Thân Trọng Sơn

GÁI THIẾU TRAI TH̀ THẬM KHỔ

 

Dân ca Việt Nam phần nhiều xuất phát từ những câu, những bài ca dao. Hai câu “ Chim quyên ăn trái nhăn lồng, Thia lia quen chậu, vợ chồng quen hơi “đă được phát triển thành bài dân ca Lư chim quyên bằng cách lặp lại, thêm vào từ đệm, nhấn nhá, luyến láy :

Chim quyên ( guầy ) ăn trái ( guây ), nhăn ( í a )  nhăn lồng ( à ), nhăn ( í a ) nhăn lồng    ( à ) ơi con bạn ḿnh ơi.

Thia lia ( guầy ) quen chậu ( guây ), vợ ( í a ) vợ chồng, vợ ( í a ) vợ chồng, ới con bạn quen hơi.

Và đoạn sau được thêm vào :

Chim quyên ( guầy )   xuống  suối ( guây ), tha ( í a ) tha mồi, tha  (í a ) tha mồi, ơi con bạn ḿnh ơi

Thương em ( guầy ) lao khổ ( guây ), anh (í a ) anh ngồi, anh ( í a ) anh ngồi, ơi con bạn chẳng yên.

Chim ơi chim xa rừng, chim thương núi nhớ non,

Người cách xa cội nguồn (à), người cách xa xội nguồn, ôi đau khổ có ǵ buồn hơn, ôi đau khổ có ǵ buồn hơn.

 

Bài dân ca Lư con sáo được phổ biến với nhiều làn điệu khác nhau của khắp ba miền Bắc Trung Nam xuất phát từ hai câu :

Ai đem con sáo sang sông

Để cho con sáo sổ lồng bay xa. 

Tương tự như thế là trường hợp bài Lư ngựa ô, được hát với các làn điệu khác nhau của miền Bắc, của Huế, của Quảng, của Nam Bộ… , nhưng phần lời ca th́ tất cả đều dựa trên hai câu :

Ngựa ô anh thắng kiệu vàng

Anh tra khớp bạc, đưa nàng về dinh. 

Từ chỉ hai câu phát triển thành cả một bài ca, sự sáng tạo của “ tác giả ” khuyết danh thật đáng khâm phục. Tuy thế, dân ca cũng có khi lấy cả một bài, và nếu tách phần nhạc đi vẫn có thể đọc như một tác phẩm  viết, có điều là dân ca - ca dao được phổ biến trước hết là bằng cách truyền miệng, tức là chấp nhận nhiều dị bản. Mặt khác, dân ca – ca dao xuất phát từ những vùng miền khác nhau nên ngôn ngữ mang tính địa phương, bài của vùng miền này có thể khó hiểu với  nguời ở vùng miền khác thành ra có khi cần phải “ phiên dịch ” từ tiếng Việt sang tiếng … Việt, nghĩa là từ tiếng địa phương sang tiếng phổ thông th́ mới hiểu được.

 

Bài viết này giới thiệu một bài dân ca – ca dao nghe được ở Quảng B́nh. 

Khoai to bồn th́ tốt cộ

Đậu ba lá th́ vừa un

Gà mất mẹ th́ lâu khun.

Gái thiếu trai th́ thậm khổ.

Trai thiếu gái cũng thậm khổ !

Trời sinh voi th́ sinh cỏ

Trời sinh giếng th́ sinh mo

Trời sinh sông th́ sinh đ̣.

Trời sinh O th́ sinh tui.

O một ḿnh cũng khôn đặng

Tui một ḿnh cũng khôn đặng.

Gió ngoài biển hắn dồn vô

Mây trên trời hắn cuốn lại. 

Cái đặc điểm của ngôn ngữ mang tính địa phương như đă nói ở bên trên thể hiện ngay ở ba câu đầu tiên :

 Khoai to bồn th́ tốt cộ

Đậu ba lá th́ vừa un

Gà mất mẹ th́ lâu khun. 

Xin phiên dịch ngay : Bồn c̣n gọi là  vồng , có nơi gọi là , cộ = củ, un = vun (đắp cao lên ), khun = khôn.

( Thời kỳ 1978-1980, người viết mới thuyên chuyển vào miền cao nguyên công tác, khi hướng dẫn học sinh lao động  - trồng cà rốt - đă được anh em đồng nghiệp dặn ḍ : Anh nhớ cho học sinh lấy  lên  ṛ cho cao, mà có đem theo  b́nh xoa  không đó. Phải nhờ giải thích mới hiểu được : vá là cái xẻng, cái xuổng. Lâu nay chỉ dùng để múc canh ( ngoài Bắc lại gọi là môi  hay muôi ) ở đây dùng để xúc đất, c̣n  là vồng, là bồn, b́nh xoa = thùng tưới, b́nh tưới, hẳn là mượn tiếng Pháp, arrosoir . )

Vậy th́ ba câu mở đầu này chẳng là ǵ khác những kinh nghiệm dân gian trong chăn nuôi, trồng trọt, vốn là một nội dung thường gặp trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam. Trồng khoai đắp vồng cao lên sẽ có củ lớn, gieo hạt đậu lúc cây mọc được ba lá hăy bắt đầu vun gốc, đừng tách gà con khỏi mẹ sớm quá chúng sẽ chậm  khôn.   Những kinh nghiệm tuy đơn giản nhưng không phải ai cũng biết, cũng thực hành được. Điều đáng nói là ở cách diễn đạt. Hăy để ư từ th́ lặp lại ở ba câu. Mới tập viết văn ai cũng được nghe dặn là viết tiếng Việt nhớ đừng dùng th́, là, đừng có viết  Chị tôi th́ / là đẹp theo kiểu tiếng Anh, tiếng Pháp My sister is pretty, Ma sœur est belle. Đúng trong ví dụ này nhưng trong mấy câu ca dao trên làm sao bỏ chữ th́ được : 

Khoai to bồn th́ tốt cộ

Đậu ba lá th́ vừa un

Gà mất mẹ th́ lâu khun. 

Th́  ở  đây biểu thị quan hệ  điều kiện : Nếu trồng khoai mà đắp vồng to lên, khoai sẽ có củ lớn, hoặc là quan hệ về mục đích : Muốn có củ lớn th́ nhớ đắp vồng to. Một cách lập luận chặt chẽ, dẫn đến một lẽ đương nhiên : Có A ắt hẳn sẽ có B, muốn có B th́ phải có A. Cũng cách diễn đạt đó, ca dao c̣n có câu : 

Muốn sang th́ bắc cầu kiều

Muốn con hay chữ th́ yêu lấy thầy. 

Nhiều người chê chữ th́ và tự ư thay bằng chữ phải, vừa thô bạo, vừa khiên cưỡng :

Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy ! 

Đoạn kế tiếp sẽ cho thấy toàn bài là lời lẽ của một người con trai nói với một cô gái. Anh chàng bắt đầu bằng chuyện cỏ cây, thú vật, rồi đột ngột chuyển qua chuyện con người :

Gái thiếu trai th́ thậm khổ.

Cũng cái chữ th́  đó, cũng lối nói quyết đoán, không c̣n ǵ để bàn căi đó. Nếu ai cũng thừa nhận những kinh nghiệm dân gian nói trên th́ làm sao không tin ở nhận xét khách quan này:

Gái mà thiếu trai là khổ vô cùng, nói cho mà biết đó – nghe như lời cảnh báo, đe dọa ! May mà anh vội nói tiếp vế ngược lại :          

Trai thiếu gái cũng thậm khổ !          

Vậy là đă rơ, cả hai phía đều khổ như nhau, bởi lẽ cả hai phía đều cần nhau. Anh giải thích :

Trời sinh voi th́ sinh cỏ

Trời sinh giếng th́ sinh mo

Trời sinh sông th́ sinh đ̣. 

Mo ở đây là cái mo cau, cái bẹ bọc quanh buồng cau, có rất nhiều công dụng. C̣n non, mo hơi mềm có thể dùng để ém cơm cho dẻo, cho chắc, có thể để dành ăn dần, rất tiện nếu mang đi đường . Khi già, mo cứng và dai, cắt và xếp lại làm gàu thả xuống giếng múc nước. Cũng có thể cắt làm quạt, cái vật dụng tầm thường, đơn giản mà giá trị rất lớn, có thể đổi lấy ba ḅ chín trâu, một xâu cá mè, một bè gỗ lim, hay một con chim đồi mồi,  như cái quạt mo của Thằng Bờm. Trẻ em ở thôn quê c̣n lấy cái mo, dính với cả tàu lá cau, chơi tṛ kéo xe : một đứa ngồi lên mo, một đứa cầm tàu lá kéo chạy. Mo cau c̣n một công dụng bất ngờ nữa : trẻ hư bị đ̣n roi quất vào mông chỉ việc lấy mo lén nhét vào quần, che cái mông đi và sẵn sàng chịu vài chục roi không hề hấn ǵ !           

Chàng trai giải thích việc trai và gái thiếu nhau th́ đều khổ v́ đều cần đến nhau bằng cách đưa ra những dẫn chứng  sinh động, dễ nh́n thấy, dễ cảm nhận, khó bài bác, khó tranh căi : Có voi ắt sẽ có cỏ, có giếng ắt sẽ có mo, có sông ắt sẽ có đ̣. Nhưng điều anh muốn nói nhất không phải chỉ chừng đó, mà là :           

Trời sinh O th́ sinh tui.

Tiếp theo chuỗi lập luận trên tất phải hiểu : Có o ắt sẽ có tui. Đối với dân miền Trung, cái chữ O này hay lắm. Viết chữ o như vẽ h́nh tṛn , mà phát âm th́ hai môi cũng phải tṛn lại. O tṛn trịa và chất phác, O tṛn vẹn và chung thủy, O tṛn trĩnh và dễ thương, O tṛn trặn và no đủ.

O là chị hay em gái của ba ( chỉ một O thôi, không phân biệt em gái ba là  Cô mà chị là Bác như người miền Bắc ).

O cũng là Cô, O con gái = cô con gái , có khi được dùng như đại từ nhân xưng. Quen gọi O mà lạ cũng gọi O. O ơi, O nớ ơi. Thân cũng O mà sơ cũng O. Không ngó anh răng nh́n xuống đất ? Đất có chi đẹp đẽ mô nờ . Theo nhau từ hôm nớ hôm tê. Anh hỏi măi răng O không nói ? ( Mường Mán) Gần cũng O mà xa cũng O. O có nhớ anh / tui không ?  Nhưng dù lạ hay quen, dù thân hay sơ, dù xa hay gần th́ O lúc nào cũng ngọt ngào, đằm thắm.

Trời sinh O th́ sinh tui.

Xưng tui và gọi người kia là O. Cách nói thận trọng mà không xa cách, bạo dạn mà không suồng să. C̣n nội dung th́ rơ ràng và dứt khoát : Có o ắt sẽ có tui. Tui cần o mà o cũng cần tui. Anh chàng tiếp tục cái giọng cảnh báo, đe dọa nhẹ nhàng bên trên :

O một ḿnh cũng khôn đặng

Tui một ḿnh cũng khôn đặng. 

Cuộc đời tất nhiên là phải có o có tui. Như là một hoàn cảnh đă định sẵn, một số phận đă an bài. Nhưng không thể việc ai nấy làm, đường ai nấy đi. Không thể, không được, khôn đặng. O không thể một ḿnh, tui cũng không thể một ḿnh. Bởi nếu như thế, cả hai chắc chắn sẽ phải đương đầu với vô vàn  khó khăn trở ngại :

Gió ngoài biển hắn dồn vô

Mây trên trời hắn cuốn lại. 

Đâu phải chỉ là những khó khăn đời thường, cô đơn, lạnh lẽo, túng thiếu, ốm đau. Trầm trọng hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều, mănh liệt hơn nhiều, nghiệt ngă hơn nhiều. Đó là gió mưa, băo táp, mối đe dọa thường xuyên không biết lúc nào ập đến. Đó là mây đen, bóng tối che phủ những ước vọng b́nh yên. Xin để  ư từ “ hắn ” lặp lại ở hai câu trên, thường hắn  chỉ dùng để nói về người, ở đây gió mây được gọi là hắn nghĩa là được xem như là người :  sự đe dọa của thiên nhiên đất trời sẽ ghê gớm hơn nếu có thêm yếu tố con người, dữ dội, tàn khốc, khó lường, khó tránh. 

O một ḿnh, tui một ḿnh nguy hiểm như thế đó, đáng sợ như thế đó. Vậy th́ …

Vậy th́ sao, chàng trai bỏ lửng. Bài dân ca - ca dao kết thúc mà không đưa ra kết cục nào. Thôi đành chờ phản ứng của cô gái. Một nụ cười ( muốn hiểu sao th́ hiểu )? Một cái lắc đầu ? Hay làm thinh ( là t́nh đă thuận ) ? Ai mà biết. Trong khi chờ đợi hăy đọc lại cả bài :

 Khoai to bồn th́ tốt cộ

Đậu ba lá th́ vừa un

Gà mất mẹ th́ lâu khun.

Gái thiếu trai th́ thậm khổ.

Trai thiếu gái cũng thậm khổ !

Trời sinh voi th́ sinh cỏ

Trời sinh giếng th́ sinh mo

Trời sinh sông th́ sinh đ̣.

Trời sinh O th́ sinh tui.

O một ḿnh cũng khôn đặng

Tui một ḿnh cũng khôn đặng.

Gió ngoài biển hắn dồn vô

Mây trên trời hắn cuốn lại.

O với tui cùng cuốn lại.

Lần này thêm một câu : O với tui cùng cuốn lại. Có phải vẫn là lời chàng trai, anh không bỏ lửng mà chờ lúc bất ngờ nhất mới nói tiếp, nghe như rủ rê, mời gọi ? O đừng một ḿnh, tui không một ḿnh, o với tui cùng cuốn lại th́ sá ǵ gió dồn với mây cuốn. Bởi mây trên trời hắn cuốn lại là tối tăm, cuồng nộ, c̣n O với tui cùng cuốn lại là đùm bọc, chở che, chia sẻ, là sẵn sàng cùng nhau đương đầu mọi gian nan khốn khó. Có chút ǵ tinh nghịch mà thật ḷng, táo bạo và thuyết phục. 

Có điều là không hiểu văn bản gốc đă có câu này hay là trong quá tŕnh lưu truyền ai đó đă thêm vào ? Tuy nhiên, cho dù thực tế thế nào đi nữa th́ rốt cuộc vẫn phải chờ phản ứng của cô gái. Một nụ cười ( muốn hiểu sao th́ hiểu )? Một cái lắc đầu ? Hay làm thinh ( là t́nh đă thuận) ? Ai mà biết. 

 

 THÂN TRỌNG SƠN

11 / 2008

( Tặng Kim TRAN và các bạn TNTC Huế )

 

Trang Thân Trng Sơn

art2all.net