Thân Trọng Sơn
LANGSTON HUGUES
1902 - 1967

Một nghệ
sĩ phải được tự do chọn việc ḿnh làm, hẳn nhiên như vậy, nhưng anh ta
cũng phải không bao giờ sợ hăi khi làm những việc ḿnh đă chọn.
( An
artist must be free to choose what to do, certainly, but he must also
never be afraid to do what he might choose. )

Nhà
thơ, nhà văn, nhà viết kịch Mỹ.
Sinh tại Missouri ngày 1/2/1902,
James Langston Hugues chẳng phải là người “đen, đen như đêm tối” mà một
trong những bài thơ đầu tiên của ông nói tới. Về họ nội, ông thuộc ḍng
dơi một người buôn nô lệ Do thái ở Kentucky và một người chưng cất rượu
gốc Écossais. Họ bên ngoại của ông cũng không kém phức tạp.
Sau khi ông ra đời, cha ông quyết
định bỏ đi sang Mexico, nơi không c̣n phải chịu nạn phân biệt chủng tộc.
Hai vợ chồng đành phải chia tay. Bà mẹ chỉ sống nhờ thu nhập ít ỏi khi
kiếm được việc làm, không thể chăm sóc con.
Học xong bậc trung học, Langston
Hugues làm giáo viên dạy tiếng Anh ở Mexico, có thời gian ông sống ở
châu Âu. Năm 1926, in tập thơ đầu tiên "Weary Blues“ ( những khúc
Blues buồn). Khi bắt đầu nổi tiếng, ông mới vào Đại học Lincoln và tốt
nghiệp năm 1929. Năm 1943, nhận bằng tiến sĩ văn chương của Đại học
Lincoln, năm 1963, nhận bằng tiến sĩ văn chương thứ hai của Đại học
Harvard. Năm 1962, sang Liên Xô, sau đó sang Trung Quốc, Tây Ban Nha rồi
trở về Mỹ.
Chỉ sống 65 năm, ông để lại nhiều tác
phẩm thuộc nhiều thể loại: 16 tập thơ, nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch và truyện viết cho thiếu nhi. Những tập thơ nổi tiếng nhất:
Shakespeare in Harlem, 1942; One-Way Ticket, 1945; Montage of a Dream
Deferred, 1952; The Panther and the Lazer, 1967.
Châm ngôn của ông trong công việc là:
“Điều duy nhất để hoàn tất một việc
là bắt tay vào làm, tiếp tục thực hiện và cuối cùng bạn cũng hoàn tất
nó“ ( The only way to get a thing done is to start to do it, then
keep on doing it, and finally you’ll finish it ).
Ông viết nhiều thơ nhưng tựu trung,
các chủ đề chính trong thơ ông đều xuất phát từ cuộc sống cá nhân, kinh
nghiệm với dân tộc, những cuộc du hành, và sự dấn thân vào phong trào
đấu tranh chống nạn kỳ thị chủng tộc.
* Tự hào chủng tộc.
Thơ Langston Hugues nêu bật chủ đề về
tự hào chủng tộc. Ông có niềm tin mănh liệt về sự tự hào đó, có thể nói
ông là người phát ngôn của chủng tộc ḿnh. Ông luôn thúc giục đồng bào
ḿnh hăy tự hào về chủng tộc. Nhiều bài như "I, too"
( Tôi cũng vậy ), “The Negro speaks of Rivers" ( Người da đen nói
về những ḍng sông) là những bài tiêu biểu.
Trong bài "Color" ( Sắc
màu) nói với đồng bào ḿnh:
Wear it
Like a banner
For the proud
Not like a sproud.
Hăy mang nó
Như một ngọn cờ
Để tự hào
Không phải như vải liệm.
* Sự trục xuất và di sản
văn hoá.
Ông lột tả lịch sử sự trục xuất những
người nô lệ khỏi những ḍng sông đen tối và những đại dương. Ông liên
kết chủng tộc những người Mỹ da đen với những ḍng sông. Ông nối kết tâm
hồn và di sản của cộng đồng người da đen với bốn con sông lớn ở Trung
Đông, châu Phi và châu Mỹ. Bằng cách này, bài thơ phác hoạ hành tŕnh
của người da đen và nối kết cộng đồng này với sự khai sinh văn hóa. Ông
nhấn mạnh sự tồn tại của chủng tộc da đen với phong trào qua thời gian.
The Negro speaks of Rivers
I’ve known rivers
I’ve known rivers ancient as the world and older
than the flow of human blood in human veins
My soul has grown deep like the rivers
I bathed in the Euphrates when dawns were young.
I built my hut near the Congo and it lulled me to sleep.
I looked upon the Nile and raised the pyramids above it.
I heard the singing of the Mississippi when Abe Lincoln
went down to New Orleans, and I’ve seen its muddy
bosom turn all golden in the sunset.
I’ve known rivers:
Ancient, dusky rivers.
My soul has grown deep like the rivers.
Người da đen nói
chuyện về những ḍng sông.
Tôi biết những ḍng sông
Tôi biết những ḍng sông cổ xưa như trái đất và già hơn ḍng máu trong
nhân gian trong huyết quản của con người.
Tâm hồn tôi trở nên sâu thẳm như những ḍng sông.
Tôi tắm trong ḍng sông Euphrates trong b́nh minh son trẻ
Và dựng lều gần ḍng Congo.
Rồi nó ru tôi vào giấc ngủ.
Tôi nh́n xuống ḍng Nile và dựng lên những kim tự tháp trên chính ḍng
sông.
Tôi đă nghe tiếng hát con sông Mississippi xuôi ḍng xuống New Orleans
và tôi thấy ḷng sông bùn lầy trở nên vàng óng ả bởi hoàng hôn.
Tôi biết những ḍng sông
những ḍng sông cổ xưa và mờ tối
Tâm hồn tôi bỗng trở nên sâu thẳm như những ḍng sông.
Bài thơ ngụ ư rằng như những con sông
lớn trên thế giới, nền văn hoá châu Phi sẽ tồn tại và ngày càng sâu
thẳm.
* Bất công xă hội và sự
đấu tranh đ̣i b́nh đẳng.
Thơ ông giải thích những điều kiện xă
hội không công bằng mà người da đen phải chịu: một loạt các bài thơ như
I dream a world, Open Letter to the South, Justice, Let America Be
America Again, I Too, Mother to Son… đều nói rơ sự bất công người da đen
phải chịu và hy vọng sẽ đ̣i được công bằng.
I, too
I, too, sing America
I am the darker brother
They send me to eat in the kitchen
When company comes,
But I laugh,
And eat well
And grow strong,
Tomorrow I’ll be at the table
when company comes
Nobody’ll dare
say to me
to eat in the kitchen.
Besides,
They’ll see how beautiful I am
And are ashamed.
I, too, am America.
Tôi cũng vậy.
Tôi cũng ngợi ca nước Mỹ chứ
Tôi là người anh em da sậm
bị đuổi xuống bếp ngồi ăn
Khi có khách đến nhà.
Nhưng tôi vẫn cười
ăn khoẻ và lớn mạnh.
Mai này
Tôi sẽ ngồi cùng bàn
Khi nào có khách
Lúc ấy sẽ không ai
dám bảo tôi
“ mi xuống bếp mà ăn “.
Mặt khác
họ sẽ lấy làm hổ thẹn
khi nhận thấy tôi đẹp biết mấy.
Tôi cũng là nước Mỹ vậy.
* Giấc mơ nước Mỹ.
Đây là giấc mơ của tất cả cộng đồng
da đen, đây là lư tưởng có thể mang lại công bằng bất chấp màu da của
mọi công dân. Lịch sử châu Mỹ là vùng đất của tự do, công bằng để thực
hiện giấc mơ của mỗi cá nhân. Sau khi xoá bỏ chế độ nô lệ, trong khi
người da trắng thực hiện giấc mơ nước Mỹ th́ người da đen vẫn chưa được
công nhận là thành phần của giấc mơ đó.
* Phân biệt chủng tộc.
Trong nhiều thế kỷ, người da đen phải
chịu sự phân biệt đối xử của xă hội Mỹ. Đạo luật Jim Craw đă không cho
họ quyền bầu cử, t́m việc làm, không được giáo dục và những cơ hội khác.
Người da đen không được theo học những trường dành cho người da trắng,
không được đến công viên, không được ngồi cạnh người da trắng trong rạp
hát hay những nơi công cộng.
* Sự đấu tranh và đau khổ của người da đen
Đây là một cuộc đấu tranh không ngưng
nghỉ, họ phải chịu thù ghét và áp bức. Thơ ông mô tả quá tŕnh bị làm nô
lệ, bị lao động, mua bán như những món đồ chơi. Đây là điểm tối của lịch
sử nước Mỹ, người da đen phải ư thức điều đó.
* Mơ ước của người Mỹ da đen.
Một loạt bài thơ đều mang nhan đề gắn
với Mơ ước ( Dream ): Dream Deferred, Dreams, Dream Variation, I
Continue to Dream, As I Grow Older, The Dream Keeper.
* Sự quan trọng của Âm nhạc, đặc biệt là Blues và
Jazz.
Âm nhạc có ảnh hưởng sâu sắc đến
Langston Hugues. Ông coi đây là loại h́nh nghệ thuật duy nhất để diễn
đạt của người Mỹ da đen. Ông gắn kết chúng với thơ để ca ngợi di sản văn
hoá châu Phi, lập nên một trường phái gọi là thơ ca jazz ( jazz poetry),
và ông trở thành một jazz poet nổi tiếng trong thời Phục hưng Harlem.
Cần hiểu Blues là dân ca xuất phát từ
những người nô lệ ở miền Nam Hoa Kỳ. Blues có h́nh thức và âm điệu rất
khác biệt các thể loại âm nhạc khác. Ca từ của Blues có h́nh thức một
câu thơ bao gồm nhiều đoản khúc ( stanza ), mỗi đoản khúc có ba câu. Hai
câu thơ đầu, mỗi câu được lặp lại hai lần, câu thứ ba là câu dùng để
giải thích hay kết luận ư tưởng do câu đầu mở ra.
Blues thường hát về nỗi khổ đau hay
thân phận của con người. Ca từ Blues gói ghém nỗi buồn nhân thế, là
những bài học rút ra từ kinh nghiệm cuộc đời v́ thế chứa đựng những h́nh
ảnh của cuộc sống hiện thực.
C̣n Harlem là thành phố của người da
màu di cư từ miền Nam lên để lập nghiệp Harlem cũng là nơi quy tụ những
nhạc sĩ Jazz tài ba.
“Most of my poems are racial in
them and treatment, derived from the life I knew. In many of them I try
to grasp and hold some of the meanings and rhythms of jazz.”
( Phần lớn thơ của tôi viết về chủ đề phân biệt chủng tộc, và cách ứng
xử với tệ nạn này, rút từ kinh nghiệm cuộc đời theo sự hiểu biết của
tôi. Trong nhiều bài thơ, tôi cố gắng chuyên chở ư nghĩa và nhịp điệu
của jazz )
The Weary Blues
Droning a drowsy syncopated tune,
Rocking back and forth to a mellow croon,
I heard a Negro play.
Down on Lenox Avenue the other night
By the pale dull pallor of an old gas light
He did a lazy sway. . . .
He did a lazy sway. . . .
Bài Blues mỏi ṃn.
Đắm ch́m trong điệu nhạc biến thể
Ngả nghiêng trong tiếng hát ngọt ngào
Tôi nghe chàng nghệ sĩ da đen đánh đàn
Một đêm nào dưới đại lộ Lenox
Bên ngọn đèn hơi ga nhợt nhạt
Tiếng đàn lả lơi
Tiếng đàn lả lơi.
* Lạc quan.
Ông hoàn toàn tin tưởng rằng sẽ có
ngày mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn cho người da đen. Ông chỉ ra rằng cuộc
đấu tranh của họ, sự kiên tŕ và nhẫn nại của họ sẽ không vô ích. Ông
tin là thế giới sẽ thay đổi, sẽ tốt đẹp hơn, sẽ có công bằng xă hội bất
chấp màu da. Những bài thơ chủ đề này rơ nét nhất là I, too; Youth;
Black Workers; Freedom’s Plow; Life is Fine.
Life is Fine.
I went down the river
I sat down on the bank
I tried to think but I couldn’t
So I jumped in and sank.
I came up once and hollered
I came up twice and cried
If that water hadn’t a-been so cold
I might’ve sunk and died
But it was
Cold in that water
It was cold!
I took the elevator
Sixteen floors above the ground
I thought about my baby
And thought I would jump down.
I stood there and I hollered
I stood there and I cried
If it hadn’t been so high
I might jump and died
But it was
High up there!
It was high!
So since I’m still here living
I guess I will live
I could’ve died for love
But for living I was born
Though you my dear my holler
And you may see me cry
I’ll be dogged, sweet baby,
If you gonna see me die
Life is fine
Life is wine
Life is fine.
Đời vẫn đẹp sao
Tôi đi xuống sông
Tôi ngồi trên bờ
Tôi cố nghĩ nhưng không thể.
Thế là tôi nhảy xuống nước và ch́m lỉm
Tôi trèo lên bờ một lần và gào lên
Tôi trèo lên bờ lần hai và khóc !
Nếu nước không quá lạnh
Tôi có thể đă ch́m và đă chết
Harlem
Dưới nước
Lạnh lắm
Lạnh quá chừng!
Tôi đi lên thang máy
Mười sáu tầng trên mặt đất.
Tôi nghĩ đến người yêu của tôi
Và nghĩ tôi có thể lao xuống
Tôi đứng trên đó và gào !
Tôi đứng trên đó và khóc!
Nếu nó không cao đến vậy
Tôi có thể đă nhảy xuống và đă chết.
Nhưng trên đó. Cao quá! Cao quá chừng!
Bởi vậy đến giờ tôi vẫn sống
Tôi có thể đă chết v́ t́nh yêu…
Nhưng nhờ cuộc sống tôi lại được sinh ra
Dù em có thể nghe tôi gào
Dù em có thể thấy tôi khóc…
Tôi sẽ thật khốn kiếp, em à,
Nếu em thấy tôi chết
Đời thật đẹp sao! Đẹp như rượu hồng! Đời thật đẹp sao.
Langston Hugues có nhiều bài thơ rất ngắn, tưởng là giản dị nhưng bài
nào cũng khiến người đọc phải suy nghĩ.
* Dreams
Hold fast to dreams
For if dreams die
Life is a broken winged bird
That cannot fly.
Hold fast to dreams
For when dreams go
Life is a barren field
Frozen with snow.
Hăy giữ chặt ước mơ
V́ nếu mơ qua rồi
Đời như chim găy cánh
Chẳng thể bay tung trời.
Hăy sống trọn ước mơ
V́ khi cạn nguồn thơ
Đời chỉ c̣n tuyết trắng
Phủ cánh đồng ước mơ.
Hai t́nh huống nảy sinh nếu không c̣n ước mơ. Tầm quan trọng của ước mơ.
Ông so sánh việc mất ước mơ như con chim găy cánh ( cuộc sống vô dụng và
vô vọng ). Rồi ông so sánh với cánh đồng tuyết phủ ( lạnh lẽo, cô quạnh
).
Bởi lẽ đó, ước mơ rất quan trọng.
Không có nó, cuộc đời không c̣n ư nghĩa.
* Black Workers
The bees work
This work is taken from them
We are like the bees
But it won’t last.
Ong cần cù lao động
Thành phẩm bị tước đoạt mất
Chúng ta chẳng khác nào loài ong
Nhưng điều đó chẳng tồn tại lâu đâu.
Người Mỹ da màu là một thiểu số phải chịu áp bức, bất công, và kỳ thị
trong mọi mặt của đời sống. Họ không được đối xử như người da trắng.
Giống như ong, họ làm ra bao nhiêu bị tước đoạt hết. Nhưng cuối bài là
một cảnh báo: T́nh h́nh đó sẽ thay đổi.
* History
The past has been a mint
Of blood and sorrow
That must not be
True of tomorrow.
Lịch sử.
Quá khứ từng là kho vô tận
Của máu và khổ đau
Nhưng rồi sẽ không c̣n là
Sự thật mai này thôi.
Bài thơ nói lên hy vọng sẽ đổi thay, một tương lai tốt đẹp hơn cho những
người da đen. Quá khứ buồn đau sẽ nhường chỗ cho tương lai huy hoàng.
* Peace
We passed their graves
The dead was there
Winners and losers
Did not care
In the dark
They could not see
Who had gained
The victory.
Hoà b́nh
Chúng tôi đi qua những nấm mộ
Những người đă khuất an nghỉ nơi đây
Người thắng và kẻ bại
Khác ǵ đâu
Trong đêm tối
Họ không thể nh́n ra
Ai là người đă giành được
Chiến thắng.
Bài thơ nói lên sự phù phiếm của chiến tranh. Thật mỉa mai khi nhận ra
mục đích của chiến tranh là giành lấy hoà b́nh bằng mọi giá. Bài thơ bắt
đầu bằng một giọng nghiêm trang. Mỗi ḍng rất ngắn nêu bật ư tưởng mỗi
người phải suy nghĩ xem chiến tranh có thật sự cần thiết không. Kết quả
cuối cùng của chiến tranh chỉ là hủy diệt.
* Sea calm.
How still
How strangely still
The water is today
It is not good
For water
To be so still that way.
Biển lặng
Phẳng lặng biết mấy
Phẳng lặng lạ thường biết mấy
Nước hôm nay đó
Chẳng tốt chút nào
Nếu nước
Phẳng lặng như thế kia.
Bài thơ ngắn chứa đựng một thông điệp sâu xa. Khi viết phẳng lặng biết
mấy, nhà thơ không hỏi người đọc. Thay vào đó, ông muốn nói lên sự phẳng
lặng của mặt nước, đến độ trở thành tự nhiên. Nếu người da đen cứ im
lặng, chịu đựng bất công th́ hoàn toàn không có lợi. Họ phải nói lên
quyền lợi của ḿnh, chiến đấu cho độc lập và b́nh đẳng. Ngược lại, cũng
như nước lặng, họ sẽ ch́m, không c̣n có ích nữa.
* Songs
I sat there singing her
Songs in the dark.
She said;
'I do not understand.
The words'.
I said;
'There are
No words'.
Bài hát
1. Tôi ngồi hát
Cho nàng nghe
Trong bóng tối.
Em không sao
Hiểu được lời
Nàng nói.
Bài ca này
Chẳng có lời
Em ơi.
2. Tôi ngồi hát
Cho em nghe
Trong bóng tối
Tiếng thầm th́.
Ôi anh ơi
Em không hiểu
Lời bài ca
Muốn nói ǵ.
Không, bài hát
Chẳng có lời
Anh hát tiếp
Em nghe đi.
3. Ngồi trong bóng tối
Tôi hát nàng nghe.
Anh ơi - nàng nói
Em không hiểu lời.
Em ơi - đừng hỏi :
Bài ca không lời!
4. Lặng lẽ em ơi ngồi nghe anh hát
Bóng tối mịt mùng, bóng tối vây quanh.
Lặng lẽ em nghe những lời anh hát
Mà sao không hiểu là sao hở anh?
Lặng lẽ em ơi bài ca anh hát
Không lời, không tiếng, không ảnh, không h́nh!
Bài thơ ngắn nhưng rất khó hiểu. Nó ẩn chứa một ư nghĩa, một thông điệp
khó giải thích. Không biết nhà thơ đang hát cho ai đây. Theo đại từ được
dùng ( she ) đây là một cô gái. Nhưng đại từ she cũng có thể là nước Mỹ.
Nhà thơ hát cho nàng trong bóng tối ( in the dark ). Ông đang hát cho
đất nước ḿnh ngay cả trong t́nh huống đen tối. Ông làm thơ cho nỗi đau
thân phận của người da đen, nhưng đất nước ông, chính phủ ông, những
người làm luật không hiểu lời ông. Họ chẳng làm ǵ cho tự do của người
nô lệ. Có những bài ca không lời, không phải viết để nghe hay để đọc. Mà
để cảm nhận nỗi đau của dân tộc ông.
Bài thơ, suy cho cùng, mang một ư
nghĩa triết lư.
***
Sau bao nhiêu năm chiến đấu không mỏi
mệt chống nạn kỳ thị chủng tộc, khép lại cuộc đời 65 năm, Langston
Hugues qua đời tại một bệnh viện ở New York sau cuộc giải phẫu v́ bệnh
ung thư đại tràng. Hôm đó là 22/5/1967.
Vinh quang dành cho ông không thiếu:
Ông đă từng đạt nhiều giải thưởng:
năm 1926, Witter Bynner Undergraduate
Poetry Prize.
năm 1954, Anisfield - Wolf Book Award.
Sau khi Ông mất
năm 1979, một trường trung học ở
Reston, Virginia mang tên Ông
năm 2009, đến lượt một trường khác ở Fairburn, Georgia.
Langston Hugues là người Mỹ da đen
đầu tiên có thể tự nuôi sống ḿnh với tư cách một nhà văn chuyên nghiệp.
Ông cũng là một trong những nhà văn Hoa Kỳ đón nhận sự chú ư nghiêm túc
về văn hoá những người da đen ở Hoa Kỳ.
Trong nửa sau của thế kỷ XX, Ông là
một tiếng nói có trọng lượng về nền văn hoá da màu trong thế giới da
trắng người Mỹ.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
( tháng 1/2023 ).
Trang Thân Trọng
Sơn
art2all.net |