiếp:
"Hai bài thơ có vần khác nhau, nhưng có nhiều chữ giống nhau và đặc biệt
là câu thứ ba giống hệt nhau. Tôi rất thích bài thơ của Không Lộ, nhất
là câu cuối. Nhưng điều đó vẩn không ngăn được nỗi băn khoăn, với những
câu hỏi: "Không Lộ đă chịu ảnh hưởng của Lư Tường hay có ngựi nào đó đă
chữa bài thơ của Lư Tường rồi gán cho Không Lộ". (8)
Tôi tự hỏi Hà Văn Tấn bác bỏ một bản văn của tiền nhân đời Lư mà chỉ cần
lư luận sơ sài với một đoạn văn ngắn chưa tới 200 từ như thế này sao?
Đinh Tiến Bảng xuất hiện tiếp tay.
Sau khi Hà Văn Tấn thổi kèn th́ lập tức trên báo Giáo dục và Thời Đại và
Văn Nghệ, có ư kiến muốn phủ nhận hẳn Không Lộ là tác giả bài thơ Ngôn
hoài. ( hai tờ báo này đều của Bộ Giáo dục & Đào Tạo)
Không lâu sau, Đinh Tiến Bảng phát biểu trên tờ báo Văn nghệ (số 43,
ngày 23-10-1993), "Ở đây cần làm rơ các nghi ngờ của Hà Văn Tấn bằng
khẳng định : Thiền sư Không Lộ không làm bài thơ này". Ông nêu ra bốn lư
do, trong đó có hai lư do rất đáng trao đổi. Một là, "đời sống tinh thần
của thiền sư (tất nhiên là thiền sư chân chính) thường hướng nội : mọi
hành vi đều kín đáo, không ồn ào; họ biểu hiện bằng im lặng ("diện bích"
: ngồi ngó vách) ; họ ít hoặc không bộc lộ "cái tôi" trực tiếp, không
dùng lời để tỏ ḷng ("vô ngôn"). Nói theo triết Thiền là họ chủ trương "vô
ngă" (về mặt này, thiền sư khác hẳn nho sĩ và quan chức)". Hai là, "ta
không thể h́nh dung một người tài cao đạo rộng, phẩm hạnh tuyệt vời,
cuộc đời như huyền thoại được người tôn sùng mà lại đi " THUỔNG " thơ
của một quan chức mộ đạo; hơn nữa, bài thơ của vị quan nọ-Lư Cao. (10 )
"Thuổng!" là từ mà Đinh Tiến Bảng đă dùng cho bậc cao tăng Không Lộ
thiền sư đời Lư.
Lẽ nào ba người trong Dàn đồng ca lại không biết rằng, một khi các tiến
sĩ sử gia cấp cao đời Trần khi tạo ra danh tác
Lĩnh Nam Chích Quái nhằm
hàm ư "so găng" về văn hóa với người phương Bắc như Lê Quư Đôn đă từng
phát biểu. Tiền nhân ta đă chọn Ngài Không Lộ là nhân vật biểu tượng cho
Phật giáo phương Nam, tuy rằng đất nước này đă có hàng trăm vị thiền sư
vào thời Lư Trần và bài Pháp kệ Ngôn Hoài làm bài thơ biểu tượng làm đại
diện cho ḍng thi thiền của nước Việt.
Việt là Việt, Hán là Hán, Tàu là Tàu. Đó là điều gởi gấm nhắc nhở của
người xưa.
Ngài Không Lộ thiền sư, một vị thiền sư " đa hệ", hầu như am hiểu nhiều
ḍng tu Phật tại đất nước Đại Việt thời ấy. Hiểu nhiều để so sánh và bóc
tách cái lẽ tinh hoa của Phật pháp. Đinh Tiến Bảng đă kém hiểu biết về
Ngài nên đă viết lời kết án về nhân thân ngài như trên.
Phản biện đoạn thứ nhất của laiquangnam về sự bôi bác
về nhân thân của Không Lộ thiền sư của Đinh Tiến Bảng
Nhận xét sơ khởi về lời của Đinh Tiến Bảng về nhân
thân của Ngài Không Lộ thiền sư:
Đinh Tiến Bảng viết : "Một là, "đời sống tinh thần của thiền sư-tất
nhiên là thiền sư chân chính-, ==> có nghĩa là Ngài Không Lộ thiền sư
không phải là một SƯ ÔNG Chân chính ? lqn ghi.
":thường hướng nội : mọi hành vi đều kín đáo, không ồn ào" " ==> có
nghĩa là Ngài Không Lộ thiền sư là nhà SƯ rất ư là ồn ào? Không kín đáo,
không hướng nội, lqn ghi ;
"họ ít hoặc không bộc lộ "cái tôi" trực tiếp, không dùng lời để tỏ ḷng
("vô ngôn"). ==> có nghĩa là vị tổ đời thứ chín của ḍng Vô Ngôn Thông
đă không am hiểu ǵ về ḍng thiền của ḿnh.
Hai là, "ta không thế h́nh dung một người tài cao đạo rộng, phấm hạnh
tuyệt vời, cuộc đời như huyền thoại được người tôn sùng mà lại đi "
THUỔNG " bài thơ của vị quan nọ-Lư Cao. (10 )
Thuổng trong Việt ngữ ngày nay là một từ rất nặng. Từ có nghĩa là Chôm
chỉa, ăn cắp một cách trắng trợn và công khai và nạn nhân đă bắt tận tay,
day tận cánh kẻ đă thuổng vật báu của ḿnh. Có nghĩa là
Lĩnh Nam Chích
Quái là một tác phẩm láo lếu đi ca ngợi một anh không biết làm thơ, đi
thuổng thơ của một người học thức, một quan Tàu, cho dù tác giả
Lĩnh Nam
Chích Quái là các tiến sĩ đương trào.
Viết điều này Đinh Tiến Bảng chỉ lập lại ư và làm rơ ư của ông
thầy ḿnh, Hà Văn Tấn, đă nêu một năm trước đó rằng. "Không Lộ đă chịu
ảnh hưởng của Lư Tường hay có người nào đó đă chữa bài thơ của Lư Tường
rồi gán cho Không Lộ".
Những kiến văn về Phật giáo mà Đinh tiến Bảng dựa lên đó để viết về nhân
thân của Ngài Không Lộ thiền sư là hoàn toàn bịa đặt. Y hoàn toàn không
biết ǵ về phẩm chất của một cao tăng Đại Việt với lời thề Tam Hộ, Hộ
Quốc, Hộ Pháp, Hộ Gia. Lời thề đă thể hiện một cách nhất quán trong thời
đại Lư Trần, một phần đă thể hiện ở văn bản Ngôn Hoài tại câu thứ tư.
Trườngkhiếu, nhấtthanh, hàntháihư.
Một khi không hiểu ǵ về nội dung bản văn truyền thừa này, mà chỉ dựa
trên sự phát biểu rằng có sự giống nhau về 14 Âm giữa bài thi kệ Ngôn
Hoài và bài U cư của Lư Cao do Hà Văn Tấn lượm ra khi đọc nhanh hai văn
bản, một điều quá dễ mà bất cứ một em học sinh nào cũng có thể làm như
ông, rồi từ đó bao nhiêu sự nhuếch nhác của Phật giáo Việt Nam bị nhiểm
bẩn từ Phật giáo Tống, Minh, Thanh kéo dài măi tận đời cha của ông Đinh
Tiến Bảng. Ông Bảng đă nh́n ra các sự xấu xa mà phần lớn giới tăng lữ
nước Việt sau 75, Ông gán mác rồi mang gán vào cổ các vị Cao Tăng Quốc
Sư đời Lư vào thế kỷ 11, 12 của chúng ta. Đó là lư luận cực kỳ sai trái
!. laiquangnam phải nhắc lại cho Dàn đồng ca nhớ rằng " Trong đợt hủy
diệt sách văn hóa của người Lạc Việt lần thứ hai vào năm 1407, vua Minh,
tên là Vĩnh Lạc đă lệnh cho Trương Phụ mang về Tàu 200 sư săi và nhiều
sĩ tử người Việt để tái đào tạo về mọi phương diện, từ việc truyền bá
kinh sách Phật giáo do người Tàu ngụy tạo đến việc dạy phong tục, tập
quán, lịch sử Tàu, cho đến việc đọc chữ Tàu từ các kinh sách mang về ấy,
Người Minh làm triệt để bởi việc đồng hóa của họ bị gián đoạn do v́ đất
nước Đại Việt đă độc lập với Tàu trên dưới 500 năm ( 11)
Xin Tạm dừng tại đây, mời bạn đọc ở đoạn III B
Laiquangnam
Viết lại từ IRVINE, 20 tháng 1, 2017
_______
Sách tham khảo:
1) Phan Vơ, bản văn được dùng trong sách Giáo khoa lớp 10
2) Đặng Thai Mai, Mấy lời tâm đắc về một thời đại Văn học - Thơ
văn Lư Trần tập 1.
3) Nguyễn Phạm Hùng, Hướng dẫn giảng dạy văn học lớp 10 ( tài
liệu bồi dưỡng thay sách).
Ông Nguyễn Phạm Hùng được xem như chuyên gia hàng đầu trong nước về mảng
" Thơ Thiền Lư Trần".
4) Từ nguồn của PGS tiến sĩ Nguyễn Công trên,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn , trang Website của Khoa Văn học và
Ngôn ngữ thuộc trường ĐHQG THÀNH PHỐ HCM. Có trên 7000 người xem. *bài
viết có tên là "Về trạng thái tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh
trong văn chương (qua khảo sát văn học Phật giáo thời Lư - Trần)",
& dẫn lại GS Trần Đ́nh Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ (Nxb
Giáo dục, 1995)
5) Nguyễn Công Lư, Bản sắc dân tộc trong văn học thiền thời Lư – Trần,
Nxb VHTT, H, 1997, tr. 144. (luận văn tiến sĩ của ông?) (sđd 3)
6) từ nguồn sđd 3, Nguyễn Đ́nh Chú, Về bài thơ "Ngôn Hoài" của Không Lộ
Thiền sư: chuyện rắc rối vá cách đối xử, Kiến thức ngày nay, số 147,
tháng 8-1994, trang 11-13.
7) Đỗ Lai Thúy, Văn Hóa Việt Nam Nh́n Từ Mẫu Người Văn Hóa, nxb VHTT,
TCVHNT, Hanoi, 2005, Chương II, Con người vô ngă, trang 197-205.
8) https://www. diendan. org/tai-lieu/bao-cu/so-027/vn-ban-hoc
Hà Văn Tấn, " Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật giáo Việt
Nam, Tạp chí Văn học, sô' 4-1992, tr. 1
9 ) Tôi nghĩ có lẽ v́ tự tin ở trí nhớ của ḿnh mà tên người là [李翱] ông
đọc là lư tường, có lẽ ông Hà Văn Tấn đă lầm kư tự này [翱] với kư tự này
tường 翔 cùng bộ vũ 羽 chăng?. Tôi không hiểu tại sao bị chỉ trích và bị
bêu rếu dữ dội như vậy mà ông Hà Văn Tấn lại không lên tiếng. Lai Thúy
kể trên trang website của một trường đại học đă nêu tính cách cao ngạo
này của ông.
10) Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Khắc Phi, Quanh nguồn tư liệu có liên quan
đến bài Ngôn hoài của Không Lộ thiền sư, Tạp chí Văn học, 12- 1996). &
Nguyễn Khắc Phi tuyển tập, nxb Giáo dục, Hanoi, 2006.
11) Theo Việt Nam Sử lược của Trần Văn Giàu.
www. art2all. net
|