Thân Trọng
Sơn
HỒI ỨC VỀ MỘT TIỆM
SÁCH
Truyện ngắn
GEORGE ORWELL
( 1903 - 1950 )

GEORGE ORWELL, tên thật là Eric Arthur Blair, sinh ngày 25/6/1903 tại
Motihari, Bengal ( tên hiện nay là Bihar ) khi Ấn độ c̣n là thuộc địa
của đế chế Anh. Cha ông khi đó là nhân viên của Ty Nha phiến, thuộc Sở
Dân sự. Ông là con thứ hai trong gia đ́nh. Mẹ ông xuất thân trong một
nhà lái buôn chè. Mới lên 1 tuổi, ông được đưa về chính quốc, được gửi
vào một trường nhỏ thuộc giáo phái Anh, nơi đây chị gái ông từng theo
học. Hai năm sau ông được tiến cử với hiệu trưởng của một trong những
trường dự bị thành công nhất của Anh vào thời đó ( Trường St. Cyprian’s
School, Eastbourne, Sussex ). Tại đây, ông được cấp một nửa học bổng.
Kết quả học tập khá tốt, ông tốt nghiệp được ở trường chất lượng cao vốn
chỉ dành cho con nhà khá giả. Năm 1922, không đủ tiền vào đại học, Blair
gia nhập Indian Imperial Police, phục vụ tại Miến Điện. Những điều tai
nghe mắt thấy ở vùng thuộc địa Nam Á này đă khiến ông chán ghét chủ
nghĩa đế quốc. Quay trở lại Anh, ông từ bỏ cuộc đời công chức để dồn sức
phấn đấu trở thành nhà văn. Từ năm 1923, ông bắt đầu công bố những “
sáng tác người lớn “ của ḿnh. Ông bắt đầu lăn lộn với các tầng lớp
dưới, t́m hiểu những cảnh đời ngang trái và lầm than ở cả Anh lẫn Pháp.
Từ năm 1935, ông bắt đầu sử dụng bút danh George Orwell v́ không muốn
cha mẹ biết về những trải nghiệm bần cùng của ḿnh. Về giai đoạn sống và
chiến đấu ở Tây Ban Nha, ông đă viết tiểu thuyết tư liệu Kỷ niệm
Catalonia ( 1926 ), và Kư ức chiến tranh ở Tây Ban Nha ( 1943 ).
Khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ, Orwell mặc dù tuyên bố
rằng chính thể ở Anh c̣n tồi tệ hơn ở nước Đức phát xít nhưng vẫn xung
phong ra mặt trận, tuy nhiên ông bị từ chối v́ vết thương trong chiến
tranh Tây Ban Nha. Ông về hậu phương, làm phóng viên trên Đài Phát thanh
BBC, dẫn các chương tŕnh chống phát xít. Trong thời gian này, ông viết
tiểu thuyết Trại Súc Vật ( Animal Farm ) , ám chỉ rơ nét Liên Xô, khi
hoàn thành bị từ chối in cả ở Anh lẫn Mỹ. Phải chờ đến năm 1945, Trại
Súc Vật mới được công bố và trở thành vũ khí của những lực lượng chống
cộng ở phương Tây.
Ông mất năm 1950 v́ bệnh lao. Orwell được đánh giá là một nhà văn mang
nhiều mâu thuẫn trong ḿnh, một người theo chủ nghĩa cá nhân và tuyệt
đối chính trị.
Orwell chỉ sống tới tuổi 46 nhưng đă để lại nhiều xét đoán khác biệt.
Tác phẩm của ông không phải ở đâu cũng được đón nhận thuận chiều.
Đoản văn giới thiệu dưới đây có tên là Bookshop Memories, Hồi ức về một
tiệm sách, đúng hơn là những hồi ức của một người bán sách cũ. Tác giả
viết truyện này năm 1936, kể về thời gian ông làm việc như một nhân viên
bán sách bán thời gian tại tiệm bán sách cũ Booklover’ s Corner toạ lạc
ngay góc phố Pond Street và South End Green, thành phố London, nước Anh.
Hiện nay tiệm này không c̣n nữa mà biến thành nhà hàng pizza, tuy nhiên
ở đó c̣n gắn tấm biển ghi rằng: George Orwell, nhà văn, từng sống và làm
việc trong một tiệm sách ngay vị trí này.
Những người mê sách cũ hẳn sẽ t́m thấy nhiều đồng cảm khi đọc những chi
tiết về mua, bán sách cũ. Và những ai đă có dịp đến thủ đô Paris của
nước Pháp chắc sẽ không quên những tiệm sách cũ dọc bờ sông Seine. Từ
năm 1859, Hội đồng thành phố Paris quyết định dành một dăy đất bên bờ
sông Seine giúp những người bán sách cũ được “ định cư “ cố định để bán
sách cũ từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn.
Năm 1932, bờ kè sông Seine với những người bán sách cũ được UNESCO công
nhận là Di sản Thế giới và cũng từ đó, sông Seine được đặt biệt danh là
“ ḍng sông duy nhất trên thế giới trôi giữa những kệ sách “.
Ernest Hemingway, nhà văn lừng danh của Mỹ, và nhiều tác giả khác, đă
từng lang thang tại khu vực cầu cảng này, lật từng trang sách cũ và thậm
chí t́m những tác phẩm của chính ḿnh được trưng bày trong các kệ sách
đặt sát nhau. Ước tính có trên 300000 cuốn sách được bày bán dọc theo
con đường bán sách cũ bên bờ sông Seine. Nơi tập trung đông nhất là lối
dẫn vào Khu phố La tinh ( Quartier Latin ), nơi có Trường Đại học
Sorbonne nổi tiếng.
Đừng tưởng chỉ có Anh, Pháp mới có tiệm bán sách cũ. Ngay tại Saigon
cũng không thiếu. Bạn thử t́m tới Nhà sách Khải Vinh, 43 Trần Nhân Tôn,
Quận 5. Nơi đây có bán sách báo cũ và mới. Một vài địa chỉ khác để bạn
tham khảo:
Trung Tâm Sách Cũ, 50, Vơ Thị Sáu, Tân Định, Quận 1.
Một địa chỉ khác, rộng răi hơn là Đường Sách Thành phố, dọc theo đường
Nguyễn Văn B́nh, Bến Nghé, Quận 1.
****
Khi tôi làm việc tại một
tiệm bán sách cũ - nếu bạn chưa từng làm ở một nơi như vậy th́ rất dễ
h́nh dung ra, nó là một kiểu thiên đường nơi những quư ông lớn tuổi lịch
lăm lật giở không ngừng những tập giấy bọc da - điều gây cho tôi ấn
tượng nhất là thực sự rất hiếm người ham đọc sách. Tiệm sách của chúng
tôi có một kho tài liệu đặc biệt thú vị, tuy nhiên tôi ngờ rằng trong số
khách hàng chỉ có mười phần trăm phân biệt được sách hay với sách dở.
Những người kiếm bản in đầu tiên phổ biến hơn nhiều so với những người
yêu thích văn chương, nhưng những sinh viên phương Đông kỳ kèo mặc cả
những giáo tŕnh c̣n đông hơn nữa, và thường xuyên nhất là các bà các cô
hời hợt đi t́m mua quà sinh nhật cho cháu ḿnh.
Thường xuyên lui tới tiệm sách của chúng tôi là loại người sẽ gây phiền
toái bất kỳ ở đâu nhưng lại có cơ hội đặc biệt trong một tiệm sách.
Chẳng hạn, bà già đáng yêu “ muốn có một cuốn sách không c̣n tái bản “ (
một nhu cầu rất phổ biến ), rồi một bà già thân thương khác từng đọc một
cuốn sách hay từ năm 1897 và hỏi liệu bạn có thể t́m cho bà một cuốn như
vậy không. Thật không may là bà không nhớ nhan đề cuốn sách hoặc tên tác
giả, hoặc sách nói về đề tài ǵ, nhưng bà lại nhớ rơ b́a sách màu đỏ.
Tuy nhiên, ngoài những loại người trên c̣n hai loại người nổi tiếng khác
luôn ám ảnh các tiệm bán sách cũ. Một là những người phát ra mùi bánh
mốc cứ ngày nào cũng ghé tiệm, đôi khi nhiều lần một ngày, và cố gạ bán
cho bạn những cuốn sách chẳng có giá trị. Thứ hai là những người đặt
sách với số lượng lớn mà không có ư định trả tiền. Tiệm chúng tôi không
bán chịu, do đó chúng tôi sẽ xếp những cuốn sách đó sang một bên, hoặc
nếu cần th́ đặt hàng giùm cho những người sẽ sắp xếp đến nhận về sau.
Hầu như một nửa số người đă đặt sách từ chúng tôi không quay lại bao
giờ. Đó là điều làm tôi đau đầu nhất. Cái ǵ đă khiến họ làm như vậy? Họ
đến và yêu cầu vài cuốn sách quư hiếm và đắt tiền, và bắt chúng tôi hứa
đi hứa lại là sẽ giữ chúng cho họ, rồi biến mất không bao giờ trở lại.
Nhiều người trong bọn họ hẳn là mắc chứng hoang tưởng. Họ thường nói về
ḿnh một cách phô trương và bịa ra những câu chuyện tài t́nh nhất để
giải thích làm thế nào mà họ quên không mang theo tiền - những câu
chuyện mà trong nhiều trường hợp có thể làm người khác tin sái cổ. Trong
một thành phố như London luôn có nhiều bệnh nhân hoang tưởng qua lại
ngoài đường, và họ thường nhắm đến những tiệm sách, bởi v́ đó là một
trong những nơi hiếm có mà họ có thể ngồi hàng giờ mà không mất tiền.
Cuối cùng người ta cũng sẽ nhận ra ngay những kẻ này. Những lời khoa
trương của bọn họ toàn là những điều cũ mèm và bâng quơ về bản thân.
Thường th́ chúng tôi đối phó với loại người hoang tưởng, xếp những cuốn
sách họ yêu cầu sang một bên rồi sau đó đặt trở lại trên kệ khi họ quay
đi. Tôi nhận thấy không ai trong bọn họ trả tiền để mang sách đi cả, chỉ
đơn giản đặt hàng - tôi cảm thấy là điều đó khiến họ có ảo tưởng là ḿnh
đă tiêu tiền.
Giống như hầu hết những tiệm bán sách cũ, chúng tôi cũng kinh doanh thêm
nhiều mặt hàng khác nữa. Chẳng hạn, chúng tôi bán máy đánh chữ cũ mèm,
và cả tem thư, những con tem chết. Những người sưu tập tem là những
người kỳ quặc, ít nói, đủ thành phần, đủ mọi lứa tuổi, nhưng đa số thuộc
phái nam, rơ ràng là nữ giới không mấy đặc biệt hứng thú với việc lắp
đầy những cuốn album bằng những mẩu giấy màu nhỏ xíu. Chúng tôi cũng bán
những lá số tử vi giá sáu xu do những người được cho rằng đă dự báo đúng
trận động đất ở Nhật Bản viết ra. Chúng được bỏ trong phong b́ dán kín
và tôi chưa bao giờ thử mở ra xem, nhưng những người mua chúng thường
trở lại và nói rằng những lá số họ mua rất “ đúng”. ( Chắc chắn lá số tử
vi nào cũng đúng nếu nó phán rằng bạn rất hấp dẫn đối với người khác
giới và sai lầm tồi tệ nhất của bạn là sự rộng lượng. ) Chúng tôi bán
chạy nhất sách dành cho trẻ con, nhất là sách giảm giá. Sách mới dành
cho trẻ con toàn viết về những điều khủng khiếp, đặc biệt khi bạn thấy
chúng hàng đống trong tiệm. Riêng tôi thường giới thiệu cho bạn trẻ đọc
sách của Petrenius Arbiter (1) thay v́ Peter Pan, nhưng ngay cả Barrie (
2 ) cũng c̣n mạnh mẽ và bổ ích hơn so với một số người bắt chước ông sau
này. Vào dịp lễ Giáng sinh, chúng tôi thường dành mười ngày đánh vật với
thiệp và lịch, khoảng thời gian này tuy vất vả nhưng có lời khi mùa lễ
kéo dài. Điều này tạo cơ hội cho tôi biết được những tṛ giễu cợt thô
thiển khai thác trên t́nh cảm Thiên Chúa giáo. Những nhân viên chào hàng
đến từ các hăng thiệp Giáng sinh thường gửi cho chúng tôi danh mục sản
phẩm của họ từ đầu tháng sáu. Tôi c̣n nhớ măi cụm từ ghi trong hoá đơn
của họ: “ 2 tá. Chúa hài đồng với lũ thỏ “.
Nhưng nghề làm thuê chính của chúng tôi là cho thuê sách - thường với
giá “ hai xu không cần đặt cọc “ cho một cuốn sách năm hay sáu trăm
trang, toàn là truyện. Bọn trộm sách phải yêu quư những tiệm sách lắm !
Bởi đây là cách kiếm tiền dễ nhất trên thế giới khi thuê một cuốn với
giá hai xu ở tiệm này, sau đó gỡ nhăn và bán nó cho một tiệm khác để lấy
một shilling. Dù vậy, các tiệm sách thường nhận thấy thà chấp nhận mất
một số sách nhất định ( mỗi tháng chúng tôi mất khoảng hơn chục cuốn )
c̣n hơn là bắt khách phải đóng tiền cọc.
Tiệm chúng tôi nằm ngay vùng giáp ranh giữa hai quận Hampstead và Camden
Town, và là nơi mọi loại người lui tới thường xuyên, từ những nhà quư
tộc cho đến người soát vé xe buưt. Có lẽ khách hàng thường xuyên của
chúng tôi là những đại diện tiêu biểu của giới đọc sách London. V́ vậy
điều đáng lưu tâm là tác giả nào được ưa chuộng nhất trong tiệm sách của
chúng tôi - phải chăng là Priestley ( 3 ) ? hay Hemingway ( 4 )? Walpole
( 5 ) ? hay Wodehouse ( 6 ) ? Không, đó là Ethel M. Dell ( 7 ), tiếp
theo là Warrick Deeping ( 8 ), và thứ ba là Jeffrey Farnol ( 9 ). Tất
nhiên các tiểu thuyết của Dell chỉ có phụ nữ đọc, nhưng phụ nữ mọi thành
phần và lứa tuổi, chứ không phải như người ta thường nghĩ, chỉ các bà
các cô không chồng đang khao khát và mấy bà vợ béo ù trông cửa hàng
thuốc lá. Điều đó không có nghĩa là đàn ông không đọc tiểu thuyết, nhưng
sự thật là họ tránh xa loại sách đó. Nói nôm na, những ǵ người ta có
thể gọi là tiểu thuyết tầm thường, hạng xoàng, loại ba xu. Galsworthy (
10 ) - pha loăng là tiêu chuẩn của tiểu thuyết Anh - dường như chỉ tồn
tại dành cho phụ nữ. Đàn ông đọc một trong hai loại là nghiêm túc hoặc
trinh thám. Khả năng ngốn truyện trinh thám của họ thật đáng nể. Tôi
biết một trong những vị khách quen của chúng tôi mỗi tuần đọc bốn hoặc
năm cuốn truyện trinh thám trong hơn một năm, chưa tính những cuốn ông
mượn từ những nơi khác. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là không bao giờ
ông đọc một cuốn nào đó hai lần. Rơ ràng là ông có một sức chứa phi
thường ( tôi nhẩm tính những trang sách mà ông đă đọc hàng năm có thể
phủ lên một bề mặt gần ba phần tư mẫu Anh ) những điều đă đọc và ghi nhớ
chúng. Ông chả thèm quan tâm tên sách hoặc tên tác giả, nhưng chỉ cần
nh́n thoáng qua cuốn sách là ông có thể xác định rằng “ nó đă được đọc
rồi “.
Trong một tiệm cho thuê sách, bạn biết được thị hiếu thực sự chứ không
phải là sự giả bộ của mọi người, và một điều bạn sẽ ngạc nhiên rằng
những tác giả cổ điển Anh không hề được ưa chuộng. Thật vô ích khi cố
đưa Dickens, Thackeray, Jane Austen, Trollop (11 ), v.v., vào các tiệm
cho thuê sách b́nh dân, chẳng ai rớ tay vào những cuốn sách của họ đâu.
Chỉ cần nh́n thấy một cuốn tiểu thuyết từ thế kỷ 19 người ta liền nói, “
Ồ, nhưng nó lạc hậu rồi! “ Và lảng đi ngay lập tức. Tuy nhiên sách của
Dickens luôn dễ bán, Shakespeare cũng vậy. Dickens là một trong những
tác giả mà mọi người luôn “ phải đọc “, và giống như Kinh Thánh, ông
được biết đến rộng răi một cách gián tiếp. Người ta nghe kể mà biết đến
Bill Sikes ( 12 ) là một tên đầu trộm đuôi cướp, hay là Micawber ( 13 )
có cái đầu hói, cũng như người ta nghe kể mà biết Kinh Thánh ông Moses
được t́m thấy trong một cái thúng giữa đám lau sậy và được Thiên Chúa
cho xem lưng. Một điểm đáng chú ư là sách từ Hoa Kỳ ngày càng được phổ
biến rộng răi. Điều nữa, - làm cho các nhà xuất bản rơi vào khủng hoảng
hai hay ba năm một lần - là truyện ngắn không được ưa chuộng. Có người
khi thuê sách lần nào cũng: “ Tôi không cần truyện ngắn” hay “ Tôi không
mê những mẩu chuyện cụt lủn “. Một vị khách người Đức hay ghé tiệm chúng
tôi thường nói như thế. Nếu bạn hỏi họ lư do, đôi khi họ giải thích rằng
mỗi lần đọc một truyện ngắn th́ phải mất công làm quen với một đám nhân
vật mới, họ thích “ nghiền ngẫm “ một cuốn tiểu thuyết mà không cần bận
tâm thêm nữa sau chương đầu tiên. Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng lỗi ở đây
thuộc về tác giả chứ không phải là người đọc. Hầu hết các truyện ngắn
Anh - Mỹ hiện đại hoàn toàn vô hồn và vô giá trị so với tiểu thuyết.
Truyện ngắn là những câu chuyện khá phổ biến, truyện ngắn và tiểu thuyết
của D. H. Lawrence ( 14 ) đều phổ biến như nhau.
Tôi có muốn trở thành một người bán sách chuyên nghiệp không? Câu trả
lời là không - mặc dầu ông chủ đối xử tử tế với tôi và tôi đă có những
tháng ngày thật hạnh phúc nơi tiệm sách.
Với một vị trí tốt và số vốn vừa đủ, bất cứ người có học nào cũng có thể
sống an nhàn bằng cách mở một tiệm sách. Trừ khi dấn thân vào con đường
buôn bán sách “quư hiếm”, th́ đây không phải là một nghề khó làm, và bạn
khởi nghiệp với một lợi thế tuyệt vời nếu bạn biết mọi thứ bên trong
cuốn sách. ( Hầu hết những người bán sách đều không biết. Bạn có thể
kiểm chứng bằng cách lướt qua những tờ báo thương mại, nơi quảng cáo đủ
mọi nhu cầu của họ. Nếu bạn không đọc được mẩu quảng cáo cuốn Decline
and Fall của Boswell th́ chắc chắn bạn sẽ t́m thấy bài đăng về cuốn The
Mill on the Floss của T.S. Eliot (15 ) . Ngoài ra, đó là một nghề kinh
doanh đầy tính nhân văn không thể bị tầm thường hoá đến một mức độ nhất
định. Các hiệp hội không bao giờ ép một tiệm sách nhỏ lẻ phải đóng cửa
như họ đă ép những tiệm tạp hoá và cửa hàng sữa. Nhưng làm ở tiệm sách
rất tốn thời gian. Tôi chỉ là một nhân viên bán thời gian, nhưng ông chủ
yêu cầu tôi phải làm bảy mươi hai giờ một tuần, chưa tính những giờ làm
thêm trong những chuyến gom hàng bên ngoài. Đó c̣n là một nghề có hại
cho sức khỏe. Một quy luật trong tiệm sách là vào mùa đông th́ lạnh
khủng khiếp, v́ nếu nó quá ấm th́ các cửa sổ sẽ bị mờ đi, mà những người
bán sách cũ th́ sống nhờ vào những ô cửa sổ. Những cuốn sách cho ra
nhiều bụi hơn và bẩn hơn bất kỳ thứ nào khác được con người phát minh
ra, và mép trên cùng của sách là nơi lư tưởng chứa xác của lũ ruồi nhặng
bị chết.
Nhưng lư do thực sự tôi không thích theo đuổi nghề bán sách là v́ khi
tôi làm nghề đó tôi đánh mất đi t́nh yêu đối với sách. Một người bán
sách thường hay nói dối về những cuốn sách và điều đó tạo cho anh ta sự
chán ghét đối với chúng, điều tồi tệ đó cứ bám riết lấy anh ta khi mà
ngày nào anh cũng lặp đi lặp lại việc lau bụi và sắp xếp chúng. Có một
thời tôi thực sự say mê những cuốn sách - ngắm nh́n, ngửi và cảm nhận
chúng, nhất là đối với những cuốn ra đời hơn nửa thế kỷ. Không có ǵ làm
tôi hài ḷng nhiều như thắng một cuộc đấu giá với thật nhiều sách mà chỉ
tốn có một shilling. Một niềm phấn khích đặc biệt với những cuốn sách cũ
kỹ mà bạn bất ngờ vớ được trong bộ sưu tập : những tập thơ nhỏ nhắn từ
thế kỷ 18, những cuốn từ điển lỗi thời, những tập tiểu thuyết lẻ bộ bị
lăng quên, những bộ tạp chí phụ nữ của những năm sáu mươi. Những lúc đọc
bất chợt - chẳng hạn trong bồn tắm, vào đêm khuya khi bạn quá mệt mỏi
không thể chợp mắt, hoặc mươi lăm phút rảnh rỗi trước giờ ăn trưa - th́
không ǵ quư bằng một số tạp chí Girl’s Own Paper (16 ). Nhưng ngay khi
tôi đến làm việc tại tiệm sách tôi ngừng mua sách. Nh́n khối sách khổng
lồ, năm hay mười ngàn cuốn một lúc, nó làm tôi chán ngấy và thậm chí
muốn đổ bệnh. Giờ đây thỉnh thoảng tôi có mua sách, nhưng chỉ khi đó là
cuốn sách mà tôi thực sự muốn đọc, mà không thể mượn được, và tôi không
bao giờ mua sách đồng nát. Mùi vị ngọt ngào của những trang giấy cũ nát
không c̣n quyến rũ tôi nữa. Trong tâm trí tôi lúc nào cũng in đậm h́nh
ảnh những vị khách hoang tưởng và xác chết của lũ ruồi nhặng.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
( Tháng 9 / 2023 )
________
Chú thích ( của người dịch )
1. Petrenius Arbiter : ( 27-66 trước CN ), một cận thần La Mă
dưới triều đại hoàng đế Nero. Ông là tác giả của tiểu thuyết phiêu lưu
trào phúng Satirycon mô tả bức tranh xă hội La Mă vào thế kỷ thứ 1.
2. Barrie, tức James Matthew Barrie ( 1860 - 1937 ), đệ nhất nam
tước, tiểu thuyết gia, nhà viết kịch người Scotland, con của một gia
đ́nh thợ dệt, được biết đến là tác giả của tác phẩm Peter Pan.
3. Joseph Priestley ( 1733 - 1804 ), nhà triết học tự nhiên, nhà
hoá học, nhà ngữ pháp, nhà giáo dục, nhà lư luận chính trị tự do, đă
xuất bản hơn 150 tác phẩm. Ông ghi tên ḿnh trong lịch sử với việc đă
t́m ra oxy, và cô lập nó ở trạng thái khí.
4. Ernest Hemingway ( 1899 - 1961 ), tiểu thuyết gia, nhà văn
viết truyện ngắn, nhà báo người Mỹ, giải Nobel văn học năm 1954, tác giả
của nhiều cuốn nổi tiếng ( For Whom the Bell Tolls , Chuông nguyện hồn
ai ; The Old Man and the Sea, Ông già và biển cả ; A Farewell to Arms ,
Giă từ vũ khí )…
5. Hugh Walpole ( 1884 - 1941 ), nhà văn người Anh sinh ra ở New
Zealand, con trai của một giáo sĩ Anh giáo, gia đ́nh muốn ông theo
nghiệp trong giáo hội nhưng ông chọn nghề nhà văn. Cuốn tiểu thuyết đầu
tiên của ông đạt được thành công thực sự là Mr Perrin and Mr Traill, một
câu chuyện bi hài của một cuộc đụng độ chết người giữa hai thầy giáo.
Trong những năm 1920 và 1930, ông đă nhận được nhiều yêu cầu từ công
chúng để đi thuyết giảng về văn học được trả lương rất cao.
6. Pelham Greenville Wodehouse ( 1881 - 1975 ), nhà văn người
Anh, một trong những người hài hước được đọc nhiều nhất trong thế kỷ XX
7. Ethel M. Dell ( 1881 - 1975 ), nhà văn người Anh, tác giả của
hơn 30 tiểu thuyết lăng mạn nổi tiếng và một số truyện ngắn từ năm 1911
đến năm 1939.
8. Warwick Deeping ( 1877 - 1940 ), nhà văn người Anh chuyên viết
tiểu thuyết và truyện ngắn, cuốn nổi tiếng nhất là Sorrel and Son ( 1925
).Cuốn này đă được chuyển thể thành phim ba lần, lần đầu là phim câm (
1927 ), được quay lại vào năm 1934, phim có âm thanh, và đến năm 1984
trở thành series phim truyền h́nh.
9. Jeffrey Fornol ( 1878 - 1952 ), nhà văn người Anh. Từ năm 1907
cho đến khi qua đời, ông đă viết hơn 40 tiểu thuyết lăng mạn, lấy bối
cảnh của thời kỳ Vương triều Anh và những kẻ cuồng dâm. Ông cùng với
Georgette Heyer đă khởi xướng thể loại lăng mạn Regency. Cuốn The
Amateur Gentleman được chuyển thể thành phim năm 1920.
10. John Galsworthy ( 1867 - 1933 ), nhà văn, nhà viết kịch người
Anh, đoạt giải Nobel Văn học năm 1932. Ban đầu ông học luật, trở thành
luật sư nhưng rồi bỏ nghề, bắt đầu viết văn do chịu ảnh hưởng của người
t́nh ( lúc đó đang là vợ của một người anh em họ, bảy năm sau, 1904, họ
mới cưới nhau.) Những tác phẩm đấu tiên của ông được xuất bản dưới bút
danh John Sinjohn.
11. Anthony Trollop ( 1815 - 1882 ), tiểu thuyết gia người Anh
thành công và được biết đến trong thời đại Victoria.
12. Bill Sikes là nhân vật trong tiểu thuyết Oliver Twist của
Charles Dickens. Đây là tiểu thuyết thứ hai của Charles Dickens. Cuốn
sách ban đầu được xuất bản ở Bentley Miscellany là một loại sách ra từng
kỳ vào mỗi tháng bắt đầu từ tháng 2/1937 và tiếp tục cho đến tháng
4/1939. Oliver Twist đă được chuyển thể thành nhiều phim điện ảnh, phim
truyền h́nh và các vở nhạc kịch. Bộ phim Oliver năm 1968 đă đoạt giải
Oscar.
13. Micawber, nhân vật trong tiểu thuyết David Copperfield của
Charles Dickens .
14. D.H. Lawrence ( 1885 - 1930 ), tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà
viết kịch , viết luận, nhà phê b́nh văn chương, tên thật là David
Herbert Lawrence. Những tác phẩm nối tiếp nhau của ông đă phản ánh mặt
trái vô nhân tính của thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại. Trong những năm
đầu đời, ông đă làm thơ, rồi viết vài truyện ngắn, bản thảo một cuốn
tiểu thuyết có tên là Laetitia, sau này trở thành quyển Chim công trắng
( The White Peacock, 1911 ). Nhiều tác phẩm của ông đă gây được tiếng
vang ( Lady Chatterley’ s Lover, Người t́nh của Phu nhan Chatterley,
1928 ).
15. T.S. Eliot. Ở đây, tác giả muốn chế nhạo những người bán sách
thiếu hiểu biết đă nhầm lẫn tác phẩm Decline And Fall of the Roman
Empire của sử gia Edward Gibbon, tương tự The Mill on the Floss được
viết bởi nhà văn George Eliot.
16. Girl’s Own Paper, là một tạp chí ra hàng tuần tại Anh quốc
dành cho nữ giới, tồn tại từ năm 1880 đến năm 1956.
****
Nguồn:
https://americanliterature.com/author/george-orwell/essay/bookshop-memories
art2all.net |