Song Nhị

LỜI RAO GIẢNG CỦA THƠ

 

 

 


Diên  Nghị


BÀI THƠ VIẾT TRƯỚC CỔNG TRƯỜNG VẠN HẠNH

 


 

BÀI THƠ VIẾT TRƯỚC
CỔNG TRƯỜNG VẠN HẠNH

Của SONG NHỊ

Tôi trở về thăm lại trường xưa
Khuôn viên cũ đă thay lề đổi thói
Câu Duy Tuệ (*) xoáy ḷng người
nhức nhối
Từng nỗi buồn thấm lạnh từng cơn

Tôi trở về văng vẳng nỉ non
Ngọn tháp rưng rưng
giữa chiều cuối hạ
Rên rỉ oán hờn
Quằn quại hồn Chiêm quốc
Mười năm núi lở đá ṃn
Mười năm hồn người nhập viên đá cuội
Ch́m lặng giữa ḍng sông
Từng đợt sóng ngược ḍng cuồn cuộn
Kéo tan hoang một cơi cơ đồ

Tôi trở về thăm lại trường xưa
Trong thác nguồn của thời Vọng Nghiệp
Cuốn đời theo thiên tai
Ngỡ ngàng hư thực
Mở cửa chân như: Lệ thấm Phật đài!

Tôi trở về thăm lại người xưa
Người xưa xuống núi
Tôi lục lọi từ hư vô
T́m sắc hoàng y một thời rạng rỡ
Người năm xưa tán lạc mơ hồ
Ôm kinh điển trá h́nh vào cơi tục
Đám sinh đồ nh́n theo lơ ngơ
Gẫm từng trang Thị Nghiệp (*)

Tôi trở về thăm lại trường xưa
Cổ tháp rêu phong giữa đời gió bụi
Bầy chim nhỏ ẩn ḿnh sau mái ngói
Kinh sách cuộn ḿnh phủ bụi nằm mơ

Tôi trở về thăm lại trường xưa
Hồn mê mải góc giảng đường thư viện
Một thuở ḷng say mê
Một thuở đời rộn ră...

Mười năm tơi tả tôi về
Chập chờn ác mộng
Thiện ác chân giả lập lờ
Một cơi trần ai nhốn nháo
Bặt tiếng kinh cầu
Trời đất hoang sơ

song nhị
Sài G̣n 1985

(*) Duy Tuệ Thị Nghiệp là châm ngôn trên huy hiệu Đại Học Vạn Hạnh.

          Trước năm 1975, Viện Đại Học Vạn Hạnh đă đào tạo nhiều thế hệ sinh viên miền Nam. Viện có những phân khoa: Phật học, Văn Học và Khoa học Nhân văn, Khoa học Xă hội, Báo chí. Thượng Tọa Thích Minh Châu giữ chức Viện Trưởng, giảng viên, ngoài các giáo sư chuyên khoa, thính giảng, c̣n có nhiều tu sĩ Phật giáo. Phù hiệu nhà trường khắc chạm 4 chữ: “Duy Tuệ Thị Nghiệp”. (*)
 

Nhà thơ Song Nhị xuất thân từ lọ đào tạo này, theo học và sinh hoạt trong nhiều năm, đồng thời cũng là nhân chứng trong cuộc đấu tranh, ư thức hệ Quốc Gia - Cộng Sản của một bộ phận sinh viên - một nhóm nhỏ bí mật hoạt động thân cộng, thời điểm 1967-1968. Qua thời gian đă minh chứng rơ ràng, sau 30 /4/1975, những người này sau đó là cán bộ của “mặt trận thôn tính”, có mặt trong những cơ sở chính quyền mới của họ tại thành phố Sài g̣n.
 

Nhận diện rơ bạn thù, từ đó. Song Nhị, trong hàng ngũ quân đội VN Cộng Ḥa, một Sĩ Quan biệt phái, cùng số phận với hàng triệu con người bị lùa vào các trại tù từ Nam ra Bắc. Khổ sai lao động, cải tạo tư tưởng khốn đọa, đói rét, tưởng không c̣n có ngày về!
 

Sau 10 năm, Song Nhị may mắn trở về thành phố Sài g̣n. Một chiều cuối hạ, tác giả đến viếng ngôi trường cũ, bằng cảm xúc thiết tha, chùng ḷng trước sự đổi thay mất mát:


Tôi trở về thăm lại trường xưa
Khuôn viên cũ đă thay lề đổi thói
Câu Duy Tuệ xoáy ḷng người nhức nhối
Từng nỗi buồn thấm lạnh từng cơn


Nỗi buồn nối tiếp nỗi buồn như đợt sóng lùa vào tâm cảm, mỗi đợt sóng thấm vào da thịt, xoáy xốc nhức nhối, buốt tê trước lề thói đă lạc thời, phai dấu!
 

Đứng trước cổng trường nh́n khuôn viên lạ lẫm, biển dâu nào biến thể sông đồng như Tú Xương thuở trước “Sông kia giờ đă nên đồng, chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai”.

Ngoại cảnh đập vào tâm thức, thấy mà chưa nghe - Thấy đă buồn đă xót - Đến khi nghe những ǵ hiện hữu, giữa chiều cuối hạ, ngọn tháp giữa khuôn viên trường, văng vẳng âm thanh trầm lụn nỉ non - Lời rên rỉ mang nặng oán hờn hồn Chiêm quốc, cuộc suy vong lịch sử tái hiện:


Tôi trở về văng vẳng, nỉ non
Ngọn tháp rưng rưng giữa chiều cuối hạ,
Rên rỉ oán hờn
Quằn quại hồn Chiêm quốc


Mười năm nghiệt ngă theo ḍng lưu đày tại thế, người sinh viên cũ về thăm trường xưa. Ngoại giới thẩm nhập sâu nội tâm, ḥa chung giọng điệu, phát ra suy tưởng về một cơ đồ, một sự nghiệp, một quá khứ, ch́m đắm giữa không gian tàn nhẫn - Những ngọn sóng bạc đầu ngược ngạo, hung hiểm phủ lấp cơi người yếu đuối, thất cơ nhẫn nhục, chịu đựng âm thầm như những viên đá cuội vô tri giác, dưới đáy những gịng sông!


Mười năm núi lở đá ṃn
Mười năm hồn người nhập viên đá cuội
Ch́m lặng giữa ḍng sông
Từng đợt sóng ngược ḍng cuồn cuộn
Kéo tan hoang một cơi cơ đồ..


Lần trở về chẳng khác một giấc mơ. Đứng trước cổng trường ngỡ ngàng, đơn độc - như vừa trải qua cơn thiên tai - cuộc đời của vạn cuộc đời trong thời Vọng Nghiệp. Hy vọng, tin yêu dựa vào sự cứu rỗi thiêng liêng giáo thuyết Đức Thích Ca. Nhưng niềm tin muộn màng. Vội mở cánh cửa tâm linh - Phật đài đẫm lệ - nh́n vạn hữu chúng sinh giữa ta bà bất ổn thực hư:


Tôi trở về thăm lại trường xưa
Trong thác nguồn của thời Vọng Nghiệp
Cuốn đời theo thiên tai
Ngỡ ngàng hư thực
Mở cửa chân như: lệ thấm Phật Đài!


Thăm trường - trường c̣n đó, cảnh vật đă đổi sắc màu. Người muôn năm cũ, c̣n ai để gặp. Người xưa đáng nhớ, đáng nhắc: các vị Thầy, quí Thượng Tọa, Đại Đức, Vị Viện trưởng...
 

H́nh ảnh tráng sĩ hạ sơn khác biệt tu sĩ hạ sơn. Tráng sĩ hạ sơn hành hiệp cứu người, giúp người yếu bị kẻ mạnh đàn áp, ức hiếp; tu sĩ hạ sơn gợi tưởng một thời Mạt Pháp - Bỏ chùa xuống núi không để cứu khổ cứu nạn, mà tín hiệu của kẻ vụng đường tu, nửa đường lui gót. Từ bỏ hoặc phủ nhận “xin trở về cơi tục để làm dân – [Vũ Anh Khanh]”.
 

Viện trưởng, Thượng Tọa Thích Minh Châu th́ ra đă trở thành tín đồ Mác Xít miền Bắc. Song Nhị xót xa, nuối tiếc, lồng trong ẩn dụ mỉa mai, khinh bạc kẻ “ôm kinh điển trá h́nh vào cơi tục” mà nghĩ tới “sắc hoàng y của một thời rạng rỡ” đă loăng lem, mờ nhạt, khuất tất vào hoang thẳm hư vô.
Đạo và Đời - Tôn giáo và Chính trị đến đây như một vấn nạn, một hoài nghi về tâm thức, tư tưởng các bậc chân tu.


Tôi trở về thăm lại người xưa
Người vừa xuống núi
Tôi lục lọi từ hư vô
T́m sắc Hoàng Y một thời rực rỡ
Người năm xưa tán lạc mơ hồ
Ôm kinh điển trá h́nh vào cơi tục
Đám sinh đồ nh́n theo lơ ngơ
Gẫm từng trang Thị Nghiệp!


Khi gặp lại cảnh - buồn theo cảnh - Không gặp được người, nuối tiếc cho người - Diễn tiến tâm trạng trong hiện thế, thời gian ngưng đọng, đủ cho người xưa lưu luyến kỷ niệm một thời.
 

Càng trông nh́n càng rơ, cổ tháp đă rêu phong, c̣n có bầy chim nhỏ, ẩn ḿnh sau mái ngói, tạo một liên tưởng về cuộc sống của biết bao người tán lạc, không nơi nương thân, không mái ấm gia đ́nh, chẳng khác đàn chim không tổ, lạc loài tan tác, lang bạt đó đây. Rồi nữa, kinh sách quằn quại dưới lớp bụi phủ dầy - chôn chặt giấc mơ thời Thịnh Pháp:


Tôi trở về thăm lại trường xưa
Cổ tháp rêu phong giữa thời gió bụi
Bầy chim nhỏ ẩn ḿnh sau mái ngói
Kinh sách cuộn ḿnh, pbủ bụi nằm mơ


Người trở về đứng trước cổng trường, chưa nỡ vội rời chân. Hồn đê mê ḥa nhập quá khứ - Đây giảng đường, kia thư viện, những lối ngơ vào ra. Một thời tuổi trẻ nhiệt thành hoài băo. Một thời ngẩng đầu cao nh́n lên phía trước, rộn ră lứa tuổi hai mươi:


Tôi trở về thăm lại trường xưa
Hồn mê mải góc giảng đường thư viện
Một thuở ḷng say mê,
Một thuở đời rộn ră...


Mười năm tơi tả tôi về – Mười năm - mười năm vật đổi sao dời. Người về đă trải cuộc thách thức nghiệt ngă. Mang hành lư khốn đọa của tháng năm Khốn đọa trở về - Về đây - như cơn ác mộng!
 

Sau những ngỡ ngàng, bức xúc, người về hồi tỉnh dần, cảm nhận rơ bối cảnh sống của một xă hội khác lạ, vong bản, tha hóa. Âm dương lập lờ, lẫn lộn giữa Thiện Ác – Thánh Thần cùng chung nơi chốn với Qủy Ma. Một xă hội đă quay ngược giai cấp, giao động tâm tư con người. Khuôn phép rẻ rúng, quyền sống bị đe dọa, đạo lư đă ra đi. Một xă hội coi tôn giáo là một thứ thuốc phiện của quần chúng:


Mười năm tơi tả tôi về
Chập chờn ác mộng
Thiệc-Ác, Chân-Giả lập lờ
Một cơi trần ai nhốn nháo
Bặt tiếng kinh cầu
Trời đất hoang sơ.


Bài thơ, tự sự theo tŕnh tự lớp lang, cách dẫn truyện qua cảnh xúc, cảnh vật trước mắt (từ khuôn viên, ngọn tháp, bầy chim...) trong thế tĩnh trải dần dần đến thế động âm thanh (vằng vẳng, nỉ non, rên rỉ, oán hờn). Trong không gian ba chiều, ngang, dọc khắc họa rơ nét nơi chốn. Chiều sâu giữa những câu thơ ẩn chứa tư tưởng, phản chiếu ư nghĩa cốt lơi cao xa ‘Duy Tuệ Thị Nghiệp” trên thân tháp đă bị đục rỗng - Cơ sở trường ốc không c̣n được xử dụng đúng chức năng, vị thế. Giảng đường, thư viện thành nơi lưu cư của đám người xa lạ, mà đàn chim ẩn ḿnh trên mái ngói là biểu tượng, của biết bao người tan cửa nát nhà! khi chế độ mới chủ trương tước đoạt và thanh lư.


Bài thơ không chỉ nói lên nỗi tiếc thương, cho số phận nhà trường, của tư tưởng “Duy Tuệ Thị Nghiệp”, bài thơ c̣n minh hoạ bối cảnh xă hội đương đại dưới ách độc tài, độc đảng Mác-xít, bóp nghẹt quyền làm người, không c̣n tự do ngôn luận, tự do suy tưởng, tự do tín ngưỡng. Quần chúng đă tự hoá thành những khoáng thể (đá cuội) cam chịu, lặng lẽ chôn chặt dưới ḷng sông, do bản chất bạo lực của kẻ cầm quyền (đợt sóng ngược ḍng cuồn cuộn).
Tâm linh hoảng loạn bởi bặt tiếng kinh cầu. Niềm tin tôn giáo hư hư thực thực, kinh sách lép ḿnh dưới lớp bụi lăng quên, cả đến nhân vật trách nhiệm trường xưa - màu hoàng y luốc lem, phai nhạt - Kẻ trá h́nh đă ôm kinh điển vào tục luỵ đa đoan (kinh điển trá h́nh).


Nhà thơ, người chiến sĩ miền Nam, sau mười năm tơi tả trở về - Người trong cuộc bộc bạch tâm sự khi đối diện với thực tại trớ trêu “một cơi trần ai nhốn nháo”, “thiện ác chân giả lập lờ”- Một mẫu người cô đơn giữa hồng hoang thời đại, phải là con người thiết tha, thành khẩn gắn bó với kỷ niệm, với quá khứ mới bày tỏ được t́nh cảm chân thực chính ḿnh, gửi gắm vào những ḍng thơ khúc chiết.

 

 

 

Toàn bộ bài thơ, cấu trúc gọn gàng, hài hoà kỹ thuật. Âm hưởng thơ len lỏi vào hồn người đọc những dấu lặng từ chữ nghĩa dâng trào thương hận xót xa...


Tự sự riêng của Song Nhị, cũng là tâm t́nh của người cùng trang lứa, cùng thời điểm, cùng kỷ niệm.


Từ góc độ của quá khứ, với dấu ấn lăng mạn tâm t́nh, th́ quá khứ nào cũng đậm nét mỹ cảm, khó phai quên; Nhưng từ góc độ quá khứ lịch sử, hẳn là không thiếu những nghịch cảnh đáng buông lời nguyền rủa.

Diên Nghị


-----------------


* Trích thi phẩm “Về Lối Đi Xưa” Cội Nguồn 1999
* Do trí tuệ để thấy rơ ḿnh [chú thích của người viết].
 

 

 

Thơ văn

 

art2all.net