Thân Trọng Sơn ÉDITH PIAF, tiếng ca huyền thoại của con chim sẻ nhỏ.
Dưới bầu trời Paris (1)
Dưới bầu trời Paris, ngày 19 tháng 12 năm 1915 đă ra đời bé gái Édith Giovanna Gassion. Giấy khai sinh chính thức ghi nơi sinh là bệnh viện Tenon, quận 20, Paris, nhưng nhiều người lại truyền nhau là Édith sinh ra trên lề đường, trước nhà số 72 đường Belleville, thuộc Ménilmontant, một khu phố b́nh dân cũng ở quận 20. Có lẽ chỉ v́ chi tiết này phù hợp hơn với những ǵ liên quan tới cuộc đời của người sẽ trở thành huyền thoại của nền ca nhạc Pháp : gia cảnh tầm thường, tuổi thơ u ám, sức khỏe mong manh, t́nh duyên lận đận, sự nghiệp gập ghềnh, tuổi thọ ngắn ngủi.
Đại chiến kết thúc, bố Édith giải ngũ trở về tiếp tục nghề xiếc rong ngoài đường phố. Édith theo giúp bố và, ngoài việc ngửa nón xin tiền, bắt đầu thử nghiệm giọng ca của ḿnh bằng các bài hát b́nh dân tŕnh diễn trước đám đông. Dần dần Édith được người nghe tán thưởng và kiếm được tiền nhiều hơn cả bố. Chẳng bao lâu sau Édith tách khỏi bố để bay nhảy tự do bằng đôi cánh của ḿnh. Tháng 2 năm 1933, Édith 17 tuổi có cuộc t́nh đầu đời với chàng trai trẻ làm nghề giao hàng Louis Dupont, sinh cho anh ta đứa con gái là Marcelle, 2 năm sau cháu bé qua đời v́ bệnh viêm màng năo và người t́nh cũng bỏ đi.
Édith tiếp tục lang thang ca hát trên các khu phố Belleville (3) và Pigalle (4) . Chất giọng đặc biệt của Édith đă được Louis Leplée, chủ một pḥng trà ca nhạc sang trọng ở Paris chú ư. Đây là pḥng trà Gerny’s, nằm trên đại lộ Champs-Élysées. Louis Leplée nhận ngay ra rằng giọng ca tuyệt vời này không phải để hát trên đường phố mà phải là dưới ánh đèn màu, đưa Édith về hát tại pḥng trà của ḿnh. Ông đặt cho Édith nghệ danh “la Môme Piaf ” ( môme là cô bé, piaf, tiếng lóng, nghĩa là con chim sẻ ), cái tên gợi lên vóc dáng mảnh khảnh, nhỏ bé của Édith vốn chỉ cao 1,47m. Ông cũng yêu cầu Édith mặc toàn đồ đen khi lên hát và đây sẽ là h́nh ảnh độc đáo sẽ theo Édith suốt cuộc đời ca hát của ḿnh. Con mắt tinh đời của Leplée đă không phụ ông : giọng ca của con chim sẻ nhỏ đă chinh phục được khách của Gerny’s. Chẳng mấy chốc cả Paris đổ xô về đấy để tán thưởng một tài năng vừa mới được khám phá. Trên đà thành công của Édith, ông Leplée quyết định giúp cô thu âm đĩa 70 ṿng đầu tiên vào năm 1936.
Đời màu hồng (5)
Một sự việc bất ngờ xảy đến, sự nghiệp của Édith vừa lóe sáng đă tắt ngấm : tháng 4 năm đó, Louis Leplée bị giết tại nhà riêng, Édith bị nghi là có dính líu, cảnh sát thẩm vấn, báo chí công kích. Édith phải từ bỏ Gerny’s và có nguy cơ trở lại với đường phố. Trong lúc khó khăn này, một người bạn của Édith là nhạc sĩ Raymond Asso đă giúp cô t́m chỗ tŕnh diễn và nhất là rèn luyện kỹ năng ca hát để trở thành ca sĩ chuyên nghiệp. Năm 1937 Édith được nhận vào nhà hát ABC (6) và ngay lập tức tỏa sáng ở đây. Raymond Asso đề nghị cô đổi nghệ danh thành Édith Piaf , đây sẽ là cái tên mà cô sử dụng suốt đời. Sau thành công ở ABC, Édith c̣n biểu diễn ở nhà hát Bobino (7), tham gia đóng kịch ( vở Le Bel Indifférent -1940 – do Jean Cocteau viết cho chính cô ) , đóng phim ( Montmartre-sur-Seine -1941- của đạo diễn Georges Lacombe ). Cả kịch và phim này ( Édith diễn chung với Paul Meurisse ) đều thành công, chứng tỏ tài năng của Édith trong lĩnh vực diễn xuất.
Đến tuổi 30, Édith Piaf đă vững vàng trong sự nghiệp nhưng không quên bước khởi đầu gian nan của ḿnh nên nghĩ tới việc giúp đỡ những nghệ sĩ trẻ mới vào nghề. Mùa hè 1944, Édith gặp Yves Montand (8) lúc này chưa nổi tiếng, chỉ làm nhiệm vụ hát mở màn (9) cho những tiết mục của cô ở cabaret Moulin Rouge. Tiếng sét ái t́nh khiến cô chăm sóc đặc biệt cho Yves, hướng dẫn, giúp đỡ mọi mặt. Cô đề nghị Henri Cortet, nhạc sĩ chuyên viết cho cô hát, sáng tác nhiều bài riêng cho Yves ( “Battling Joe” , “ Luna park” ). Và chính Édith cũng viết dành riêng cho Yves nhạc phẩm Đời màu hồng (1945 ) , bây giờ trở thành bài ca bất tử. ( Khi chàng ôm em trong ṿng tay/ Khi chàng âu yếm th́ thầm bên tai / Em thấy cuộc đời sao đẹp thay ! ). Cả hai c̣n cùng nhau đóng phim Ngôi sao không ánh sáng ( Étoile sans lumière ) của đạo diễn Marcel Blistère. Nhưng mối t́nh nghệ sĩ này không bền lâu, đầu năm 1946 hai người chia tay nhau. Sau này Yves kết hôn với diễn viên Simone Signoret c̣n Édith bay nhảy với nhiều cuộc t́nh khác. Cũng thời gian này, Édith có dịp làm quen với nhóm ca sĩ trẻ Les Compagnons de la chanson (10) ( Những người bạn của ca khúc ) chuyên tŕnh diễn những giai điểu cổ có âm hưởng dân ca. Édith khích lệ nhóm chuyển sang loại nhạc trẻ trung hơn, đề nghị ghi âm chung bài Les trois cloches ( Ba quả chuông ) của nhạc sĩ Thụy Sĩ Jean Villard. Thành công vang dội rất bất ngờ : bán được cả triệu dĩa. Édith quyết định đưa nhóm cùng sang Mỹ trong chuyến lưu diễn đầu tiên vào năm 1947. Chuyến đi này là một dấu mốc mới trong cuộc đời ái t́nh và sự nghiệp của Édith Piaf.
Bài tụng ca T́nh yêu (11)
Không có ǵ hứa hẹn cho con chim sẻ thành Paris trên đất khách, những buổi tŕnh diễn đầu tiên của cô trong các pḥng trà ca nhạc ở New York chưa được khán giả chú ư mấy. Định quay trở về châu Âu th́ t́nh cờ cô đọc được một bài phê b́nh với lời lẽ khích lệ đặc biệt trên một nhật báo lớn ở đây khiến cô đổi ư. Cô kư hợp đồng hát một tuần cho Café Versailles, một pḥng trà khá nổi tiếng ở Manhattan (12) . Chính nơi đây Édith mới được khán giả Mỹ hâm mộ nên tiếp tục cộng tác đến 4 tháng và sau này c̣n trở lại nhiều lần.
Thời gian này, Édith lao vào một cuộc t́nh lớn : cô gặp và yêu say đắm Marcel Cerdan, một vơ sĩ quyền Anh vô địch thế giới. Tuy Marcel đă có vợ và tuy hai người hoạt động trong hai lĩnh vực khác hẳn nhau, cuộc t́nh giữa “ ông vua đánh bốc và bà hoàng ca nhạc” vẫn được báo chí xem là cuộc t́nh lăng mạn nổi tiếng nhất thế kỷ. Định mệnh lại giễu cợt Édith. Chỉ một năm sau, Marcel thiệt mạng trong một tai nạn máy bay khi đi từ Paris sang New York thăm người t́nh. Tinh thần suy sụp, lại bị hành hạ bởi những cơn đau của chứng bệnh viêm đa khớp ( polyarthrite ), Édith phải sử dụng mooc-phin với liều cao. Cuộc t́nh này đă để lại nhạc phẩm Édith viết cho anh Bài Tụng ca T́nh yêu , một trong những bài ca sẽ đi cùng năm tháng với tên tuổi của tác giả.( … Em sẽ đi đến tận cùng trái đất / Em sẽ nhuộm cho tóc vàng đi / Nếu anh muốn ở em điều đó // Em sẽ hái cả mặt trăng / Em sẽ lấy về bao tài sản / Nếu anh muốn ở em điều đó // Em sẽ chối bỏ cả tổ quốc / Em sẽ từ bỏ cả bạn bè / Nếu anh muốn ở em điều đó // …) . Nỗi đau v́ sự mất mát quá lớn này khó thể nguôi ngoai nhưng Édith vẫn cố gắng tiếp tục làm việc. Năm 1950, cô lại bước ra sân khấu của thính pḥng Pleyel (13). Cô kết thân với Charles Aznavour ( ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên trẻ ) qua những mối quan hệ đặc biệt mà không phải là t́nh nhân : thư kư, tài xế , bạn tâm sự. Ngược lại, Charles Aznavour cũng viết cho cô một số bài khá thành công ( Jezebel, Plus bleu que tes yeux…) Năm 1951, Édith thân mật với Eddie Constantine (14), ca sĩ diễn viên , cùng diễn vở nhạc kịch “ La p’tite Lili “ tại nhà hát ABC. Bảy tháng sau, thôi diễn vở này, hai người cũng thôi nhau. Năm này, Édith bị hai tai nạn xe hơi, lần sau rất nặng, lại phải điều trị bằng mooc-phin, sự phụ thuộc vào chất gây nghiện này làm sức khỏe cô ngày càng tồi tệ. Tháng 7 năm 1952 Édith gặp và làm đám cưới với ca sĩ Jacques Pills, cuộc hôn nhân chỉ kéo dài được bốn năm. Kể từ giai đoạn này, Édith phải thường xuyên điều trị giải độc nhằm hạn chế tác hại của mooc-phin và rượu. Trong hai năm liền cô thu ḿnh âm thầm không xuất hiện, chỉ chuyên chú việc ghi âm. Tuy nhiên, sang năm 1955, khi biết ḿnh sẽ hát ở Olympia(15), nhà hát sang trọng và nổi tiếng nhất Paris , cô hoàn toàn tự tin, phấn khởi, nhiệt t́nh trở lại với công việc mặc dù sức khỏe vẫn tồi tệ. Ngay trong buổi tŕnh diễn đầu tiên ở đây, cô đă thành công rực rỡ, khán giả chọn lọc của thủ đô Paris hoàn toàn bị chinh phục bởi h́nh ảnh độc đáo mang thương hiệu Édith Piaf : một thân h́nh bé nhỏ với trang phục toàn màu đen,một giọng hát mạnh mẽ, ngân vang cất lên từ lồng ngực, một lối tŕnh diễn lột tả trung thực tất cả lời ca ư nhạc. Cũng trong năm này Édith lại sang Mỹ thực hiện một chuyến lưu diễn dài ngày và kết thúc bằng chương tŕnh độc diễn 22 bài trên sân khấu thính pḥng Carnegie Hall (16) tại New York. Tất nhiên là cũng thành công vang dội, Édith Piaf trở thành ngôi sao quốc tế, chói sáng trên bầu trời ca nhạc Paris, New York và một số nước Nam Mỹ. Cuộc phiêu lưu t́nh ái dơi theo chiếc bóng hạnh phúc của Édith vẫn chưa kết thúc. Năm 1958, cô bắt đầu mối quan hệ t́nh cảm với ca sĩ trẻ Georges Moustaki, đỡ đầu cho anh và dần dà một cuộc t́nh sóng gió nữa bắt đầu. Cùng với Marguerite Monnot, Moustaki viết cho cô nhạc phẩm Milord, đây là một trong những bài thành công nhất của Édith. Tháng chín hai người gặp một tai nạn xe hơi nghiêm trọng, sức khỏe Édith tổn thương nặng nề. Édith vẫn cố gượng dậy. Đầu năm sau khi đang hát ở New York, cô gục ngă trên sân khấu phải giải phẫu khẩn cấp trước khi trở về Paris trong t́nh trạng thảm thương. Moustaki bỏ đi.
Không, tôi không hối tiếc điều ǵ. (17)
Năm 1961, Édith bắt đầu một loạt biểu diễn tại nhà hát Olympia Paris mặc những lời can ngăn của bác sĩ và người thân lo ngại cho sức khỏe của cô, chỉ v́ lời hứa với giám đốc nhà hát, cô hát để cứu cơ sở này đang lâm vào t́nh trạng hầu như phá sản. Dịp này Édith đă rút hết gan ruột để diễn tả nỗi ḷng ḿnh qua nhạc phẩm Không, tôi không hối tiếc điều ǵ mà nhạc sĩ trẻ Charles Dumont viết riêng cho cô. Không, không ǵ cả/ Tôi không hối tiếc điều ǵ/Cả điều tốt điều xấu thiên hạ làm cho tôi/Cái ǵ tôi cũng mặc/(…)Đă trả xong, đă quét sạch, đă quên hết/Tôi chẳng cần quá khứ/Với các kỷ niệm/ Tôi châm lửa/Những nỗi đau, niềm vui/ Tôi không cần chúng nữa/Phủi sạch những cuộc t́nh/ Với những rung động líu lo/ Phủi sạch vĩnh viễn/ Tôi lại khởi đầu từ số không. (…) Chân thành, tha thiết, bài ca nghe như lời tâm t́nh của người ca sĩ tài danh về cuộc đời đầy thăng trầm của ḿnh. Ngày 25/9/1962, nhân ra mắt cuốn phim Ngày dài nhất (18) cô đă hát từ tầng 1 của Tháp Eiffel ( với độ cao 57m ) cho 25 000 khán giả ngưỡng mộ dưới chân ḿnh ngẩng đầu nh́n lên. Bài hát kết thúc trong ánh sáng muôn màu của hàng ngàn pháo hoa rực sáng cả vùng trời bên bờ sông Seine.
Một tháng sau, ở tuổi 47, kiệt sức, bệnh tật, Édith kết hôn với ca sĩ Theophanis Lamboukas mà cô thường gọi là Sarapo có nghĩa là “Em (anh) yêu anh (em)” theo tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ của chàng trai kém cô 21 tuổi này. Đây là người đàn ông cuối cùng trong đời Édith. Hai người c̣n cơ hội trở lại pḥng trà Bobino (7) song ca bài T́nh yêu có ích ǵ ? (19) vào tháng 2 năm 1963. Bài hát này có thể xem như tuyên ngôn của Édith về t́nh yêu, giúp ta hiểu thêm một khía cạnh cuộc đời bà, mỗi chặng nhỏ trên con đường sự nghiệp đều gắn liền với một cuộc t́nh. ( … Em vẫn thường hay nghe nói/t́nh yêu làm ta u sầu /t́nh yêu làm ta than khóc/ t́nh yêu có ích ǵ đâu / T́nh yêu nó có ích ǵ/vừa cho ta mọi niềm vui/lại c̣n có cả nước mắt/thật buồn mà thật diệu kỳ//… ngay khi ta đă mất đi/ cuộc t́nh ta hằng ấp ủ/vẫn c̣n hương vị ngọt ngào/ t́nh yêu vẫn là bất tử// Thôi th́ như em đă hiểu/sống mà không có t́nh yêu/ với cả niềm vui nỗi khổ/ cuộc sống có nghĩa ǵ đâu// … Nhưng anh, anh là người cuối/ nhưng anh, anh là người đầu/ trước anh, không có ǵ cả/ với anh, hạnh phúc xiết bao// Có anh là điều em muốn/ có anh là điều em cần/ anh, người em yêu măi măi/ t́nh yêu có ích thế thôi. ) Édith rơi vào t́nh trạng hôn mê hai tháng sau. Sarapo đưa Édith về tỉnh dưỡng tại một biệt thự ở Placassier, ngoại ô thành phố Grasse miền Nam nước Pháp để chăm sóc bà cho đến khi bà qua đời ngày 10 tháng 10 năm 1963 tuy nhiên tin buồn chỉ công bố chính thức vào ngày 11 khi thi hài được bí mật chuyển về Paris.
Đám đông (20)
Nếu trong cuộc đời có lúc phải chịu cảnh cô đơn th́ sau khi giă từ cơi tạm lúc nào Édith Piaf cũng thấy ấm cúng giữa đám đông người hâm mộ. Măi tận hôm nay mộ Édith ngày nào cũng phủ đầy hoa tươi của đông đảo khách viếng từ khắp nơi trên thế giới. Đông đảo tín đồ âm nhạc vẫn đến quảng trường mang tên Édith Piaf, nằm ở góc các đường Belgrand, Capitaine Ferber, và la Py, gần bệnh viện Tenon nơi bà chào đời để tưởng niệm trước bức tượng của bà, được thị trưởng Paris Bertrand Delanoë cho dựng lên vào ngày 11/10/1963 nhân kỷ niệm 40 năm ngày mất của ngôi sao này. Đông đảo người quan tâm đến sự nghiệp và cuộc đời của bà vẫn đến thăm bảo tàng Édith Piaf ở số 5 đường Cresoin du Gast, quận 11 Paris, nơi trưng bày đầy đủ những kỷ vật lưu niệm.
Nhiều tác phẩm kịch nghệ và điện ảnh đă được thực hiện để vinh danh cuộc đời ( vở kịch “Piaf je t’aime” năm 1996 ) và những tác phẩm để đời của Édith Piaf, trong đó không thể không nhắc tới bài hát La vie en rose. Cho đến nay không ít hơn 30 nghệ sĩ lừng danh thế giới đă từng thể hiện ca khúc này : Patricia Kass, Yves Montand (Pháp), Marlene Dietrich ( Đức ), Placido Domingo ( Tây Ban Nha ), Dean Martin, Ella Fitzgerald, LouisArmstrong, Cyndi Lauper (Mỹ), Bạch Yến, Ư Lan ( Việt Nam ) … Điều thú vị là có những cuốn phim không liên quan đến tác giả nhưng xem phim khán giả vẫn nghe được giai điệu bất hủ của Đời màu hồng : Phim Sabrina ( 1995 ) Đạo diễn Sydney Pollack, diễn viên Harrison Ford, Julia Ormond, Greg Kinnear. Phim French Kiss (1995). Đạo diễn Lawrence Kasdan, diễn viên Meg Ryan, Kevin Kline, Timothy Hutton. Phim Something’s Gotta Give (2003 ) Đạo diễn Nancy Meyers, diễn viên Jack Nicholson, Diane Keaton, Keanu Reeves.
Và, tất nhiên rồi, cuốn phim thuật lại đầy đủ và trung thực nhất cuộc đời của Édith Piaf là La Môme của đạo diễn Pháp Olivier Dahan ( tháng 2 năm 2007 ). Phát hành ngoài nước Pháp phim lấy tên là La vie en rose, do diễn viên trẻ Marion Cotillard vào vai Édith Piaf. Với vai diễn này, Marion Cotillard đă được trao giải Oscar ( 2008, nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.)
Édith Piaf qua đời hơn nửa thế kỷ rồi nhưng tiếng hát của bà vẫn vượt không gian và thời gian, c̣n ngân măi trong tim bao thế hệ người yêu nhạc. Hơn thế nữa, cuộc đời của một người sinh ra trong nghèo khốn giữa thời loạn ly, từ cô bé hát rong tiến lên thành ca sĩ pḥng trà để cuối cùng trở thành danh ca của các thính pḥng, đại hư viện, vẫn măi là tấm gương về nghị lực phi thường để vượt qua số phận bằng yêu thương và công việc. Édith, người có nghe không, cả thế giới vẫn c̣n nói măi Piaf, je t’aime ?
THÂN TRỌNG SƠN Dalat 12 / 2010 ( Tặng Hồng CDX ) ---------------------------------------------------------------------------------------------- (1) Sous le ciel de Paris. Tên bài hát, lời Jean Dréjac, nhạc Hubert Giraud.(1954) Tất cả những tiểu mục trong bài viết này đều là tên những bài hát Édith Piaf từng thể hiện. (2) Thérèse Martin, nữ tu, mất ngày 30/9/1897 ở tuổi 24. Được Giáo Hoàng Pie XI phong thánh ngày 17/5/1925. Thường được gọi là Thánh Têrêsa thành Lisieux . Lisieux là một thị trấn trong tỉnh Calvados, thuộc vùng hành chính Basse- Normandie. (3) Khu phố Belleville nằm ở quận 19 và 20 của thành phố Paris. Ngày nay, đây là khu vực đa văn hóa, tập trung nhiều dân nhập cư, nhiều nhất là dân châu Á và châu Phi. Đây cũng là khu phố châu Á thứ hai của Paris, sau Chợ Tàu ở quận 13. (4) Khu phố Pigalle bao gồm các con phố nằm hai bên đại lộ Clichy và Rochechouart, thuộc Quận 9 và quận 18, ở phía Bắc Paris. Nằm dưới chân đồi Montmartre, đây là nơi tập trung rất nhiều quán bar, quán cà phê, các sex shop. Khu phố này c̣n hấp dẫn nhờ các cabaret nổi tiếng như Moulin Rouge, Folies Bergère. (5) La vie en rose do chính Édith Piaf sáng tác nhưng phải đề tên tác giả phần nhạc là Louiguy v́ cô không đủ điều kiện để được công nhận là nhạc sĩ sáng tác theo quy định của SACEM, Hiệp hội các nhà soạn nhạc. (6) ABC : nhà hát hoạt động từ 1935 tại 11 đại lộ Poissonnière, quận 2, Paris. Rất nổi tiếng nhờ sự góp mặt của nhiều nghệ sĩ và nhóm nhạc tài năng. Đến năm 1965 ABC chuyển thành rạp chiếu phim. (7) Bobino : nhà hát tạp kỹ ( music-hall) ở khu Montparnasse, quận 14, Paris. (8) Yves Montand ( 1921-1991 ), ca sĩ, diễn viên gốc Ư. (9) première partie, hát ở phần đầu chương tŕnh, chuẩn bị cho các tiết mục chính thức. (10) Les compagnons de la chanson : nguyên là nhóm Những người bạn của Âm nhạc ( les compagnons de la musique ), với 9 thành viên hoạt động từ năm 1946 đến 1985 th́ giải thể. (11) Hymne à l’amour (1950 ) .Lời Édith Piaf – Nhạc : Marguerite Monnot. (12) Manhattan : một trong năm quận của thành phố New York, ngày nay là khu vực giàu có nhất của Hoa Kỳ. (13) Salle Pleyel : nằm ở đường Faubourg-Saint-Honoré, quận 8, Paris. Hoạt động từ 1927, thực ra dành chủ yếu cho ḥa nhạc giao hưởng. Édith Piaf là ca sĩ đầu tiên hát ở đây. (14) Eddie Constantine ( 1917-1993), người Mỹ, gốc Nga, sống nhiều năm ở Pháp,hoạt động ca hát vài năm trong thập niên 50 ( tk XX) , sau đó đóng phim. (15) Olympia : 28 đại lộ Capucines, quận 8, Paris, là nhà hát tạp kỹ xưa nhất nay c̣n hoạt động ( khai trương năm 1893). Được công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1993. Hầu như tất cả những danh ca của Pháp đều có lần xuất hiện ở đây : Dalida, Mireille Mathieu, Sylvie Vartan, Guy Béart, Gilbert Bécaud, Georges Brassens, Jacques Brel, Yves Duteil, Johnny Hallyday … (16) Carnegie Hall : 881 đại lộ số 7, Manhattan, New York, chính thức mang tên này từ 1893 sau 2 năm khai trương. Đây là thính pḥng dành cho nhạc cổ điển, Édith Piaf là ca sĩ đầu tiên hát ở đây ( cũng như đă lần đầu tiên hát ở Salle Pleyel Paris năm 1950 – xem chú thích 13 ). (17) Non, je ne regrette rien. (1960). Nhạc : Charles Dumont. Lời : Michel Vaucaire. (18) The longest day / Le jour le plus long. Phim của hăng 20th Century Fox, đạo diễn Ken Annakin, Andrew Marton, diễn viên : John Wayne, Robert Mitchum, Henry Fonda, Richard Burton. Nội dung phim kể về ngày D-day, ngày mà quân đồng minh đổ bộ vào bờ biển Normandie, trận đánh đưa đến bước ngoặt của Thế chiến thứ hai, đánh dấu sự bắt đầu những thất bại của quân Đức sau này. (19) À quoi ça sert l’amour? ( 1962 ) Lời và nhạc : Michel Emer. (20) La foule. ( 1957). Lời : Michel Rivgauche.Nhạc : Angel Cabral. (21) Nghĩa trang Père Lachaise : nghĩa trang lớn nhất của Paris, nằm tại quận 20, thành lập từ 1804, lúc đó chỉ có 13 ngôi mộ, hơn 200 năm qua, bây giờ đă có hơn 300 000 người được chôn cất nơi đây trong 69 000 phần mộ. Trong số những nhân vật nổi tiếng an nghỉ ở nghĩa trang này có thể kể đến các văn thi sĩ Molière, La Fontaine, Balzac, Musset, Paul Éluard, Alphonse Daudet, Apollinaire, nhạc sĩ Chopin, Georges Bizet...Nghĩa trang Père Lachaise c̣n được xem như một công viên với trên 5000 cây xanh trên một diện tích 44 ha, thu hút hàng trăm ngàn du khách mỗi năm.
|