Song Nhị

LỜI RAO GIẢNG CỦA THƠ

 

 

 

Trần Tuấn Kiệt


ĐỌC THƠ SONG NHỊ




Sự Điêu Linh Nào Đă Tạo Nên TIẾNG HÓT LOÀI CHIM DI

Chất Trữ T́nh Say Đắm Trong VỀ LỐI ĐI XƯA

Bản Trường Ca Lịch Sử Dân Tộc Nối Dài Trong TIẾNG HỜN CHIẾN MĂ

 

VỀ LỐI ĐI XƯA
        
 

Tôi đọc trong thi phẩm Về Lối Đi Xưa của Song Nhị có hai câu:

Mai kia tàn cuộc nhục vinh.
Con về bên mẹ tạ t́nh núi sông
.

Rồi lại đọc tiếp:

Cũng đành thưa mẹ, vong thân.
Mai con nhập tịch làm dân xứ người!

Thưa anh

Thế sự phế hưng coi vẫn rộn!
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.

Đại thi gia phái nữ là Bà Huyện Thanh Quan đă nói lâu rồi. Và cũng trong tinh thần người đàn bà lớn lao đó đă lấy làm thường! Có chi mà rộn! Với những kẻ lên voi xuống chó những lớp lang lịch sử ấy!

Trong trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười!

Có phải thơ của Đặng Trần Thường chăng! Lâu quá nên tôi đă quên tác giả của hai câu này.

Tôi lại nhớ tới “Cũng đành thưa mẹ, vong thân” trong bài viết cho Bùi Ngọc Tuấn trên báo Khởi Hành của Viên Linh. Tôi đă viết “Có những kẻ vong thân ở tại đất nước này” những kẻ đó hiện đang được Đười ươi khỉ vượn tôn lên ngôi báu phong tước vị Anh Hùng, có chứng minh nhân dân là gốc Kinh, là dân tộc Việt Nam chính hiệu và hơn nữa là người Vô Sản Vô Thần chính cống! Thật là khôi hài cho lớp lang lịch sử hiện đại Việt Nam.

Đối với chúng ta, anh có làm thơ hay, có tâm t́nh cao thượng hơn bọn họ hay không là điều đáng nói hơn. V́ dường như tôi thấy không lầm, thơ Song Nhị là một gịng nước sa từ cội nguồn kia mà! Dù anh có nhập tịch Nga, Mỹ, Anh, Úc... hay Phi châu hay Iran, Iraq hay Hy Lạp anh vẫn không từ chối được anh là người Việt đâu.

Có lần tôi ở tù chung với một đám du đăng, tù chung thân ở trại Gia Trung, trong buổi cơm, có một anh bạn tù đột nhiên hét lớn: Mẹ nó! Vái Trời cho tôi chết đi, khi sống lại đừng cho tôi đầu thai làm người Việt Nam. Tôi chán làm người Việt Nam quá rồi! Anh này cũng giống như dân Vô sản bỏ gốc Việt lấy tổ quốc Liên Xô vậy. Cũng có lần Bùi Giáng đưa tôi coi bức thư của Renéchard gởi cho Bùi Giáng khi ông hỏi về tương lai đất nước Việt Nam. Renéchard trả lời. “Anh đừng lo, Việt Nam sau này là một thánh địa!”

Tôi thêm một ư nữa với Bùi Giáng: Thánh địa là Thiên Đường Cộng Sản đó, ông có thích không!

Từ đó Bùi Giáng ngao du cho đến ngày Tận Thế 75 và sau 75 cho đến khi về với cội nguồn tổ tiên.... Bây giờ th́ chúng ta đang ở vào buổi b́nh ḿnh sáng thế của nhân loại. Song Nhị ơi! Tặng bạn mấy câu thơ ḿnh viết trong tập Nai từ lâu:

Trăng ơi ngủ với hồn ta
Đầu hôm nghe vọng tiếng gà B́nh minh
Lá kia sương bỗng run cành
Khói đồi chim lạ kêu thành xuân thu
Ngàn hoa mai trắng lũng sâu
Hương đèo bóng núi t́m đâu tiếng rừng
Cách tràng giang đến ngàn trùng
Mà ta vẫn nhớ thương từng bước Em

(TTK)

Nay tôi đi t́m những lúc “Em c̣n hái trái bên cây, vết son mùa để dấu hài đầu tiên” đó trong thơ Song Nhị, với Về Lối Đi Xưa của anh.

Và xin mời các thi hữu, thi gia, các bạn yêu thơ cùng đọc với tôi qua các bài sau đây:

1. Chợt nghĩ về Xuân (trang 19)
2. Về lối đi xưa (trang 20, 21, 22)
3. Oan khiên
4. Nhớ lắm Saigon (trang 53)
5. Bốn (trang 69)
6. Đóm lửa cuối năm (trang 74, 75)
7. Khúc ca dao t́nh (trang 83)
8. Ngày đón em về (trang 85, 86)
9. Sơ ư (trang 131)
 


KHÚC CA DAO T̀NH

Phải là em đến hay không
Để tôi biết chắc mùa Đông qua rồi

H́nh như cây cỏ trên đồi
Hẹn nhau một lượt trổ chồi lộc non

Phải là nhịp gơ guốc ḍn
Xôn xao lối lạ thuở tṛn trăng xưa

Phải là một buổi chiều mưa
Để tôi chung nón che đưa em về

Phải em đến buổi trưa Hè
Rừng hoa bướm lượn đứng mê mải nh́n

Phải câu thơ viết rất t́nh
Bởi tôi biết chắc rằng ḿnh yêu thơ

Phải là một buổi vào Thu
Để tôi gọi gió về ru lá vàng

Bao nhiêu hoa lá trên ngàn
Gọi nhau mở hội hẹn nàng bến Xuân
.
19-4-97

Toàn tập thơ Về Lối Đi Xưa của Song Nhị là một thi phẩm Trữ T́nh, là một bản t́nh ca đẹp nồng nàn muôn thuở của thi nhân.

Nói đến T́nh Ca, thơ Song Nhị đă là một bản T́nh Ca rồi, nói như thế tôi nhớ tới một câu chuyện ở tại La Pagode trước 75 - Anh Phạm Duy ngồi gần tôi với các thi văn hữu khác. Chợt Phạm Duy nói với tôi “Thơ ai tôi cũng phổ nhạc được. Chỉ có thơ cậu là tôi không phổ nhạc được!” - Tôi nh́n Phạm Duy cười không trả lời. Riêng tôi không thích đưa thơ của ḿnh cho người khác phổ nhạc. Thơ là thơ. Nhạc là nhạc. Thơ đă là t́nh ca rồi th́ cần nhạc làm ǵ cho lạc mất tính chất, và hơn nữa tinh thể của thơ mà ít khi âm nhạc đạt tới được. Chỉ có thế thôi! Cũng v́ thế tôi chỉ đi học nhạc có vài năm rồi bỏ trường Quốc Gia Âm Nhạc để quay về với Thơ. Tôi nói như thế, ư cũng mời bằng hữu yêu thơ đọc bản T́nh Ca Về Lối Đi Xưa của Song Nhị, vừa ngâm vừa hát cho thật đúng tinh thần Trữ T́nh say đắm của nhà thơ.

Nói cho đúng th́ thơ Song nhị có đủ mọi tính chất, mọi khuynh hướng. Anh làm thơ và xuất bản rất nhiều từ lâu nay. Muốn nhận định về một nhà thơ nào, chúng ta phải đọc thật kỹ tất cả các tác phẩm của họ. Có nhiều vần thơ hay, sâu kín của thi sĩ, chúng ta không đọc hết mà cứ nhận xét nhận định.... th́ là một sai lầm lớn. Tôi không có thời gian, không c̣n bao nhiêu tâm huyết, sức lực để bàn về thơ cho nên chỉ nói về cảm tưởng của ḿnh ít nhiều về Song Nhị. Rồi đây các trang thi sử, các sách viết về thi nhân, thi ca người ta sẽ nói đến Song Nhị đầy đủ hơn. Nay xin bàn ngoài lề một chút....

Từ việc đọc thơ Song Nhị, tôi muốn nhắn với lớp trẻ, sau chúng ta, khi làm thơ ngoài thi hứng và tài năng của ḿnh, cũng nên đặc biệt trải qua mọi khuynh hướng như Lăng Mạn, Tượng Trưng, Hiện Thực, Siêu Thực... Sử Thi... qua các vần điệu của luật xưa, của lục bát, song thất lục bát của Việt Nam, và thể hiện căn bản nghệ thuật thật vững vàng rồi hăy bắt đầu tung hoành, tự do sáng tác theo chiều cảm hứng và tư tưởng của ḿnh. Có nhiều bạn trẻ ở Việt Nam ngày nay có tinh thần, vượt qua mọi ràng buộc về tư duy tuyên truyền của duy vật Xă Hội Chủ Nghĩa. Họ viết thật mạnh, tuy nhiên chưa đạt tới một nghệ thuật tinh tế và sáng tạo lớn được v́ không học, v́ bất cần, nên vô t́nh để rơi vào khuôn sáo tầm thường chỉ tạo ra được cái loạn vô ư thức của thi ngôn thi ngữ, chứ không tạo ra nổi những vần thơ đích thực có tầm vóc lớn, nhất là cứ ở trong các nhóm, các hội thơ của nhà nước không biết mở tầm học hỏi ra khỏi phạm vi của ṿng vây nghiệt ngă của bức màn Cộng Sản đă diệt hết mọi tự- do và tiếng thơ chân t́nh của chính ḿnh. Thay v́ ra khỏi các trường trại sáng tác thi ca để đạt tới tinh thể của nghệ thuật đương đại, nhất là tự măn với một tí hư danh của ḿnh. Thơ muốn đạt tới đỉnh phải tử công phu, cũng như các môn nghệ thuật khác. Sự khinh bạc coi thường người trước chỉ là một hành động ấu trĩ mà thôi.


TRẦN TUẤN KIỆT
Sài G̣n, 7 - 2006
 

~~oOo~~

 

TIẾNG HÓT LOÀI CHIM DI

 

          Từ thời thượng cổ, người Việt thờ chim Thần - Thần điểu. Trong loại chim Thần đó có chim Trĩ Trắng là sứ giả văn hóa Việt. Việt Thường Thị đem cống (trao đổi văn hóa) chim Trĩ Trắng và Rùa Thần. Trên mai rùa có chữ Khoa đẩu của Việt tộc in rơ dấu tích, thần thoại về sự h́nh thành vũ trụ vạn vật của Thần đạo chính thống Việt Nam. Ngoài ra Việt tộc thờ chim lạc - Thần điểu Việt. Sau này Đinh Tiên Hoàng lên ngôi lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Cồ là đôi mắt lửa sáng rực của loài linh điểu. Truyền thuyết linh thiêng đó là tâm linh muôn đời của người Việt tự ngàn xưa. Không phải vô t́nh mà người Việt ngày nay hay nhắc tới loài Việt điểu. Thời Bách Việt, nước ta gịng Việt tộc đă cư trú gần phân nửa nước Tàu ngày nay. Sau thời chiến quốc, gịng Bách Việt bị Hán đồng hóa, c̣n lại gịng Lạc Việt anh hùng nhất loài Chim Việt kiêu hùng đó trải qua muôn vàn gian khổ, máu xương giữ nước cho măi đến ngày nay. Sự tích Chim Việt đậu cành Nam cũng ghi dấu ấn đau buồn của những người phải xa quê hương cội nguồn, tổ quốc. Con Chim Việt khi bị đưa đi về đất Bắc đă chọn cành hướng Nam mà đậu mà hót... Từ trong tiềm thức, thần thức Việt đă có bóng dáng chim linh v́ thế mà kẻ tha hương bốn bể không phải v́ vô t́nh mà than mà thốt lên lời ai oán. Tinh thần đó, tâm linh đó lại bắt đầu vọng lên âm hưởng của loài chim Việt cành Nam xưa. Khắc khoải sầu đưa giọng lẳng lơ. Ấy hồn Thục đế thác bao giờ. Năm canh máu chảy đêm hè vắng. Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ (Nguyễn Khuyến).

Đến nay th́ gịng lịch sử đen tối của loại ma quỷ ư thức hệ vong thân khiến người Việt lại một lần lưu vong, hằng hà sa số, hằng triệu người Việt lại bỏ quê hương trên những nẻo đường Thủy Mộ Quan (Viên Linh) để đi t́m tự do, lẽ sống nhân đạo hơn, ở đất nước người - Tiếng Hót loài Chim Di - chim Việt của Song Nhị lại một lần lên tiếng u hờn khắc khoải làm động ḷng người, chấn động tâm can, tâm linh và nghĩa khí hào kiệt của dân tộc Việt ở bốn phương trời, gợi cho ḷng kẻ sĩ phương Nam dấy lên những hoài vọng, hoài băo lớn lao, một ư thức về trách nhiệm của người trí thức về lịch sử của thời đại ḿnh phải làm ǵ để giành lại quê hương, giữ lại tinh thần và đạo lư Việt, để thể hiện cái tự-do tuyệt đối của đời ḿnh. Và, nói như Khổng Tử “uy vũ bất năng khuất” - nói như Nguyễn đức Quỳnh “tư tưởng bất năng hoặc” trước loại “Cùm Đỏ” của bạo lực phi nhân tham tàn này.

Tiếng Hót của loài Chim Di đă lên tiếng nhiều lắm, rất hàm xúc nhiều điều mà ở tại quê hương này khó ḷng người dân nói được.

Viết đến đây tôi bồi hồi nhớ đến bao người bạn đă ra đi rời xa tổ quốc. Tôi nhớ đến bao lần nghe những con Chim Việt lên tiếng hót thần kỳ ở khắp mọi nẻo đường tha hương biệt xứ. Và ao ước tất cả những người xa xứ trở về trong bản Anh hùng ca độc lập tự do muôn thuở tại quê hương ḿnh.

Những con Thần điểu Việt nay ở phương trời nào?

Trên núi cao có con Thần điểu
Ba năm thu cánh không tiếng kêu
Ngày hận mây mờ che bóng lửa
Đêm hờn thơ lặn rải sườn rêu
A ha! Thần điểu c̣n nương náu
Chờ ngày thét nở núi khe sâu....

Con Thần điểu bay về đâu từ ngày núi non thay trời đổi chủ, trở thành h́nh bóng chim Việt cành Nam ở tận phương trời hải ngoại nào. Tôi có cảm tưởng đầu tiên như vậy khi đọc “Tiếng hót loài chim di” của Song Nhị, có lẽ tập thơ này là tập thơ “gay cấn” nhất của Song Nhị đây - nói như giọng của thi sĩ họ Bùi. Đối với họ Bùi, chuyện ǵ ghê gớm lắm đều dùng chữ “gay cấn” này mà diễn tả ra cho nó có vẻ... chịu chơi một chút. Sự điêu linh nào đă tạo cho Song Nhị viết tập thơ gay cấn này đến thế. Điêu linh đó thuộc về bi kịch đồi tranh “Hăi hùng bi kịch đồi tranh!” (B.G) của dân tộc Việt. Ai cũng biết là cuộc đấu tranh ư thức hệ giữa Quốc Gia Tự Do và Độc tài đảng trị Cộng Sản. Và điêu linh nhất phe Tự Do thất bại để đất nước rơi vào tay giặc Cộng khiến ta nhớ đến từ Nguyễn thái Học, Nguyễn tường Tam - Ông, trước khi tự vẫn, c̣n kịp ghi: “Anh em Ngô đ́nh Diệm phải chịu trách nhiệm để nước mất vào tay Cộng Sản” - cho măi đến ngày nay một bức màn vô h́nh phủ khắp non sông bằng sự dối trá tham tàn, tội ác và tham nhũng, tất cả đều được tẩy năo bằng nhục h́nh bạo lực cho đến tận vô thức, tiềm thức tim óc của dân tộc. Mà tiếc thay một số người Việt hải ngoại quá vô t́nh, vô ư không nh́n thấy rơ được. Đ́nh miếu thần linh đất Việt, chùa chiền, nhà thờ đều sống trong ṿng vây ư thức hệ Xă Hội Chủ Nghĩa - đường lối tư tưởng văn hóa, nghệ thuật đều thoát thai từ trường trại Xă Hội Chủ Nghĩa. Và tất cả đều là một lũ văn nô cả đến Hoàng Cầm ngày nay cũng không hơn ǵ Phạm Duy, hay Trịnh Công Sơn trong chiến lược văn hóa Đảng cả.

Ngày đêm bọn giáo sư Hoàng như Mai, Trần Bạch Đằng, Trần trọng Đăng Đàn và lũ văn nô Bắc Việt ra sức đánh phá văn nghệ miền Nam tự do một cách điên cuồng u mê ám chướng... đến khôi hài! Tất cả chỉ vun hồi cho cái gốc đại thụ tham nhũng ngu dân để bảo vệ cái tổ quốc non sông mà bọn Mông Cổ này mới cướp được để phụng thờ Mác-Lê.

Nước mất nhà tan! Xưa nay cũng thế thôi! May ra thân phận và đời người c̣n được ra khỏi cái màn ma quỷ của Xă Hội Chủ Nghĩa - để sống lưu vong trong sự tự do quí báu nhất của cá nhân ḿnh, dù thế nào đi nữa c̣n hơn vạn lần anh em ḿnh ở lại, để hằng ngày chạm mặt với kẻ thù luôn khủng bố quanh ḿnh loài chim Việt đó cũng có ngày quay lại. Chờ ngày thét vỡ núi khe sâu. Và anh em ta không có quyền nỉ non than văn nữa. Tôi c̣n nhớ mấy vần thơ của ông Lam Giang Nguyễn trang Trứ dịch:

Đại Vương cờ phất ải xa
Ngậm ngùi thấy bạn đă là quỷ oan
Bừng sôi máu hận muốn tràn
Vần thơ mọn có muôn ngàn kiếm đao!

Hồ Hữu Tường hay Vũ Khắc Nam hay nhiều vị văn hóa lăo thành từng nói. Thời đại chúng ta là thời Tân Xuân Thu - thời Chiến Quốc Mới - những con chiến mă vẫn c̣n đất tung hoành. Sức kiệt hơi tàn th́ chiến đấu bằng văn, có tiền của th́ chiến đấu bằng kinh tế tự do, bằng tất cả mọi thứ ǵ ta có được, thời thế Xuân Thu mà - Gặp thời thế thế thời phải thế! Trong trần ai ai dễ kém ai!

Đừng quên Chim Việt đậu cành Nam, bao giờ chân lư và nhân nghĩa cũng thắng bạo ngược tham tàn, tinh thần dân tộc Đại Việt c̣n đó. Bản anh hùng ca bất tử vẫn c̣n đúng, th́ người tự do Quốc gia làm văn hóa đă thắng Cộng từ lâu rồi. Bọn Cộng Sản làm ǵ có văn hóa mà nói đến chen vai thích cánh với chúng ta được phải không anh em!

Bây giờ th́ mời quí bạn yêu thơ, cùng tôi đọc những vần thơ, đúng nghĩa chân t́nh của nhà thơ Song Nhị gởi đến bằng hữu bốn phương và “Quê hương yêu dấu” của chúng ta - chúng ta không khóc lên v́ quê hương nữa, như cô gái trong thơ Hoàng Trúc Ly độ nào:

Những người xưa đi rồi không trở lại
Một ḿnh tôi lại gặp một ḿnh em
Chiều lửng lơ nghe nắng rụng bên thềm
Em không khóc - mắt buồn ươn ướt đỏ!

Hoàng Trúc Ly

Ta hăy bắt đầu từ “Tiếng Hót loài Chim Di” để rồi chuyển âm nó thành những âm điệu cuồng phong thác lũ của mối Hờn Chiến Mă trên băi sa trường vẫn c̣n đầy đủ khí độ anh hùng của những Chàng Trai Đất Việt (Nguyễn Vỹ). “Tiếng Hót của loài Chim Di” c̣n là tiếng hót của thơ, của kỷ niệm êm đềm, của cuộc t́nh nồng ấm của men t́nh đầy hoa trái ngọt có thủy có chung!

Thời thế này mà con người c̣n giữ được những thủy chung và kỷ niệm th́ thật là hạnh phúc, đó là nhà thơ Song Nhị đấy bạn ạ! Chàng là một Gérar de Nerual của chúng ta đấy.
(Trích bài Tiếng Hót Loài Chim Di trang 13, 14, 15, 16)

T I Ế N G H Á T
L O À I C H I M D I


1.
Hỡi bầy chim trên khóm rừng già
hỡi đàn ngựa hoang trên cánh đồng khô
hăy thức dậy từ giờ
nghe tiếng hát và nghe lời giục giă

Hăy tiếp tục bước đi
đi suốt một ngày
một tháng
một năm
một đời

Một đời
sống
chết
không nguôi

Hăy mang đi những điều dang dở
hăy bước đi trên vô tận con đường
sẽ có ǵ trọn vẹn?
một niềm vui
mấy nỗi buồn!

2.
Hỡi trái tim
đời đời là máu đỏ
đời đời là yêu thương
sao cả trăm năm
trên quê cha khốn khổ
trên đất mẹ nhục nhằn
khổ đau và bội bạc

3.
Hỡi thân yêu
trăm ngh́n lần yêu dấu
cuộc biển dâu làm vỡ vụn tinh cầu
thời gian qua chưa đủ mờ dĩ văng
nên ḷng c̣n trên chóp đỉnh thương đau
nên ḷng c̣n trăm ngh́n lời muốn nói
nên t́nh c̣n trăm ngh́n điều mến thương
trong nỗi ngây ngất không cùng
hăy ném hồn lên đỉnh ngọn sầu đông
uống cạn sương mai giữa bầu trời lạnh giá

4.
Nếu im lặng như một chấp nhận
nếu bước đi như một an bài
nói làm ǵ
để một đời không nguôi thao thức
thêm nhọc nhằn cho toan tính ngày mai

5.
Hăy uống đi
uống cạn khối t́nh sầu nhung nhớ
hăy nghĩ về cuộc trùng phùng
là giả thuyết
ước mơ
hăy tạm quên ngày đau thương khổ nạn
để được yêu nhau hơn cả bao giờ

6.
Trời sẽ nắng cây rừng hoang sẽ dậy
Bầy chim di sẽ vỗ cánh bay về
Ngày sẽ tới và mặt trời sẽ mọc
Hỡi loài người vội vă tỉnh cơn mê

song nhị

VIỆT THẦN *

 

~~oOo~~



TIẾNG HỜN CHIẾN MĂ
 

          Một vài lần Bùi Giáng viết “Có người con gái chửa hoang. Để chàng thi sĩ lang thang suốt đời.

Cũng có một lần tôi gởi Lê Nguyên Đại một bài thơ ngắn tặng anh có bốn câu:

Thơ văn tải đạo đến bao giờ
Tải đạo mà ra thực tải thơ
Thơ gởi mười phương trong nếp gấp
Cơi đời hư thực, huyễn hay mơ!

Cái cơi đời hư hư thực thực đó th́ cần ǵ thi sĩ phải “dấn thân” vào đấu tranh cách mạng, cần ǵ phải lo cho vận mệnh đất nước, dân chủ pháp trị hay độc tài đảng trị? Làm ǵ có tổ quốc, nước non, cội nguồn chủng tộc, hư thực, huyễn hay mơ đó làm ǵ có tinh thần nhân bản tốt tươi hoa lá cành như anh bạn tôi cứ khư khư bênh vực và thích nó khi tôi đề tựa thơ cho anh tơ lơ mơ th́ anh sửa lại là tinh thần nhân bản trong thơ anh! Cái nhân bản kỳ cục đó đối với thi nhân th́ lạ lẫm làm sao, đảo điên làm sao ấy! Nhất là cái nhân bản ấy nó theo súng đạn bom và các chất độc rải khắp thế gian này.

V́ vậy mà tôi thích đi t́m các vần thơ của bè bạn những câu thơ nào ra khỏi cái nhân bản thuyết, cả cái siêu h́nh học Đông Tây để phục vụ cho nó các câu thơ nào vô tư... (tức là không có tư tưởng) nhất là các câu thơ c̣n nguyên vẹn cái bản chất tự-nhiên ố nhất là tính-dục như các câu thơ của Ôn Như Hầu “cỏ cây cũng muốn nổi t́nh mây mưa” hay hơn nữa - Các câu thơ của Hồ Xuân Hương nồng đặc mùi luyến ái chân thực của cái tính tự nhiên loài người. Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng. Yếm đào để lộ dưới nương long... Tuyệt vời hơn gấp ngh́n lần Hữu Thể và Thời gian của Martin Heidegger hay Tư Bản luận của K.Marx. Thật buồn cười, có lần tôi đọc tác phẩm (!) của một ông Tiến sĩ xă hội học Liên Xô tiên đoán rằng “Tư Bản đang dăy chết” - chẳng bao lâu th́ Liên Xô sụp đổ! Sách vở có khôi hài không?

Thôi đi thi nhân! Cơi bờ của thực tại trần gian, tổ quốc này không phải của ta đâu, bọn bị đời coi là điên, là ngông cuồng ngạo mạn, khinh thế ngạo vật, và đủ thứ xà bần của tâm lư con người. Chúng ta cần ǵ phải có một Tinh Cầu Mơ Ước như Trần Dạ Từ! Bởi v́ có một tinh cầu nào thực sự cho cái mộng tưởng viễn lưu đó...

Chúng ta hăy vùi đầu vào với cái ta thích đó là thân xác đam mê, quên ngày quên tháng của nhục thể đàn bà! Như một Nguyễn đức Sơn với Đêm Nguyệt Động, như các bài Thần Thi của Trần Nhựt Tân, và đừng để cho cơn buồn lạnh chết người chi phối tâm linh ta như một Viên Linh với Thủy Mộ Quan, một nỗi tủi hận như Phạm Tường với Gơ Thức Chân Mây...

Ồ! Có lẽ tôi lạc ḍng khi muốn nói đến thơ của một người bạn, đó là thơ của anh Song Nhị. Trong tập Tiếng Hờn Chiến Mă có những bài rất thơ của Song Nhị. Xin trích ra đây

1. Đàn Ngựa Hồng Trên Cánh Đồng Hoang (trang 50)
2. Gởi Người Dưới Trăng (trang 60)
3. Từ Cơi Hồng Hoang (trang 64)

Sau khi anh Nguyễn Mạnh Côn viết “Đem tâm t́nh viết lịch sử” - Tiếng Hờn Chiến Mă của Song Nhị hay văn thơ của Diên Nghị, Phương Triều, Trần Hoài Thư, Bùi Ngọc Tuấn, Phạm Tường, Nguyễn Tôn Nhan... cũng như tác phẩm của nhiều chiến binh khác, làm nối dài thêm bản Trường Ca bất tận của lịch sử dân tộc Việt Nam trong thời hiện đại.

4. Mưa Trên Đồi Cao Su (trang 138)
5. Ư Xuân (trang 140)
6. Viết thư cho vợ (trang 143)
7. Bắt đầu một ngày (trang 144)
8. Người lên đỉnh núi (trang 147)
9. Bài sinh nhật (trang 148)
10. Hai mươi sáu (trang 150)
11. Từ đó t́nh yêu (trang 153 - 154)
12. Khi tôi về (trang 159 - 160)


KHI TÔI VỀ

Mỗi khi buồn tôi làm một bài thơ
mà những lúc vui không có ǵ để nói
tôi ngồi nghe lũ chim rừng về gọi
đàn bướm vàng bay loáng thoáng ngoài sân
từ buổi người yêu chưa gặp lại một lần
nước mắt đă chảy xuôi đầy biển nhớ

Tôi ôm cả trái tim nồng như lửa
đợi một mùa nắng hạ cháy bờ môi
tôi sẽ cầm bàn tay nhỏ em tôi
nói ấp úng như một người phạm tội

Tôi đứng ngó như vô cùng bối rối
để thấy em tôi tóc xơa hiền từ
đôi mắt c̣n vương lại ánh sương thu
tôi khao khát uống với hồ lệ thủy

Tôi ôm ấp dung nhan nàng tuyệt mỹ
giữ lấy trăm năm nguyên vẹn h́nh hài
tôi sẽ ngồi toan tính chuyện tương lai
đời mở rộng con chim Bằng vỗ cánh

Tôi quên hết tháng năm dài bất hạnh
kỷ niệm hôm nay như thể êm đềm
tôi sẽ ngồi kể chuyện những ngh́n đêm
như những ngh́n đêm trằn ḿnh không ngủ

Tôi soăi tay thật êm như gối lụa
tóc xơa mềm em tôi ngủ hồn nhiên
tôi sẽ hôn lên vầng trán dịu hiền
hôn rất nhẹ lên nụ cười ngái ngủ

Tôi đứng dậy cây hồi sinh trổ nụ
con chim về thương tổ ấm xác xơ
người ra đi từ buổi ấy ai ngờ
khi trở lại vết thương đời chưa dứt

Khi tôi về quên trời đông gió bấc
ngày rộn ràng nắng đọng chảy đầy sân
áo em tôi dâng nhịp thở ân cần
từng sợi tóc xôn xao mừng tíu tít

Khi tôi về tuổi xa thời ly biệt
tôi bỏ sau lưng sương gió bụi đường
đời trả em tôi năm tháng yêu thương
tôi ngó lại giang sơn buồn quá nửa.


Thanh Hóa 1980

Đây chỉ là một ít bài trong Tiếng Hờn Chiến Mă mà cơn gầm thét của con Chiến Mă Song Nhị bớt tung hoành v́ “Nợ Nước Thù Nhà” để cho quả tim bốc lửa của ḿnh nói lên tiếng nói của Nữ Thần T́nh Yêu đang dấy lên từ cơi tâm linh sâu kín nhất của thân xác con người.

Tôi trích dẫn để bạn tri âm cùng đọc và cảm thông với tâm t́nh viết lịch sử t́nh yêu của nhà thơ này vậy.

 

SA GIANG *

 

____

 

* Sa Giang, Việt Thần cũng là bút hiệu của nhà thơ Trần Tuấn Kiệt




 

 

Thơ văn

 

art2all.net