Phạm Đức Thân

 

           

CÁI ĐẸP TRONG VĂN HÓA NHẬT BẢN

 

 

 

Mỗi năm, khoảng Tháng Tư vào Xuân, du khách trong và ngoài nước Mỹ thường ghé Thủ Đô Washington để ngắm hoa anh đào nở dọc hồ Tidal Basin. Hoa anh đào này nguyên là quà của Thị Trưởng Tokyo tặng năm 1909 bao gồm hơn 1 ngàn cây thuộc 11 chủng loại anh đào khác nhau.

 

Hoa anh đào năm cánh trắng hoặc hồng được yêu thích nhất ở Nhật, được nhắc đến nhiều trong thi ca, và thường được dùng làm họa tiết trang trí... Mỗi mùa hoa nở đều có lễ hội ngắm hoa (hanami) rầm rộ trong cả nước; geisha ở khu Gion (Kyoto) tổ chức vũ hội hoa anh đào; dân chúng c̣n theo dơi t́nh h́nh hoa nở (sakura zensen) từ cuối Tháng Ba ở đảo Kyusu miền Nam chạy dần lên miền Bắc nước Nhật.

 

Hoa anh đào có một chỗ đứng trân trọng trong văn hóa Nhật như vậy v́ nó tiêu biểu một số đặc trưng của cái đẹp Nhật mà bài này đang thử t́m hiểu.

 

Nói đến Nhật thiên hạ thường nghĩ đến hàng điện tử, xe hơi, máy ảnh.... nhưng có đến nước Nhật mới nh́n ra một đặc tính văn hóa nổi bật. Người Nhật đánh giá cao tầm quan trọng của ư thức thẩm mỹ trong mọi ngơ ngách của cuộc sống. Cuộc sống hiện đại hối hả, nhưng luôn luôn có hoa thật hoặc giả chỗ tài xế xe bus, trong pḥng vệ sinh; nét vẽ đặc sắc của bảng chỉ dẫn; cách gói hàng mỹ thuật; tŕnh bầy thức ăn giản dị đẹp mắt, phục vụ lịch sự khác hẳn tiệm ăn Tầu...

 

Không phải chỉ bề ngoài để hấp dẫn du khách, mà văn học Nhật từ ngàn xưa đă cho thấy cái quan tâm thẩm mỹ này. Hiệp sĩ Âu Tây xưa chỉ cần được đôi bao tay của người yêu là trân quư cất ngay dưới mũ; nhưng Hiệp sĩ Nhật đ̣i hỏi người yêu phải có cốt cách, văn hóa, biểu lộ qua kiểu cọ, chất liệu, mầu sắc của bao tay, hoặc tờ thư văn hoa, nét chữ bay bướm... Nếu không th́ h́nh như bị vỡ mộng.

 

Thế kỷ X triều đ́nh c̣n nâng thẩm mỹ lên hàng giáo điều, qua những nghi thức, lề thói cung đ́nh tỉ mỉ, từ Vua xuống tới cả triều đ́nh. Ai cũng phải biết làm thơ, viết chữ đẹp, pha mầu mực, gấp thư đúng cách...Dần dần ảnh hưởng ra các tỉnh thành, rồi từ người sang xuống dân giả b́nh thường, để ngày nay trở thành phổ quát. Mùa anh đào nở đài phát thanh, truyền h́nh liên tục thông báo hoa nở chỗ này 9/10, chỗ kia 8/10 để dân chúng đang nín thở theo dơi tùy thích chọn địa điểm đến ngắm. Nhà nào cũng cố gắng trang trí đẹp mắt, nếu không th́ ít ra có một góc để phô diễn mỹ quan truyền thống của Nhật là giản dị và thanh lịch.

 

Mỹ học Nhật Bản thường được t́m hiểu qua những từ khóa như myiabi (thanh lịch, ưu nhă), hakanasa (ngắn ngủi, phù du), okashi (du khoái), iki (quư phái), sui (gợi cảm), ma (khoảng trống), furyu (phong lưu), yugen (u huyền), aware (bi cảm), shibui (tinh tế, khiêm cung), mono no aware (sự vật bi cảm), sabi (tịch mịch), wabi (tàn phai, u uẩn), mujo (vô thường), kawaii (dễ thương, xinh đẹp)....diễn tả từng đặc trưng cái đẹp Nhật.

 

Donald Keene tóm gọn các đặc điểm mỹ học Nhật vào bốn nét chính: 1- biểu tượng gợi ư; 2- bất đều, bất đối xứng; 3- giản phác, đơn thuần; 4- phù du, vô thường.

 

Dĩ nhiên để tránh đơn điệu nhàm chán tại kiến trúc, nghệ phẩm thỉnh thoảng cũng có điểm xuyết vài nét cường điệu, cân đối, đều đặn, phức tạp, và bền vững lâu dài. Mặt khác phân biệt bốn nét chính trên để dễ lănh hội, chứ thực tế chúng có những sắc thái trùng lặp tương hỗ.

 

 

1/ BIỂU TƯỢNG, GỢI Ư

 

Fujiwara no Kinto (966-1041) chia thơ hay thành 9 loại, đứng đầu là thơ mà ngôn ngữ tài t́nh huyền diệu, chuyên chở nhiều ư nghĩa hơn là các chữ diễn đạt.

 

honobono to 

Akashi no ura no 

asagiri ni 

shimagakureyuku 

fune wo shi zo omou 

mờ mờ

ngày ló dạng ở vịnh Akashi;

và trong sương mù buổi sáng

tim ta theo con tầu đang khuất dần

sau một ḥn đảo

 

Những âm o của ḍng đầu vang vọng trong ḍng cuối rất hay, nhưng tuyệt vời là khả năng bài thơ gợi ra những ám chỉ. Tác giả đau nhói tim khi nh́n con tầu chở người yêu khuất sau đảo, hay tác giả muốn đi theo, hay tác giả buồn v́ lỡ tầu... không thấy nói rơ, ai hiểu sao cũng được. Cái hàm hồ ư nghĩa c̣n gia tăng huyền ảo nhờ cảnh sông nước mờ mờ, con tầu khuất dần và t́nh cảm sâu lắng.

 

Cái biểu tượng, gợi ư này đến thế kỷ XII trở thành cái đẹp sâu xa huyền bí được Fujiwara Shunzei (1114-1201) phát triển thành một nguyên tắc thẩm mỹ "u huyền" (yugen) định nghĩa như là cái lư tưởng bán cổ điển của phức tạp âm thanh truyền đạt qua các vang âm của thơ biểu tượng đầy tính chất miêu tả. Khiến ta liên tưởng đến cái biểu tượng mơ hồ đầy sức mạnh tinh thần của Edgar Allan Poe hay thơ phái Mông Lung Trung Quốc sau Cách Mạng Văn Hóa. Mơ hồ không rơ nghĩa c̣n được hỗ trợ bởi tiếng Nhật thiếu phân biệt số ít số nhiều, bất định xác định, thành thử gợi ư càng được mở rộng.

 

kareeda ni

karasu no tomarikeri

aki no kure

trên cành cây héo úa

quạ đậu

đêm thu xuống

 

Bài haiku trên của Basho (1644-94) có thể hiểu khác nhau: một hay nhiều cành hoặc quạ đều đúng; và ḍng cuối có thể hiểu là đêm cuối cùng của mùa thu cũng được. Basho không nói rơ ư định của ḿnh và độc giả tùy hiểu. H́nh ảnh quạ đen, ban đêm trên cành héo úa, c̣n cho thấy Nhật thích đơn sắc, cùng mầu, không hoa ḥe hoa sói, nghĩa là giản đơn, không rườm rà, giống như văn nghệ sĩ đời Tống mà Nhật chịu ảnh hưởng.

 

Kịch No có tính biểu trưng gợi ư cao độ: sân khấu sơ sài giản lược, rất ít đạo cụ; không - thời gian của kịch nhiều khi bất hợp lư; ngôn ngữ mơ hồ; động tác thiếu cụ thể, không ăn khớp với nghĩa của chữ; như thể đây là biểu tượng bên ngoài của một kinh nghiệm hoặc chân lư xa xôi nào đó tùy mỗi khán giả tự t́m hiểu. Tây Phương không hiểu No, khó thưởng ngoạn, chê bố cục vô nghĩa, tính cách nhân vật không thích đáng.....

 

Thầy tăng Shotetsu thế kỷ XV cho rằng Yugen (u huyền) chỉ có thể hiểu được bằng trí óc, không thể diễn đạt bằng ngôn từ. Tính chất biểu trưng huyền bí sâu xa này được gợi ra khi nh́n làn mây che vừng trăng hoặc sương thu bao phủ lá đỏ tươi trên sườn núi, và không thể giải thích được. Người b́nh thường th́ chỉ thích nh́n trăng núi rơ ràng.

 

Thưởng ngoạn cái đẹp nhiều khi chỉ cần gợi ư và ngoạn giả phải tưởng tượng để hoàn tất chỗ bỏ lửng.

 

Kenko (1283-1350) trong Nhàn Dư Tản Mạn (Essays in Idleness) đă tự hỏi: chúng ta phải chăng chỉ ngắm hoa anh đào lúc nở, chỉ xem trăng lúc không mây? Mong thấy trăng trong khi nh́n mưa; hạ mành xuống mà không biết Xuân đang qua- đây là những cảm hoài sâu xa hơn. Cành cây sắp nở hoa hoặc vườn rải rác hoa úa mới là đáng chiêm ngưỡng hơn. Thảo nào có người thích xem hoa chưa nở, hoặc chỉ nở 8/10, và có người lại thích ngắm hoa tàn.

 

Tây Phương thích cái ǵ hoàn tất, cái cao trào của sự việc. Kenko cho cái đó không thích thú bằng cái đầu và cái cuối, v́ hoàn tất th́ c̣n ǵ đâu để tưởng tượng, trong khi cái đầu gợi ra cái tiếp sau, cái cuối để tưởng tượng c̣n bay bổng thêm. Khiến ta liên tưởng đến các tranh phái hồn nhiên (naive), lập thể, trừu tượng... Khán giả tha hồ tưởng tượng trong khi thưởng ngoạn. Hồ Dzếnh cũng đề cao cái đẹp dang dở, không toàn vẹn:

 

T́nh chỉ đẹp khi c̣n dang dở

Đời mất vui khi đă vẹn câu thề.

 

 

2/ BẤT ĐỀU, BẤT ĐỐI XỨNG.

 

Người Nhật có khuynh hướng chuộng cái đẹp, tránh cái thô trọc của đời thường. Họ t́m thấy cái đẹp trong cơi tự nhiên nhiều bất đều, ít đối xứng. Thơ văn từ xưa đă tránh đều đặn, đối xứng, như thể chúng g̣ bó, cản trở gợi ư, tưởng tượng. Kiến trúc, hoa viên hiếm có bố cục đồng đều, phải có cái ǵ lệch trục. Đá xếp trong vườn không đều đặn, ngay ngắn và thường là số lẻ, không bao giờ số chẵn. Thơ haika 31 âm tiết bố cục trong 5 hàng cũng theo số lẻ 5,7,5,7,7. Thơ haiku gồm 3 ḍng 17 âm tiết cũng chia theo số lẻ 5, 7, 5. Mặc dù chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa chú trọng đều đặn, đối xứng, Nhật Bản luôn luôn t́m cách thoát ra cái khuôn khổ nhân tạo này.

 

Theo Kenko cái ǵ đồng dạng, đều đặn th́ ít thích thú. Cái bất toàn, bất túc để lại chỗ cho phát triển tiếp, sinh động hơn. Người b́nh thường cho rằng sách không cùng khổ, xếp không đều đặn trông xấu; nhưng Tăng Chủ Koyu bảo "Thói thường kẻ kém thông minh luôn luôn đ̣i cái ǵ cũng phải đủ bộ. Không đủ bộ tốt hơn." Thật vậy, trông bộ sách Harvard Classics xếp đều đặn trên kệ chả ai muốn lôi ra một quyển để đọc.

 

Đồ gốm Nhật được ưa chuộng hơn là thứ đừng quá hoàn hảo, h́nh thể đừng quá cân đối. Tốt nhất có chút t́ vết nhỏ nào đó, là dấu ấn của nghệ nhân. Kiến Trúc Versailles, Alhambra có vẻ cứng nhắc, kỷ hà, toán học, chỗ nào cũng đối xứng, đều đặn, không cho cảm giác thư giăn, thoải mái. Vườn Trung Quốc khá hơn, nhưng vườn Nhật vượt xa hơn nữa về mặt ḥa đồng với thiên nhiên, và là chỗ nghỉ ngơi thư giăn, nhờ nhiều bất đều, bất đối xứng, nhiều cây lá, ít hoa.

 

 

3/ GIẢN PHÁC, ĐƠN THUẦN

 

Thiền Nhật ảnh hưởng mạnh trên văn hóa, chú trọng đơn giản, tiết chế, dùng phương tiện tối thiểu để đạt hiệu quả tối đa. Vườn cần cây lá đá sỏi hơn là hoa sặc sỡ nhiều mầu, và chỉ vừa đủ, không nên dư thừa. Đền đài, dinh thự và nhà dân đều trang hoàng giản dị. Tuy nhiên trước thế kỷ XIX vẫn có trường hợp thích hoành tráng giống kiến trúc Tây Phương, Trung Quốc. Vd Lăng Tokugawa ở Nikko có những khắc trạm, trang trí nhiều mầu.

 

Uống trà được nâng lên thành trà đạo, ở đây tính giản dị, u tịch (wabisabi) nổi bật trong cấu trúc, trang trí lều trà cũng như trà cụ. Chủ nhân thừa điều kiện, nhưng luôn luôn thích lều giản dị, chiếu, bàn nâu đậm, ấm rỉ sét, tách cũ kỹ... do thấm nhuần cái tinh thần đơn giản truyền thống. Hoa bên ngoài không hương, đơn sắc. Trà đạo là một kiểu nghệ thuật ẩn giấu, bề ngoài trông giản phác thô thiển tự nhiên, nhưng thật ra có cố t́nh xếp đặt, và trị giá mọi thứ rất đắt v́ phẩm chất thuộc loại hảo hạng.

 

Thực phẩm Nhật thiên về rau cá, ít thịt, ít gia vị, giữ nguyên cái mùi vị đơn thuần bản nhiên càng nhiều càng tốt, lại hết sức vệ sinh, sạch sẽ. Tại buổi uống trà, cũng có thức ăn nhưng mùi vị tinh tế, khiến có người xếp hạng miếng đậu phụ chấm nước sốt đậu nành c̣n cao hơn sơn hào hải vị khác. Nhất là tŕnh bầy thức ăn giản dị mà đẹp mắt, phục vụ chu đáo đầy nghệ thuật. Giản dị và đơn thuần muốn hiệu quả cần chú trọng phẩm chất. Cho nên ngay trong kịch No, mỗi động tác nhỏ của diễn viên đều có cân nhắc, cần được thưởng ngoạn một cách sành điệu.

 

Kenko c̣n áp dụng khái niệm giản dị, khiêm cung, tiết chế vào tác phong. Theo đó, người lịch sự nên tránh tỏ ra hiểu biết nhiều, trả lời quá những ǵ được hỏi. Không nên ch́m đắm vào các thú vui, lúc nào cũng nên giữ thái độ tự nhiên, ung dung, tự tại, phong lưu, khoáng dật... khiến ta nghĩ đến cái tính phớt lờ của dân Anh. Giản dị c̣n là nét đẹp lâu bền không bị ảnh hưởng bởi các trào lưu nghệ thuật thay đổi không ngừng.

 

 

4/ PHÙ DU, VÔ THƯỜNG

 

Phật Giáo và Thiền ảnh hưởng mạnh đến văn hóa Nhật. Theo đó mọi vật đều phù du, vô thường, mong manh, khiến chúng trở nên trân quư, có vẻ đẹp đặc biệt. Thơ văn không thiếu những than văn về tính chất phù du của cái đẹp và t́nh yêu. Kenko viết rằng nếu người ta không bao giờ tan biến đi như sương ở Adashino (nghĩa trang), khói ở Toribeyama (địa điểm ḷ thiêu xác) mà cứ tồn tại dai dẳng măi trên đời, th́ làm sao mọi vật c̣n sức mạnh lay động chúng ta. Cái quư giá nhất trên đời là không chắc chắn.

 

Cái mong manh của cuộc sống đa số không ưa, và ít được thừa nhận là một điều kiện của cái đẹp. Người Nhật không những biết rơ cái đẹp phù du mà c̣n tôn xưng mọi nét đẹp của các sự vật cho thấy rơ cái phù du vô thường này. Ngoài lư do nhiều động đất, nhà cửa Nhật thường xây cất bằng vật liệu gỗ, giấy không có vẻ ǵ là lâu dài bền vững, nhưng chúng được chăm sóc kỹ càng, mỹ thuật tỉ mỉ. Đồ gốm cũ kỹ, vá víu, ghi dấu vết thời gian, cho thấy sắp tàn, h́nh như có một vẻ đẹp chân thực, lại được quư trọng hơn; trong khi Tây Phương chỉ thích cái ǵ bất tử (vd. đền đài vững chắc đồ sộ), cái ǵ cáu cạnh. Chỉ khi vải lụa nền tranh đă sờn phía trên phía dưới và xà cừ tô điểm đă rơi mất th́ bức tranh cuốn mới thật đẹp.

 

Khái niệm mono no aware (cảm xúc sâu xa trên sự vật): cái đẹp u buồn của cảm thông giữa con tim nhậy cảm và sự vật phù du được thấy rất rơ trong trường hợp hoa anh đào.

 

Hoa anh đào được trân quư v́ thời gian hoa nở ngắn ngủi đến năo ḷng, và có thể không được người ngắm kịp th́ đă tàn lụi. Hoa mận giống hoa anh đào nhưng nở lâu trên cành không được chuộng bằng. Samurai (hiệp sĩ Nhật) thấy ở hoa anh đào cái biểu tượng của tinh thần hiệp sĩ, chết trẻ giữa trận tiền, giống như hoa nở rụng sớm. Hoa anh đào tượng trưng các đặc điểm giản phác, đơn thuần, phù du, vô thường, bi cảm của mỹ học Nhật Bản khiến ta liên tưởng đến câu thơ cổ:

 

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng

Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu

 

Thực tại biến đổi không ngừng, những khái niệm thẩm mỹ có thể thay đổi, bổ sung theo thời đại. Ngày nay xử dụng phổ thông là xe hơi, hàng điện tử (smartphone, game, máy ảnh....), thời trang, điện ảnh, chai rượu, lon bia... với những h́nh dạng muôn h́nh muôn vẻ. Nhưng với con mắt tinh tế, sành điệu người ta vẫn có thể nhận ra mấy đặc điểm chính nêu trên trong cái đẹp của văn hóa Nhật Bản. Chúng h́nh như có giá trị phi thời gian.

 

 

Phạm đức Thân  

 

 

 

 

art2all.net