Hoàng thị Quỳnh Hoa

 

KHẢI ĐỊNH NỊNH ĐỒNG KHÁNH

Để tưởng nhớ chị Yến Chi

 

 

 

          Năm mươi năm trôi qua như một giấc mộng. Nghe th́ có vẻ sáo nhưng thật đúng như thế. Mới ngày nào chúng tôi phải từ giă trường Đồng Khánh, ngôi trường đă chứng kiến chúng tôi thoát xác, thay đổi h́nh hài, từ những em bé tiểu học xinh xinh đến các thiếu nữ vừa tuổi dậy th́, ríu ra ríu rít, cứ tưởng ḿnh đă trưởng thành rồi v́ giáo sư vẫn hằng ngày nhắc nhở ‘các chị lớn nhất trường’ – ngày đó trường chỉ có đến lớp đệ Tứ - rồi thi đậu thành chung. Viễn ảnh học cùng con trai ở trường Khải Định làm chúng tôi lo sợ lắm. Chị họ tôi sợ quá phải xin lên Đà Lạt học. Tôi c̣n nhớ ngày cuối ở Đồng Khánh, trời đă chiều mà chúng tôi, tất cả lớp đệ Tứ, vẫn tần ngần trước cửa lớp ngoài sân, lượm những xác phượng đỏ, trao nhau địa chỉ, dặn ḍ nhau lần cuối sẽ viết thư cho nhau, sẽ nhớ nhau. Không ai muốn dứt ra về trước th́ được tin mẹ Vân sinh con trai. Vậy là ba đứa chúng tôi: Vân, Nguyệt, Quỳnh Hoa vội đi về thăm ‘mạ’ và em bé. Rồi những ngày hè dài cũng lặng lẽ trôi qua và ngày tựu trường sắp đến. Ba đứa chúng tôi vẫn thường gặp nhau và cùng lo lắng hồi hộp. Lo lắng không biết chương tŕnh đệ Tam có khó không, không biết ḿnh học có hơn con trai không. Chúng tôi vẫn chiếm bảng danh dự ở Đồng Khánh trong bốn năm Trung học đệ Nhất cấp. Hồi hộp không biết ‘tụi con trai’ sẽ cư xử như thế nào. Không nhớ rơ ai, h́nh như Ngô Vân, nói rằng ḿnh phải lo học thuộc bài luôn chớ thầy kêu lên bảng mà không thuộc th́ dị với tụi con trai. Nguyệt nói tụi hắn cũng như ḿnh, sợ chi! Ôi chao, bao nhiêu lo lắng viễn vông. Không biết mấy anh chàng có lo lắng khi phải học với con gái không.

Rồi ngày tựu trường cũng êm đềm đến, êm đềm đi mà giờ đây tôi không nhớ ǵ th́ chắc không có biến cố chi quan trọng, chỉ nhớ đại khái là Khải Định c̣n học nhờ ở khuôn viên trường Đồng Khánh, đệ Tam ở tầng dưới cùng. Con gái chiếm hai dăy bàn đầu. Chúng tôi ngồi bàn thứ nh́, dăy gần cửa lớp. Chừng vài tuần th́ mấy anh đệ Nhị, đệ Nhất bắt đầu để ư đến bọn con gái Tam C làm chúng tôi cũng hơi mơ màng. Chị Duy Thạnh (đệ Nhị B ở lầu ba) mách mỗi khi thấy tôi ở dưới lầu một là có anh ngâm nga: “Quỳnh Hoa chiều đọng nhạc trầm mi.” Đối với con trai cùng lớp th́ chúng tôi hết sợ rồi v́ chúng tôi coi họ như ‘đàn em’ và bắt đầu phá phách. Hồi đó có mấy thầy trẻ như thầy Pḥ, thầy Tế, thầy Mục không nhiều tuổi hơn chúng tôi bao nhiêu nên chúng tôi lo học bài của mấy thầy nhiều hơn, sợ không thuộc bài th́ ê lắm! Chúng tôi - chừng 10 đứa - hay rủ nhau mặc áo cùng một màu, ngày th́ màu xanh da trời, ngày màu vàng, màu hồng. Có ngày th́ cả bầy mặc áo đen như bầy quạ. Các thầy cũng biết chúng tôi đùa nghịch nhưng cứ tảng lờ. Có một hôm, không hiểu sao mấy ả ngồi bàn đầu nghỉ học hết. Tôi ngồi đong đưa hai chân đụng vào băng ghế của bàn đầu và bỗng nghĩ là nếu đạp mạnh, băng ghế ngă ra th́ chắc vui lắm. Nghĩ xong là đạp liền. Khi nghe ghế ngă đánh đùng tôi mới thấy sợ, vội co chân lại, mặt mày tỉnh bơ, vờ nh́n quanh như thầm hỏi ai là thủ phạm! Thầy Pḥ đang giảng bài, giật ḿnh khi băng ghế ngă xuống nhưng Thầy vẫn b́nh tĩnh vừa tiếp tục giảng bài vừa đi đến nhấc băng ghế lên mà tuyệt nhiên không hề điều tra thủ phạm. Xin cám ơn Thầy. Cho đến bây giờ mỗi khi bắt gặp học tṛ tôi nghịch ngợm, tôi lại nhớ đến Thầy và cố gắng giữ b́nh tĩnh không la mắng. Lại một hôm, có một ông nghịch ngợm viết bài thơ Hán văn chữ thật lớn rồi dán bên hông mặt bàn của giáo sư. Ai lên đứng trên bục đọc bài cũng có thể nh́n thấy mà thầy không biết. Cụ Đệ (dạy Hán tự?) rất vui v́ ai cũng thuộc bài thơ Hán văn rất khó nhớ. Nhưng rồi, một anh chàng không rơ quên kính cận hay sao mà cứ rườn người tới gần bàn thầy chăm chăm nh́n bài thơ mà vẫn ấp a ấp úng đọc không xuôi! Cuối cùng Cụ đâm nghi. Cụ bước ra ngoài và thấy bài thơ dán bên hông mặt bàn. Cụ tức giận lắm mà chúng tôi th́ vừa buồn cười, vừa lo, vừa ái ngại Cụ buồn. Sau đó th́ cả lớp bị consigne ngày thứ bảy. H́nh như từ năm sau trở đi th́ không có giờ Hán tự nữa.

Dạo đó có hai, ba người con trai cùng lớp hay đến nhà tôi học bài chung. Tôi cũng nói cười lớn tiếng như họ. Cô tôi thường gọi vào pḥng trong và nhắc: “Em nói lớn quá. Con gái phải ăn nói nhỏ nhẹ một chút.” Tôi dạ dạ nhưng nghĩ bụng mấy thằng bạn học cùng lớp chứ có phải ai xa lạ đâu! Hồi ấy chị tôi, Hoàng thị Yến Chi, đổi qua ban C nên học chung với tôi. Chị hơn tôi ba tuổi, vẫn coi tôi trẻ con và vẫn để ư chăm sóc. Ngày ngày chị vẫn ôm sách vở đến trường cho tôi như hồi c̣n ở Đồng Khánh. Chị thừa hưởng chiếc xe đạp nhôm của Ba nên chị về nhà ăn cơm trưa, c̣n tôi th́ ở lại trường. Một hôm, ăn cơm xong, tôi và bạn Hoàng Yên Chi (gấn giống tên chị tôi) đang đi đi lại lại dọc hành lang để học bài, bỗng nghe mấy người con trai x́ xào: “Dữ, dữ, con gái ǵ mà dữ quá. Không ưng th́ thôi, lại đi mách Hiệu Trưởng.” Lúc đầu tôi cũng không để ư nhưng sau hễ thấy chúng tôi đến gần th́ họ lại x́ xầm. Tôi quay sang Yên Chi: “Họ nói ai vậy? Có phải họ nói Yên Chi không?” Yên Chi ngần ngừ rồi nói: “Vậy Quỳnh Hoa thật sự không biết? Tụi nó nói Quỳnh Hoa đó.” Tôi ngẩn ngơ. Yên Chi vội vàng giải thich là có một xừ trong lớp viết thư cho tôi và gởi bảo đảm về trường, bị ông Hiệu trưởng kêu lên la rầy. Anh chàng tưởng tôi mách nên hậm hực lắm, kể hết với mọi người. Tôi ức quá chạy vào lớp vừa khóc vừa phân bua là tôi không hay biết ǵ cả và lớn tiếng yêu cầu Yên Chi dạy cho tôi cách chửi thề để chửi cho hả giận. Yên Chi vốn có tiếng chanh chua hay chửi thề. Lúc ấy sắp đến giờ vào lớp. Chị tôi vừa bước vào cửa, thấy tôi bù lu bù loa, vội la lớn: “Ai chọc nó khóc vậy?” Mấy người con trai vội vàng: “Không ai chọc ghẹo ǵ đâu, v́ hiểu lầm thôi,” rồi hướng về tôi năn nỉ: “Thôi đừng khóc nữa. Như vậy là biết oan rồi. Thầy sắp vào lớp rồi, đừng khóc nữa mà tụi tôi bị la.” Chị tôi cùng mấy bạn gái d́u tôi ra bến Thừa Phủ rửa mặt. Đó là lần đầu tiên trong đời – và chắc cũng lần cuối - tôi khóc trước đám đông. Ngày hôm trước, ông Hiệu Trưởng, thầy Huỳnh Ḥa, kêu tôi lên và biểu kư vào sổ biên nhận để lănh một bức thư bảo đảm. Nhưng thầy không đưa thư cho tôi mà lại xé phong b́ lấy thư ra. Vừa xé thầy vừa nói: “Ngoài phong b́ th́ để tên một học sinh Đồng Khánh nhưng thầy nghi lắm, để thầy coi trước.” Khi thấy nội dung bức thư, thầy phán: “Thôi, chị khỏi đọc, về lớp đi.” Và tôi bước ra khỏi pḥng vui mừng v́ cứ tưởng bị la, bị phạt ǵ. Tôi cũng không thắc mắc ai là tác giả bức thư, sao lại gởi bảo đảm. Tôi chưa hề nhận thư bảo đảm nên cũng ú ớ. Vân và Nguyệt lo sợ giùm khi tôi bị gọi lên pḥng Hiệu Trưởng và mừng rỡ thấy tôi trở về lớp tươi cười. Tôi cũng chỉ nói là có ai gởi thư bảo đảm nhưng thầy Hiệu Trưởng đọc rồi giữ luôn lá thư. Thầy Huỳnh Ḥa cũng ở Kiệt Hai Âm Hồn, xế cửa nhà tôi và biết gia đ́nh tôi. Chắc v́ vậy mà Thầy không cho tôi đọc lá thư t́nh ấy. Khi tôi kể chuyện cho cô tôi nghe (cô Kim Cúc) th́ cô mới cho hay là hồi tôi c̣n học ở Đồng Khánh, cũng có nhiều cậu viết thư về trường nhưng cô Tham tôi (bà Tổng Giám thị trường Đồng Khánh) xé thư hết. Bà nói với cô Cúc: “Nó c̣n non nít. Đừng cho nó biết!”

Hồi ấy, Quế Hương, Vơ thị Nguyệt, và tôi được con trai gán cho biệt hiệu là ‘Ba Cái Frigidaire’. Chắc tại chúng tôi không trả lời thư ai, không hẹn ḥ với ai, mà cũng không biết thẹn thùng e lệ nghiêng nón nh́n trộm ai. C̣n con tim của Ngô Vân th́ đă bắt đầu biết thổn thức rồi, nhưng thổn thức một cách ngây thơ vô tội vạ. Ai đời, gần 20 tuổi rồi mà “ăn một mâm ngồi một chiếu” là lo sợ mang bầu mà không dám hỏi ai! Nhà Vân có làm một cái cḥi sau vườn, giới trẻ thường lên đó trải chiếu ngồi ăn cơm cho mát, mới có vụ ngồi cùng chiếu. Mấy năm sau gặp nhau tại Đại học Sư Phạm, Sài G̣n th́ Vân cưới chồng rồi.

Có nhiều buổi đẹp trời, ba đưa chúng tôi đă đến cổng trường nhưng quyết định trốn học, lên chùa Sư Nữ chơi. Chúng tôi mượn một chiếc chiếu, ra vườn sau trải chiếu dưới bóng mát của cây nhăn, vừa nằm nói chuyện gẫu vừa nghe kinh. Trưa được ăn bữa cơm chay thanh đạm mà sao ngon quá. Chúng tôi kháo nhau nếu ăn chay mà ngon như thế này th́ chắc tụi ḿnh tu được. Nguyệt lắc đầu: “Nhưng phải dậy từ 5 giờ sáng mỗi ngày để tụng kinh th́ chắc dậy không nổi đâu.” Mỗi khi nói chuyện đi tu th́ tôi nhớ chị Chi tôi. Chị thường nói: “Tau đi tu được, dậy sớm tụng kinh cũng được, ăn chay cũng được, nhưng lâu lâu cho ăn dĩa bánh bèo.” Chị thích bánh bèo, thích ăn bún lá với nước mắm ớt tỏi chanh, thích chè. Ngày nào đi chợ về, chị người làm cũng mua cho chị một tô chè trôi nước. Chị khỏe mạnh nên ăn uống dễ dàng, người có da có thịt. C̣n tôi th́ cứ èo ọp v́ không ăn được, không ngủ được với cái nóng của Huế, cỏm rỏm chỉ 35 kí-lô. Chị vẫn thường trêu: “con T (tên cúng cơm) không cần mặc soutien. Hắn có chi mô mà nịt!” Tôi trả đũa ngay: “C̣n mập như chị th́ không anh chàng nào có thể nhớ chị mà hát: “Anh nhớ trước đây dáng em gầy gầy…” và chị tức lắm, đuổi tôi chạy cùng nhà. Ước chi chúng tôi có thể sống lại những chuỗi ngày êm đềm ấy.

Khi tôi lên đệ Nhị th́ chị tôi đi lấy chồng. Rơ ràng chị lấy người chị chọn, vậy mà ngày rước dâu chị khóc quá, chắc là điềm không hay. Khi đưa dâu về đến nhà trai, bà mẹ chồng dẫn chị vào pḥng tân hôn rồi khóa cửa pḥng và bỏ ch́a khóa vào túi bà. Hỏi th́ bà nói phong tục xưa là vậy, cô dâu không được phép ra tiếp khách. Đến khi họ nhà gái ra về, bà mới mở cửa pḥng để chúng tôi chào chị. Chị níu áo tôi khóc ngất làm tôi cũng nức nở và bực ḿnh gắt: “Ai ép chị đi lấy chồng đâu mà khóc quá vậy. Hay chị đi về nhà với tụi em đi.” Bà mẹ chồng vội vàng kéo tôi ra khỏi pḥng và khóa cửa lại. Bà rất quư chị nhưng bà quá cổ lổ sĩ nên chị tôi khổ.

Ba tôi nhát gan không cho chúng tôi đi tắm sông. Tôi năn nỉ người anh họ, anh Bửu Trí, xin giùm. Anh Trí bảo đảm sẽ tập cho chúng tôi bơi và chăm sóc chúng tôi cẩn thận. Thế là những ngày nghỉ học, một đoàn gồm Diệu Tâm và các anh của Tâm, Diệu Hạnh – là fiancée của anh Trí hồi ấy – anh Trí, chị Yến Chi và tôi sáng sớm đạp xe về Cồn tập bơi. Ở bên Cồn, nước cạn mà sạch. Mấy anh là thầy dạy. Tụi con gái chúng tôi không ai biết bơi. Sau một thời gian ngắn th́ ai cũng biết bơi trừ tôi! Diệu Hạnh chỉ bơi brass thôi, mà lạ một điều là cô nàng không hề ướt tóc v́ lúc nào cũng ngóc đầu lên khỏi mặt nước, bơi đi bơi lại hoài không mệt. Diệu Hạnh nói không bơi crawl được v́ không thở dưới nước được. Chị Chi tôi cũng học rất nghiêm túc. Diệu Tâm bơi được cả brass lẫn crawl. Tôi không muốn ướt tóc nhưng không thể nào ngóc đầu lên như Diệu Hạnh được nên đành tập bơi crawl, nhưng làm biếng tập thở nên thường hay nằm yên trên phao rồi nhờ mấy anh đẩy đi chơi! Sau này sang Mỹ, tôi có học bơi ở YWCA mà cũng chỉ bơi được hết chiều dài của hồ bơi thôi. Hơn 50 năm qua rồi mà những h́nh ảnh ấy vẫn c̣n rơ ràng trong trí nhớ tôi. Chị tôi đă từ giă chúng tôi nhiều năm rồi. Cô Cúc tôi và anh Bửu Trí cũng ra đi từ lâu. Nghe đâu người con trai viết thư bảo đảm cho tôi năm đệ Tam cũng không c̣n. Bạn Diệu Hạnh th́ mới phiêu diêu miền vĩnh cửu năm rồi (1998). Sau khi rời trường Khải Định, tôi được dịp về thăm Huế năm 1965. Diệu Hạnh đă chở tôi và Nguyệt đi chơi suốt một ngày.

Tôi bị sốt thương hàn cuối hè năm đệ Nhị. Khi tựu trường năm đệ Nhất, ông Hiệu Trưởng Nguyễn Văn Hai giao cho tôi tổ chức buổi lễ chào cờ có Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm tham dự. Ông nói: “Tôi biết chị chưa được khỏe lắm, chị đừng ra sân, chỉ ghi xuống họa đồ chỗ đứng của các lớp thôi.” Nhưng tính tôi cẩn thận và thấy không mệt nên muốn ra sân xem lại lần cuối trước khi Tổng Thống đến. Vừa ra giữa sân th́ trời bắt đầu đổ mưa và mưa thật lớn. Về nhà hôm đó tôi bị sốt lại. Thầy Hai cho ban Xă Hội đem cam tới thăm và rất ân hận v́ lo cho công tác của Thầy mà tôi bị relapse. Tôi không trách Thầy, chỉ nghĩ là số bị bệnh th́ đành chịu thôi! Và tôi phải nghỉ học gần nửa năm. Khi đă khỏe, tôi xin đi học lại v́ ở nhà buồn quá. Ba tôi bắt hứa là đi học cho vui nhưng không được học bài! Tôi c̣n nhớ giờ Lư Hóa của thầy Tôn Thất Tắc, tôi không hiểu bài, đặt câu hỏi th́ Thầy bảo: “Thôi, chị mới đau dậy, tôi có giảng chị cũng không hiểu đâu.” Và Thầy không giảng!

Bài luận triết đầu tiên của Cha Luận tôi không biết làm. Một anh bạn cùng lớp tận t́nh chỉ cho tôi cách học và cách làm bài. Bài luận triết học đầu tiên ấy tôi được 14 điểm. Có một mầm non văn sĩ mà tôi quên tên rồi chỉ được một điểm. Anh lên kiện Cha nói làm sao mà điểm giữa hai bài có thể chênh lệch như vậy. Cha cho đọc hai bài cho cả lớp nghe. Bài của tôi không văn hoa nhưng lư luận găy gọn. Bài của ảnh th́ văn chương bay bướm nhưng không vào đề. Chúng tôi học ban C, ngày nào cũng có hai giờ Triết, khô khan buồn ngủ lắm. Chúng tôi mới t́m cách đi chơi. Tôi xin Cha đi ra ngoài, lần lượt Vân và Nguyệt cũng xin ra. Ba đứa chúng tôi qua trường Đồng Khánh ăn bánh bột lọc, bánh bèo, đậu hũ của chị Bụi. Một thời gian sau th́ Cha cũng biết nhưng không rầy la ǵ. Khi tôi xin ra khỏi lớp Cha cũng cho, nhưng khi Vân lên xin ra th́ Cha nói chờ QH vào đă, và tôi chờ măi không thấy ai ra th́ cũng biết cơ mưu bại lộ nên đành trở vào lớp th́ thấy Cha cười tủm tỉm. Thế là từ đó không được đi ăn quà nữa.

Những năm tháng cuối cùng ở Khải Định thật êm đềm. Tôi không lo lắng ǵ chuyện thi cử, chỉ đi học cho vui thôi. Các thầy ở trường cũng không bắt làm bài. Cha Luận hay cho tiền ăn kẹo. Gần cuối năm, mấy anh con trai xúi chúng tôi xin tiền Cha đi ciné Cha cũng cho. Tôi c̣n nhớ mấy ông chọn phim ‘Salaire de la peur’. Phim quá hồi hộp làm bọn con gái chúng tôi sợ quá, nhắm mắt không dám xem! Khi ra về, chúng tôi rủa mấy ông quá. Mua vé vào rạp để sợ hăi hai tiếng đồng hồ, thật là dại.

Đến kỳ thi Tú tài Hai, tôi cũng nộp đơn đi thi v́ thi viết chỉ có ba bài luận văn: một Pháp, một Anh và Việt (Triết). Vào pḥng thi hứng chí hay sao mà tôi làm được ba bài luận văn suông sẻ và đậu đợt thi viết. Nguyệt cũng đậu. Hai đứa chúng tôi đi t́m xin Maxiton uống để thức học bài thi vấn đáp. Cả đời học tṛ của tôi, tối hôm ấy tôi uống viên thuốc thức ngủ lần đầu. Tôi ở lại nhà Nguyệt. Ăn tối xong th́ hai đứa quyết định mỗi môn chỉ học một bài thôi và sẽ thức suốt đêm. Đến chừng một giờ rưỡi khuya, chúng tôi ra sân định rửa chân tay cho mát th́ thấy chuột chạy, sợ quá hai đứa vào pḥng đóng cửa ngủ luôn! Chín giờ sáng hôm sau, mẹ Nguyệt – là bà của tôi v́ là em ruột bà nội tôi – đấm cửa pḥng bảo: “Hai đứa không sửa soạn đi thi sao mà giờ này c̣n ngủ.” Và chúng tôi chạy vội đến trường. Năm đó, chắc tử vi tôi có sao hóa khoa, hồng hỷ hay sao mà vào môn nào thầy cũng hỏi đúng bài tôi mới học. Thế là tôi đậu luôn kỳ thi vấn đáp. Nhưng đậu rồi th́ lại gặp rắc rối là Ba không cho đi Sài G̣n học đại học v́ chưa được khỏe lắm, cần tỉnh dưỡng thêm. Ba phán nếu không muốn ở nhà th́ ghi tên học Dược v́ năm dự bị (stage) có thể học tại Bệnh viện Huế. Tôi đành ghi tên để đi học cho vui th́ gặp Lê Liên cũng học stage ở nhà thương. H́nh như có Hoàng Thị Hạnh nữa v́ ba chúng tôi có chụp chung một bức h́nh năm đó. O Nguyệt cũng bị ép học Dược nhưng phải vào Sài G̣n. Hồi đó tôi không biết Lê Liên đă phải ḷng thầy Pḥ. Hai người chắc cũng đă toan tính ǵ rồi nên Liên cũng không chú ư đến việc học mấy. Ngày ngày Liên đạp xe vào nhà tôi trong thành nội. Nếu đẹp trời th́ hai đứa đạp xe qua nhà thương, thay áo trắng, pha pha chế chế dưới sự chỉ dẫn của chị Tôn Nữ Hà, dược sĩ trưởng pḥng. Hôm nào trời mưa th́ hai đứa chui vào chăn ấm nói chuyện gẫu. Có mấy lần Lê Liên có vẻ muốn tâm sự, nhưng cứ rào trước đón sau: “Không biết tau có nên nói cho mi nghe chuyện ni không. Mi phải thề giữ kín…” và tôi sợ không giữ kín được nên gạt phắt: “Nếu mi sợ rứa th́ đừng nói. Tau cũng không muốn biết chuyện bí mật của mi.” V́ vậy mà tôi không hay biết ǵ về chuyện yêu đương giữa thầy và tṛ. Tôi và Lê Liên cùng vào Sài G̣n để thi cuối năm nhưng Lê Liên đă bỏ về Huế trước kỳ thi để lo đám cưới!

Chắc bạn đọc thắc mắc tại sao tôi lại chọn đầu đề “Khải Định Nịnh Đồng Khánh”.

Hồi c̣n học ở Đồng Khánh, chúng tôi thường trêu các chú, các anh bà con học Khải Định rằng chúng tôi oai hơn v́ Đồng Khánh là cha Khải Định! Th́ mấy ông la lên: “Oai ǵ! Đồng Khánh (tức học tṛ Đồng Khánh) gánh cứt trâu.” Nói cho có vần chơi thôi, tiếng Mỹ gọi là nonsense rhyming mà con nít thường nói. Chúng tôi cũng không chịu thua nói lại liền: “Khải Định nịnh Đồng Khánh. Khải Định nịnh Đồng Khánh.” Và từ đó hễ nghe tên hai ngôi trường này là tôi không thể nào không nghĩ đến hai vế theo sau. Khải Định đi liền với Đồng Khánh cũng như Chu Văn An đi liền với Trưng Vương và Gia Long đi liền với Petrus Kư vậy.

Cám ơn Ngô Vân đă gọi điện thoại, viết thơ, giục tôi đóng góp bài vở cho anh Nhâm nên tôi phải viết cho bạn vui, và nhờ thế, tôi có dịp nhớ lại những kỷ niệm xưa, những năm tháng không lo âu ở thành phố Huế, thành phố của hằng ngàn, hằng vạn cựu học sinh Khải Định và Đồng Khánh.
 

Hoàng thị Quỳnh Hoa

 

art2all.net