Thân Trọng Sơn
JACQUES PRÉVERT, nhà thơ của tự do ( 1900 – 1977 )
Phải nói ǵ đây để giới thiệu JACQUES PRÉVERT ? Một tác giả chuyên viết kịch bản và đối thoại cho phim ảnh ? Một nhà văn viết truyện thiếu nhi ? Một kịch tác gia sáng tác và phóng tác nhiều vở kịch cho Nhóm Kịch Tháng Mười ? Một người yêu hội họa, bạn thân của các danh họa Braque, Picasso, Max Ernst… , tự minh họa nhiều sách của ḿnh, từng sáng tác và triển lăm tranh cắt dán ? Một nhà thơ lúc nhỏ chỉ ngồi trên ghế nhà trường đến 15 tuổi mà về sau có tác phẩm được đưa vào sách giáo khoa làm tài liệu học tập cho bao nhiêu thế hệ người học tiếng Pháp ? Một tác giả ca từ của hàng chục bản nhạc được những giọng ca hàng đầu của làng âm nhạc Pháp giới thiệu từ nửa thế kỷ nay và được người yêu nhạc khắp nơi trên thế giới thuộc nằm ḷng, kể cả qua các bản dịch ? Chân dung của JACQUES PRÉVERT đă được khắc họa qua những lĩnh vực đa dạng và phong phú như thế. Sinh ra cùng với thế kỷ XX và sống đến 3/4 thế kỷ này, JACQUES PRÉVERT đă để lại cho đời những dấu vết sâu đậm. Năm 1992, mười lăm năm sau khi Ông qua đời, toàn bộ tác phẩm của Ông đă được in trong Tủ sách Pléiade, một tủ sách “sang trọng” dành cho những tác giả mà tài năng và danh tiếng đă được thừa nhận. Tập thơ Paroles (Lời nói ) xuất bản lần đầu vào tháng 5 năm 1946, chỉ một tuần sau đă in thêm 5000 bản, đến nay vẫn c̣n tái bản và tính ra đă có hơn hai triệu bản in. Khắp nơi trên đất Pháp hiện nay có hàng trăm trường học mang tên Ông, chỉ tính riêng trường trung học ( collège / lycée ) có đến 309 trường. Ngay từ năm 1925, Ông đă đồng hành cùng nhóm Siêu thực, cùng sáng tác và sinh hoạt với các nghệ sĩ của nhóm này như Raymond Queneau, Yves Tanguy, Marcel Duhamel, Louis Aragon và tất nhiên cả André Breton ; nhưng chẳng bao lâu, với bản tính thích độc lập và tự do sáng tạo, Ông đă sớm tách rời trường phái Siêu thực, tách rời mọi ràng buộc phái nhóm. Trong thời gian từ 1932 đến 1936, Ông tham gia nhóm kịch Tháng Mười, viết nhiều vở kịch có nội dung khuynh tả, bênh vực những người bị áp bức, bóc lột. Nhóm thường tŕnh diễn trong các khu lao động, các nhà máy, cửa hàng, đă từng sang Nga biểu diễn năm 1933. Năm 1950, Ông đă từng lên tiếng ủng hộ Henri Martin, người lính hải quân ( sau này là lănh tụ của Đảng Cộng sản Pháp ) đứng ra rải truyền đơn kêu gọi nhân dân Pháp chống lại cuộc chiến tranh của Pháp tại Đông Dương. Thế nhưng, khác với Aragon, Ông không hề gia nhập đảng Cộng sản. Đồng thời với việc viết kịch bản và đối thoại phim – khiến tên tuổi Ông gắn liền với tên tuổi của đạo diễn nổi tiếng Marcel Carné và các diễn viên lừng lẫy như Jean Gabin, Michèle Morgan – JACQUES PRÉVERT làm thơ khá sớm. Suốt thời gian từ 1929 đến 1945, thơ của Ông xuất hiện rải rác trong các tạp chí hoặc dưới dạng bản đánh máy. Măi đến năm 1946, một người bạn thân của Ông là René Bertelé, phụ trách nhà xuất bản Le Point du Jour, mới tập hợp lại và cho ra mắt người đọc, lấy nhan đề là Paroles, mở đầu cho một loạt tác phẩm đều đặn xuất hiện sau đó : Histoires ( 1946 ), Spectacles ( 1951 ),Grand bal du printemps ( 1951 ), Charmes de Londres (1951 ), L’opéra de la lune ( 1953 ), La pluie et le beau temps ( 1955 ), Lumière d’homme ( 1955 ), Fatras ( 1966 ), Imaginaires ( 1972 ), Choses et autres ( 1972 ) , Hebdromadaires ( 1972 ) và, sau khi Ông mất, Soleil de nuit ( 1980 ), La cinquième saison ( 1984 ). Ngay từ các tập đầu tiên, thơ JACQUES PRÉVERT đă chinh phục người đọc mọi lứa tuổi bằng một thứ ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu. Ông không coi trọng cú pháp, vần luật, diễn đạt nhẹ nhàng, hồn nhiên, có khi như là văn nói. Cái nhan đề PAROLES ( Lời nói ) cũng phần nào hàm chứa ư đó. Mà nh́n kỹ một chút th́ PAROLES chính là anagramme ( sắp xếp, đảo lộn thứ tự các chữ cái ) của LA PROSE ( văn xuôi ) đó thôi. Cái xu hướng tự do của Ông trước hết thể hiện ở chỗ trong cùng một tác phẩm, Ông đưa vào đủ loại thơ : thơ có vần, thơ tự do, thơ kể chuyện, trữ t́nh, công kích, có bài như một tiểu phẩm ( saynète ), có những bài rất ngắn ( 3 câu, 4 câu ), có bài dài trên 30 trang ( La crosse en l’air / Gậy quyền chỉ lên trời ). Bài “ Les paris stupides / Những cuộc đánh cá xuẩn ngốc ) chỉ vỏn vẹn thế này : Un certain Blaise Pascal Etc..etc..
Một ông Blaise Pascal nào đó v.v…v.v… ( Ư nghĩa bài này thế nào ? Chưa thấy ai « giải mă ». ).
Ông thoải mái sử dụng đủ mọi h́nh thức chơi chữ ( jeux de mots ) : điệp âm, đồng âm, lặp lại, nói lái, đảo ngược … Ông đặt tên cho một tác phẩm của ḿnh là HEBDROMADAIRES. Đó là mot valise tức là một từ mới được tạo ra bằng cách ghép một/ vài âm tiết của một từ với một/ vài âm tiết của từ khác ( hebdomadaire + dromadaire ). Tương tự như thế Ông viết un alcolonel ( alcool+colonel ) … Ông chơi chữ với h́nh thức đồng âm ( homonymie ) : De deux choses lune / l’autre c’est le soleil. ( l’une – l’autre và lune. ) Cũng là đồng âm nhưng ví dụ sau đây thật là bất ngờ : Les conquérants : Terre ... Horizon . Terrorisons. C̣n học tṛ Hamlet ( trong bài L’accent grave ) khi chia động từ « être » đă nói Je suis ou je ne suis pas rồi tiếp : Je suis « où » je ne suis pas và kết luận : Être « où » ne pas être / C’est peut-être aussi la question. th́ chỉ với một cái dấu accent grave, không chỉ thầy giáo mà cả Shakespeare cũng phải ngạc nhiên.
Bài CHANT SONG trong tập Spectacles không thể nào dịch được v́ đây là kiểu chơi chữ đậm phong cách PRÉVERT : Moon lune chant song rivière river garden rêveur petite house little maison ....
Một vài câu trích dẫn ( citations ) Ông đưa ra cũng rất thú vị : « Người phụ nữ là một tư tưởng, mạnh mẽ nhất của tạo hóa, nhưng là một tư tưởng hay nhảy nhót. » ( La femme est une pensée, la plus forte de la nature, mais c’est une pensée dansante). ( Ta không quên câu của Pascal : « Con người là một cây sậy, yếu đuối nhất của thiên nhiên, nhưng là một cây sậy biết suy tư. » ( « L’homme est un roseau, le plus faible de la nature, mais c’est un roseau pensant. » ) « Nếu lời nói là bạc và im lặng là vàng th́ tiếng kêu của con tim là một hạt kim cương muôn màu muôn sắc. » ( Si la parole était d’argent et le silence d’or, le cri du cœur serait alors un diamant multicolore.) « Khi sự thật không được tự do th́ tự do không thật : những sự thật của cảnh sát là những sự thật của hôm nay. » ( Quand la vérité n’est pas libre la liberté n’est pas vraie : les vérités de la police sont les vérités d’aujourd’hui.) « Có lẽ phải cố gắng hạnh phúc dầu chỉ là để làm gương » ( Il faut essayer d’être heureux, ne serait-ce que pour donner l’exemple. »
Một đặc trưng khác của ngôn ngữ PRÉVERT là việc dùng hàng loạt danh từ, tính từ liên tiếp nhau, tiêu biểu là bài Inventaire/ Liệt kê : Một viên đá Hai ngôi nhà Ba phế tích Bốn phu đào huyệt Một khu vườn Những bông hoa Người đọc tưởng như đây chỉ là những liên tưởng ngẫu hứng, không có một trật tự, một ư tưởng nào. Nhưng đọc xuống đoạn sau : Một ông đeo bắc đẩu bội tinh. đi liền sau câu Một cánh cửa với tấm thảm chùi chân hoặc Một vị giáo sĩ một cái mụn nhọt... th́ chắc chắn không phải là ngẫu hứng nữa rồi.
Thế đó, JACQUES PRÉVERT viết như một nhà ảo thuật của ngôn từ nhưng điều này không có nghĩa là thơ Ông dễ dăi, hời hợt. Là người sớm vào đời lao động kiếm sống, Ông tỏ ra đồng cảm với những cảnh đời khốn khó, chia sẻ với những thân phận bị áp bức, bóc lột. Ông lớn tiếng chống lại những thế lực tước đi tự do và hạnh phúc của con người, và, ở đây, không có đề tài nào là cấm kỵ ( tabou ) đối với Ông. Cho dù đó là tôn giáo : Lạy Cha chúng tôi ở trên trời Xin Người cứ ở đó C̣n chúng tôi, chúng tôi cứ ở dưới đất Trái đất đôi khi rất xinh đẹp... ( Pater Noster ) Cho dù đó là vương quyền : Louis XIV mà người ta c̣n gọi là Vua Mặt trời Thường hay ngồi trên chiếc ghế thủng Vào khoảng cuối triều đại ḿnh Một đêm trời tối đen Vua Mặt trời bước ra khỏi giường Đến ngồi trên chiếc ghế Và mất hút. ( L’éclipse )
Ngược lại, Ông luôn ca ngợi t́nh yêu, thương yêu trẻ em, quan tâm đến thú vật – đấy là những chủ đề quen thuộc trong thơ JACQUES PRÉVERT. Ông luôn nhắc đến thú vật trong thơ của ḿnh, đặc biệt là loài chim. Chỉ riêng trong tập Paroles chim đă hiện diện trong hơn hai mươi bài. Chim có thể chịu một số phận bi thảm, chim bị mèo vồ ăn mất một nửa rồi được cả làng tổ chức cho một đám tang thật to ( Le chat et l’oiseau / Mèo và chim ), chim chết cả hàng ngàn con khi bay về từ hải đảo v́ lóa mắt trước ánh sáng ngọn hải đăng nên va đập vào nhau ( Le gardien de phare aime trop les oiseaux / Người gác hải đăng quá yêu chim ). Nhưng chim bao giờ cũng là biểu tượng của tự do : Vẽ chim th́ trước hết phải vẽ cái lồng với cánh cửa để mở, rồi khi chim tự bay vào lồng rồi th́ hăy tháo gỡ dần từng chiếc chấn song, có thế chim mới cất tiếng hót ( Pour faire le portrait d’un oiseau / Để vẽ chân dung một con chim ). Chim phải được thoải mái bay chuyền từ cành này sang cành khác ( Le désespoir est assis sur un banc / Tuyệt vọng ngồi trên chiếc ghế băng ). Càng yêu thương loài vật, Ông càng dành nhiều t́nh cảm cho tuổi thơ. Trẻ em không thể măi là cậu học tṛ nhỏ cứ phải đứng trước lớp để cho « người ta hỏi nó / đủ mọi thứ vấn đề ». Trẻ em phải được quyền nói có với những ǵ mà nó thích, phải được lấy phấn đủ màu / trên tấm bảng thương đau / vẽ khuôn mặt hạnh phúc. ( Le cancre / Học tṛ lười ). Trẻ em không thể măi bị tra tấn bởi những bài học nhàm chán hai với hai là bốn, bốn với bốn là tám ...khi mà từ bên ngoài lớp học tiếng chim hót vọng đến. Trẻ em phải được hát được chơi với chim để cho « tám với tám bỏ đi / và bốn với bốn và hai với hai / cũng lần lượt chuồn theo... » và lúc đó th́ : ... các bức tường lớp học yên lặng sụp đổ rồi cửa kính trở lại thành cát mực viết trở lại thành nước bàn học trở lại thành cây phấn viết trở lại thành vách đá cán bút trở lại thành chim. và trẻ em trở lại với khung trời mơ mộng của lứa tuổi thần tiên. ( Page d’écriture / Trang viết ).
Đối với JACQUES PRÉVERT, t́nh yêu rất cần cho cuộc sống, yêu là sống và sống là yêu : Chúng ta yêu nhau và chúng ta đang sống Chúng ta đang sống và chúng ta yêu nhau Và chúng ta không biết cuộc đời là ǵ đâu Và chúng ta không biết hôm nay là ngày mấy Và chúng ta không biết t́nh yêu nó ra sao. ( Chanson / Bài ca ) Đó là t́nh cảm nhẹ nhàng tinh khiết của những đứa trẻ ôm hôn nhau « trong ánh sáng chói ḷa của mối t́nh đầu tiên » ( Les enfants qui s’aiment / Những đứa trẻyêu nhau ), t́nh yêu của đôi trai gái cùng mới mười lăm tuổi phải « ăn gian » cọng tuổi cả hai để nói chúng ta đă ba mươi tuổi rồi chúng ta đă có quyền yêu nhau. ( Embrasse-moi / Hăy ôm hôn em ). Thơ t́nh của JACQUES PRÉVERT bao giờ cũng mượt mà trau chuốt, kể cả những bài rất ngắn. ALICANTE chẳng hạn. ( Alicante là tên một thành phố hải cảng của Tây Ban Nha, cũng là tên một thứ rượu vang nổi tiếng sản xuất ở đây.) Có thể nói Jacques Prévert đă vận dụng sở trường về hội họa và kịch nghệ trong bài này. Bài thơ mở đầu với h́nh ảnh một bức tranh tĩnh vật : (1)Một trái cam trên bàn (2)Áo em trên tấm thảm Điều thú vị là tác giả đă chuyển h́nh ảnh này sang đoạn sau bằng sự nhắc lại mà không trùng lặp ở hai câu 4 và 5 : (4)Tặng phẩm ngọt ngào của hiện tại (5)Khí mát của đêm thanh Đến câu thứ ba ( được nhắc lại ở câu thứ 6 ) không gian tĩnh đă nhường chỗ thế giới động với sự xuất hiện của nhân vật : (3)Và em trên giường anh ……………… (6)Hơi ấm của đời anh. Và như thế tranh vẽ đă chuyển thành màn kịch ngắn với ngôn ngữ không lời, bố cục độc đáo của bài thơ mở ra nhiều hướng cho người đọc tự cảm nhận.
BARBARA là một kiểu thơ t́nh khác. Đây là một cuộc t́nh bi tráng trong chiến tranh. Cô gái “ tươi cười hân hoan rạng rỡ “ vừa mới choáng ngợp trong t́nh yêu chạy dưới mưa “ ngă vào trong ṿng tay “ chàng trai đă sớm đối diện với “ cuộc chiến tranh xuẩn ngốc”. Cả hai phải chia tay trong bối cảnh thành phố Brest bị dội bom khốc liệt đến mức tất cả đều bị hủy diệt : Xa, xa hẳn Brest Thành phố không c̣n chút dấu vết. Câu kết của bài dịch như trên không diễn được cái âm thanh khô khốc, lạnh lùng, bi thương của từ RIEN trong nguyên tác.
Thơ của JACQUES PRÉVERT c̣n được chắp cánh bay xa khi chuyển thành nhạc. Bài thơ đầu tiên được phổ nhạc là bài Les animaux ont des ennuis, phần nhạc do một người bạn gái thuở thiếu thời của Ông là Christiane Verger viết từ năm 1928. Về sau, rất nhiều tác giả khác đă sáng tác nhiều ca khúc bất hủ từ thơ của Ông, ngoài Joseph KOSMA ( 1905-1969 ) được nhiều người biết c̣n có thể kể Louis Bessières, Hanns Eisler, Wal-Berg, Georges Auric, Jo Warfield, Henri Crolla, Sebastien …. Mấy chục năm nay những bài này đă được nhiều thế hệ ca sĩ tŕnh bày như Agnès Capri, Marianne Oswald, Germaine Montero, Fabien Loris , nổi tiếng hơn là Juliette Gréco, Yves Montand, Mouloudji, les frères Jacques, Edith Piaf và hiện nay c̣n có Jean Guidoni, Catherine Ribeiro, Djemel Charif. Bài LES FEUILLES MORTES ra đời từ 1945, đến nay vẫn c̣n nhiều người thích hát hoặc thích nghe.
JACQUES PRÉVERT đă đi qua thời đại đầy biến động của Ông với một thái độ tỉnh táo, không g̣ ḿnh trong khuôn phép của trường phái nghệ thuật, không để bị ràng buộc bởi xu hướng chính trị, tự khẳng định ḿnh qua nhiều h́nh thức biểu hiện và nổi trội hơn cả vẫn là thơ v́ với Ông “ Thơ ca có mặt ở khắp nơi cũng như Thượng đế chẳng có ở đâu cả.Thơ ca là một trong những biệt danh xác thực nhất, hữu dụng nhất của cuộc đời” (La poésie est partout comme Dieu n’est nulle part. La poésie, c’est un des plus vrais, un des plus utiles surnoms de la vie». Thế giới thơ của JACQUES PRÉVERT, cũng như chính con người JACQUES PRÉVERT, bao giờ cũng tự do, tự do như khí trời, tự do như mây gió, tự do như hoa cỏ trong ĐỒNG XANH ( pré vert ) .
THÂN TRỌNG SƠN
__________________________ a2a : Nghe vài bản nhạc phổ thơ Jacques Prévert :
Déjeuner du Matin
Barbara
Les Feuilles Mortes - Yves Montand
Les Feuilles Mortes - Frank Michael
LA CHANSON DE PREVERT. SERGE GAINSBOURG
|