Thân Trọng
Sơn
CHIẾC ĐÈN LỒNG
BẰNG VỎ QUẢ QUƯT
BĂNG TÂM ( BING XIN 冰心 )
Nhà văn Trung Quốc
1900-1999

Bing Xin 1920s
Sinh sống trong suốt chiều dài thế kỷ XX, Băng Tâm
là một khuôn mặt tiêu biểu của văn học Trung Quốc, ảnh hưởng lớn đến các
nhà văn thời đại bà, với nhiều thể loại khác nhau, kể cả văn học dành
cho tuổi trẻ.
Tên thật là Tạ Uyển Oánh ( 谢婉莹), bà lấy bút danh
là Băng Tâm ( 冰心 ) với mong muốn giữ một lư tưởng thanh khiết, mượn từ ư
thơ của Vương Xương Linh: tâm hồn như một khối băng trong một chậu ngọc.
Băng Tâm sinh tại Phúc Châu, năm 13 tuổi gia đ́nh
chuyển về Bắc Kinh, bà vào học tại Học viện Bridgman, do một nhà truyền
giáo người Mỹ thành lập, nơi đây những tư tưởng nhân văn và t́nh thương
tôn giáo đă ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn bà.
Năm 1919 bà viết những bài thơ và tản văn đầu tiên
đăng trên báo địa phương. Năm 1921, khi c̣n là sinh viên, bà gia nhập
Hiệp hội nghiên cứu văn học do Mao Thuẫn sáng lập. Những sáng tác thơ
đầu tiên của bà xuất hiện trên những ấn phẩm của hiệp hội, hai năm sau
được in thành hai tuyển tập: Phồn tinh và Xuân thuỷ.
Năm 1923, sau khi tốt nghiệp bà được học bổng sang
học tại Wellesley College, Hoa Kỳ. Với mảnh bằng thạc sĩ, bà về nước dạy
học. Bà xuất bản một tập “ Thư gởi độc giả trẻ “, là những suy nghĩ về
đời sống sinh viên ở Hoa Kỳ.
Năm 1945, sau chiến tranh, bà đi du lịch nhiều nơi
trong nước, rồi sang Hoa Kỳ, Anh Quốc, Liên Xô. Năm 1946, bà theo chồng
sang Nhật Bản và trong các năm 1949-1951, bà giảng dạy văn học Trung
Quốc hiện đại tại Đại học Tokyo.
Trở về Trung Quốc năm 1951, theo lời mời, cùng với
nhiều người khác, của Thủ tướng Chu Ân Lai, bà tham gia nhiều hoạt động
xă hội, chính trị, văn học, nhưng vẫn không thôi sáng tác.Thời gian này
ra đời nhiều tiểu luận, truyện kể, truyện ngắn, nổi tiếng nhất và tiêu
biểu nhất là “ Chiếc đèn lồng bằng vỏ quả quưt “, một biểu tượng của bút
pháp và lư tưởng triết học của bà.
Truyện được đăng vào “ Trung Quốc thiếu niên báo “
số ra ngày 19/1/1957. Câu chuyện xảy ra vào mùa xuân 1945 nhưng được
viết mười năm sau. Những kỷ niệm cảm động, h́nh ảnh một thành phố xa
xưa, những gốc cây, con đường lát gạch, những quả quưt… và h́nh ảnh
người kể chuyện t́nh cờ bắt gặp được tường thuật lại sau 10 năm. Những
kỷ niệm này vẫn được khắc sâu trong tâm trí của Băng Tâm và trở nên sống
động, như cảm xúc ngày nào khi ra đi, bỏ lại đứa bé bên giường bệnh của
người mẹ.
Truyện được tái bản nhiều lần và năm 2012, được
chuyển thành truyện tranh ( liên hoàn hoạ ).
Bà mất ngày 28/2/1999, được xưng tụng là “ Thế kỷ
lăo nhân “ ( 世纪老人 ).


Một buổi chiều trước hôm Lễ
hội Mùa xuân, tôi đến một ngôi làng ở ngoại ô Trùng Khánh thăm một người
bạn đang cư ngụ tại khu công đường. Sau khi leo lên một cầu thang tối
tăm, dốc đứng, chật hẹp, tôi bước vào căn pḥng đầu tiên, nơi có một
chiếc bàn vuông, vài chiếc ghế tre đặt trước bức tường với chiếc điện
thoại móc bên trên. Đi vào thêm nữa, tôi đến căn pḥng bạn tôi ở, chỉ có
tấm màn vải ngăn cách với pḥng kia. Bạn không có nhà, cô ấy để lại mấy
chữ trên bàn, cạnh cửa sổ, dặn tôi chờ v́ bạn có việc đột xuất phải ra
ngoài.
Tôi ngồi xuống trước cái bàn, lấy tờ báo trên đó ra đọc, bỗng nghe có
tiếng động trên sàn nhà rồi như có ai đang xê dịch mấy cái ghế. Tôi vén
màn lên và thấy một bé gái khoảng tám, chín tuổi, mặt hốc hác, xanh xao,
môi tái nhợt v́ lạnh, quần áo cũ rách bươm, chân mang dép rơm. Nó leo
lên chiếc ghế tre định nhấc điện thoại lên rồi sợ hăi khi trông thấy tôi
và rụt tay lại. Tôi hỏi: “ Cháu muốn gọi điện thoại phải không? “ Nhảy
từ trên ghế xuống nó gật đầu: “ Cháu muốn gọi đến bệnh viện xx, gặp bác
sĩ Hồ, mẹ cháu vừa khạc ra máu. Tôi hỏi cháu có biết số điện thoại
không. Cháu lắc đầu nói không. Tôi t́m trong sổ danh bạ đặt cạnh điện
thoại và hỏi tiếp: “ Khi cô gặp bác sĩ, cô sẽ mời bác sĩ đến gặp ai ? “
“ Dạ cô chỉ cần nói nhờ bác sĩ đến nhà Vương Xuân Lâm thăm bệnh, bà ấy
sẽ biết."
Sau khi gọi được rồi, cô bé rối rít cám ơn tôi rồi quay gót như muốn đi
ngay, tôi giữ cháu lại hỏi: “ Cháu ở có xa đây không ? “ “ Thưa không”,
cháu đưa tay chỉ phía cửa sổ, “ đằng kia, trong núi, dưới cái cây to
trĩu quả vàng, cháu về đến trong một thoáng thôi.” Nói xong, nó đi xuống
cầu thang, bước chân vang trên những bậc cấp.
Tôi trở vào pḥng, đọc tiếp tờ báo, rồi mở cuốn thơ Đường luật đọc được
nửa tập, trời tối dần, bạn tôi vẫn chưa về. Tôi đứng dậy và để khuây
khoả, tôi tới gần cửa sổ nh́n về phía ngọn núi đang mờ dần trong sương,
tôi thoáng thấy căn nhà nhỏ trước gốc cây có quả vàng. Bỗng tôi chợt có
ư muốn đi thăm cô bé và bà mẹ đang đau ốm. Bên dưới cầu thang, tôi mua
vài quả quưt to chín đỏ, bỏ vào túi xách rồi men theo con đường nhỏ
ngoằn ngoèo đầy gạch lỗ chỗ, tôi tiến về căn nhà nhỏ.
Tôi gơ nhẹ cửa và nghe tiếng bước chân, rồi cô bé ra mở cửa, há hốc mồm.
Cô bé mỉm cười mời tôi vào. Bên trong chật hẹp tăm tối, bà mẹ nhắm mắt
nằm dài trên chiếc giường gỗ kê sát tường, chừng như đang ngủ, phần trên
tấm chăn dính đầy máu. Mặt bà quay vào tường, chỉ nh́n thấy được đầu tóc
rối bù, sau búi tóc to thắt sau gáy. Cạnh cửa vào là cái ḷ than bên
trên có cái nồi đất toả hơi. Cô bé mời tôi ngồi trên ghế trước bếp, nó
ngồi xổm bên cạnh nh́n kỹ tôi. Tôi hỏi: “ Bà bác sĩ tới chưa?” “Dạ rồi,
bà chích cho mẹ cháu một mũi, giờ này mẹ cháu đỡ hơn nhiều rồi.”
Rồi nó nói tiếp, như muốn trấn an tôi. “ Cô đừng lo, sáng mai bà bác sĩ
lại đến nữa.” “ Mẹ cháu có ăn ǵ chưa?” , tôi hỏi, “ trong nồi có ǵ
vậy? “ “ Dạ khoai lang. Bữa ăn mừng năm mới của hai mẹ con đấy!” Tôi
chợt nhớ ra những trái quưt mang theo, tôi lấy trong túi xách ra bỏ lên
bàn cạnh chiếc giường. Cô bé không nói ǵ, chỉ với tay lấy trái to nhất,
lấy con dao nhỏ bóc một phần vỏ, rồi lấy hai tay nhào nắn nửa c̣n lại.
Tôi hỏi tiếp: “ Trong nhà c̣n có ai khác nữa không? “ “ Hiện thời th́
không c̣n ai nữa. Bố cháu không có ở nhà. “ Cô bé vừa nói vừa nhẹ nhàng
bóc từng góc vỏ quả quưt và đặt bên cạnh chiếc gối của mẹ.
Trong cái bếp nhỏ lửa vẫn c̣n cháy nhưng ánh lửa lịm dần, bên ngoài trời
tối đen. Tôi định đứng dậy ra về th́ cô bé giữ lại. Rồi với bàn tay khéo
léo, nó lấy chỉ xâu vào cây kim và luồn sợi chỉ vào chiếc cốc bằng vỏ
quả quưt trông giống như chiếc rổ nhỏ, nó buộc những sợi chỉ vào đầu một
que tre, xong lấy trên bờ cửa sổ
một mẩu nến, nó thắp lên đặt vào giữa vỏ quả quưt đưa hết cho tôi và
nói: “ Đêm tối rồi, đường lại trơn, chiếc đèn lồng này sẽ soi cho cô
trên đường từ đây đi xuống.”
Tôi cầm và ngắm nghía chiếc đèn lồng nhỏ, tôi cám ơn cô bé khi nó tiễn
tôi ra cửa, không biết nói lời ǵ th́ nó lại nói như để tôi yên ḷng: “
Bố cháu sẽ về, chắc chắn rồi. Và mẹ cháu sẽ bớt, tất nhiên. “ Nó lấy tay
vẽ một ṿng tṛn trước mặt. “ Mọi người sẽ ổn cả thôi. “ Hẳn là cô bé
muốn gom cả tôi vào trong mọi người đó. Tôi ra về, mắt ướt đẫm.
Tay cầm chiếc đèn lồng thần kỳ, tôi lần ṃ xuống núi trong đêm đen, trên
con đường ẩm ướt. Ánh sáng đỏ nhạt từ chiếc lồng đèn con không đủ soi xa
được nhưng vẻ trầm tĩnh, can đảm và lạc quan của con bé khiến tôi lên
tinh thần, tưởng như thấy ánh sáng đang soi xa ngút ngàn.
Bạn tôi đă về nhà, nh́n thấy tôi với chiếc đèn lồng bằng vỏ quưt, cô hỏi
tôi đi đâu về. “ Từ nhà Vương Xuân Lâm “, tôi đáp. Cô bạn ngạc nhiên nói
: “ Vương Xuân Lâm, ông thợ mộc. Nhưng làm sao bạn biết ông ta? Năm
ngoái, nơi trường y ở thung lũng bên dưới, nhiều sinh viên cộng sản bị
bắt, sau đó Vương Xuân Lâm biến mất, nghe nói ông ta mang thư cho những
sinh viên kia."
Ngay đêm đó, tôi đă đi khỏi ngôi làng trong núi kia và không có tin tức
ǵ về hai mẹ con cô bé nữa. Nhưng từ dạo đó, cứ mỗi dịp năm mới, tôi lại
nhớ đến chiếc đèn lồng bằng vỏ quả quưt. Mười hai năm đă qua, cha cô bé
hẳn đă về nhà từ lâu rồi, mẹ cô bé hẳn đă khỏi rồi, phải vậy thôi. Bởi
lẽ, “ tất cả mọi người “ đều ổn cả!
Viết ngày 3/1/1957.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
( 1/2022 )
Nguồn:
http://www.chinese-shortstories.com/Litterature_pour_la_jeunesse_Bing_Xin_la_petite_lanterne.htm
art2all.net |