THƠ  TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG

THÂN TRỌNG SƠN Chuyển ngữ

 

ENTRE NOUS

POÈMES DE TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG –

Traduits par THÂN TRỌNG SƠN

 

NÓI VỚI NHAU

 

Chẳng oán hờn ai, chẳng trách ai

Hãy đi cho hết quãng đường đời

Tâm không vướng bận lời phi thị

Chuyện thế gian đùa, nỏ lắng tai.

 
 

ENTRE NOUS

 

Pour personne n’ayons de reproche ni d’aversion

Continuons jusqu’au bout le chemin de la vie

Sans être empêtrés des qu ’en-dira-t-on

Sans prêter attention aux propos d ’autrui.

 

VUI CÙNG NHAU

 

Nhìn đóa hồng tươi vừa chớm nụ

Ngắm trăng treo lơ lửng ven đồi

Say vần thơ đượm tình tri kỷ

Cùng lắng chờ nghe khúc nhạc vui

 

ENSEMBLE DANS LA JOIE

 

Regardons la fraîche rose à peine épanouie

Contemplons la lune au flanc de la colline montée

Goûtons les vers imprégnés d’une belle amitié

Préparons-nous à l’écoute d’ une allègre mélodie.

.

BUỒN CÓ NHAU

 

Chung bước lần theo đường lối cũ

Vật vờ hồi tưởng bến sông xưa

Bên nhau ngẫm nghĩ đời dâu bể

Cùng chịu đất trời cảnh gió mưa.

 

ENSEMBLE DANS LA TRISTESSE

 

Retournons ensemble aux chemins  d’antan

Retrouvons les souvenirs du rivage des vieux temps

Méditons sur les vicissitudes de la vie

Pour rester ensemble sans peur des intempéries.

 

BÊN NHAU

 

Cuộc đời dẫu có bể dâu

Bên nhau ta hãy quên sầu  cùng vui

Đem tinh hoa hiến dâng đời

Lấy tình chân thật gửi người tri âm

Dốc lòng giữ mối từ tâm

Chữ thương yêu vẫn âm thầm trao nhau.

 

ENSEMBLE

 

Malgré toutes les vicissitudes de la vie

Partageons les joies, oublions les soucis

À la vie, offrons le Beau en toute sa pureté

À nos amis, des sentiments de sincérité

Gardons en nous un bon cœur  pour toujours

L’un à l’autre disons-nous des mots d’amour.

 

CÒN MỐI CHÂN TÌNH

 

Nhớ mới ngày nào tuổi mộng mơ

Tháng năm vùn vụt có ai ngờ

Sắc xuân chừng ngả màu sương tuyết

Còn mối chân tình buộc với thơ.

 

IL RESTE UN AMOUR SINCÈRE

 

Temps des beaux jours, temps des beaux  rêves

Tout suit son cours, sans repos ni trêve

Les éclats du bel âge déjà en ténèbres tournés

Reste seul un amour sincère à la Muse enchaîné.

 

 

CÒN GẶP NHAU

 

Ưu ái tặng  những tâm hồn đồng điệu.

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ vui

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi

Lợi danh như bóng mây chìm nổi

Chỉ có tình thương để lại đời.

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ thương

Tình người muôn thuở vẫn còn vương

Chắt chiu một chút tình thương ấy

Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường.

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi

Bao nhiêu thú vị ở trên đời

Vui chơi trong ý tình cao nhã

Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời.

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ cười

Cho tình thêm thắm, ý thêm tươi

Cho hương thêm ngát, đời thêm vị

Cho đẹp lòng tất cả mọi người.

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ chào

Giữa miền đất rộng với trời cao

Vui câu nhân nghĩa, tròn sau trước

Lấy chữ chân tình gửi tặng nhau.

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ say

Say tình, say nghĩa bấy lâu nay

Say thơ, say nhạc, say bè bạn

Quên cả không gian lẫn tháng ngày.

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ đi

Đi tìm chân lý, lẽ huyền vi

An nhiên tự tại – lòng thanh thản

Đời sống tâm linh thật diệu kỳ.

 

 

TANT  QU’ON  SE  VOIT

 

Affectueusement dédié  aux âmes sœurs

  

Tant qu’on se voit, réjouissons-nous toujours

Les choses de la vie continuent bien leur cours

Honneurs et richesses ne sont que passagers

Reste seul un amour à la vie laissé.

 

Tant qu’on se voit, vouons-nous à l’amour

L’amour du genre humain persiste pour toujours

Gardons bien précieusement ce peu d’affection

Envoyons-la aux chemins de mil directions.

 

Tant qu’on se voit, profitons-en pour nous divertir

Dans l’existence abondent que de plaisirs

Savourons-les d’un esprit raffiné et élégant

La vie accentue encor ses traits excellents.

 

Tant qu’on se rencontre, continuons à rire

Que les pensées soient plus vives, l’amour plus ardent

La vie plus exquise, les parfums plus pénétrants

Et à tout le monde on fera ainsi plaisir.

 

Tant qu’on est ensemble, disons –nous bonjour

Au milieu de la vaste terre et du ciel élevé

Conduisons-nous avec charité et fidélité

L’un à l’autre offrons-nous un sincère amour.

 

Tant qu’on se voit, ne cessons pas de nous enivrer

De l’amour, de l’attache, soyons ivres toujours

Et aussi des beaux vers, de la musique, de l’amitié

Pour oublier le sens de l’espace et la fuite des jours.

 

Tant qu’on se voit encor, continuons nos pas

À la recherche de la vérité et du mystérieux

Gardons pour nous un coeur calme et heureux

La vie spirituelle est merveilleuse, n’en doutons pas

 

PHÙ SINH

 

Vẫn biết cuộc đời là mộng ảo

Phù sinh một kiếp thoáng qua mau

Tóc xanh đang độ thời thơ ấu

Thoảng chốc thì ra đã bạc đầu.

 

LA VIE ÉPHÉMÈRE

 

La vie  n’est, chacun le sait, rien qu’un rêve,

Et notre existence, une durée toute brève,

De la tendre enfance, juste en un moment,

On vole à la vieillesse aux cheveux blancs.

 

NỢ TÌNH

 

Tình yêu ai tính thiệt hơn

Mà đem phân tách cho hờn cho cay

Nợ tình nào có ai vay

Khi đem trang trải biết ngày nào xong.

 

DETTE D’AMOUR

 

Dans l ’amour on ne compte ni pertes  ni gains

Pourquoi donc l ’échanger contre haine et dédain ?

En emprunter ? Mais c ’est de la peine perdue

Nul ne sait si jamais on peut payer son dû.

 

LỜI NÀY TÔI VIẾT

  

Lời này tôi viết cho tôi

Khi mùa Xuân đã qua rồi

Hương Xuân tàn theo năm tháng

Tuổi đời đến lúc tàn phai.

  

Dẫu cho Tình yêu hết thắm

Dẫu cho Ngày Xuân một mai...

Nhưng tôi vẫn còn sống mãi

Với Nàng Thơ đẹp muôn đời.

 

J ’ÉCRIS CES MOTS

 

 J ’écris ces mots pour moi-même

Quand le printemps touche à sa fin

Les éclats de la saison deviennent blêmes

Et mes années tombent en déclin.

 

L ’Amour a beau faiblir

Le printemps a beau tarir

Mais moi je reste encore en vie

Avec la Muse en compagnie.

 

CHỮ  TÂM

 

Sống trên đời gắng giữ trọn chữ Tâm

Và nhất niệm báo ân  đừng báo oán.

 

 

 

LE BON CŒUR

 

Pour s’assurer une vie de bonheur

Garder à tout instant un bon cœur

Témoigner toujours sa reconnaissance

Sans jamais penser à la vengeance.

 

 

XUÂN CỦA ĐẤT TRỜI

 

Nàng Thơ không có tuổi già

Ngàn năm thơ vẫn là thơ của đời

Như Xuân vốn của đất trời

Mùa Xuân bất tận rạng ngời nước non.

 

 

PRINTEMPS

 

La Muse n’ayant point d’âge mûr,

La Poésie reste à jamais avec la vie

Le Printemps, don de la Nature,

Resplendit sur terre à l’infini

 

 

LẼ  VÔ THƯỜNG

 

Biến thiên là lẽ vô thường,

Cuộc đời như giấc mộng trường đó thôi!

Quên buồn đổi lấy niềm vui

Cho non sông ấm nụ cười tao nhân.

 

 

ÉVANESCENCE

 

La vie, un long rêve, est d’une inconstance

Tout subsiste ici-bas dans l’évanescence

Loin de souffrir, réjouissons-nous toujours,

Faisant don des sourires aux amis et connaissances

 

CHÚT TÌNH TRI KỶ

 

Tri kỷ đời nay dễ mấy người,

Trăm năm mua lấy chút tình thôi !

Muôn vàng khó đổi câu tâm sự,

Trọn kiếp còn ghi nhớ những lời …

 

AMITIÉ

 

Rares sont les vrais confidents

Qui nous témoignent d’une belle amitié

Précieuses sont les confidences échangées

Qui persistent au cours d’une vie de cent ans.

 

 

DẶN LÒNG

 

Giữ yên nếp sống dịu hiền

Gây chi sóng gió cho phiền lòng nhau

Khi đời đã chẳng vào đâu,

Trăm năm mua lấy chữ sầu ích chi !

 

SELF – RECOMMANDATION

 

Sans causer de peines à autrui,

Mener une simple et douce vie

Qui parfois n’a pas trop d’importance

À quoi bon se donner des soucis !

 

TẠ TÌNH

 

Cảm lời ai nét ngọc vàng

Tạ tình ai gấm thêu hàng tặng trao

Duyên thơ đầm ấm ngọt ngào

Khúc tri âm đó phổ vào đàn tâm.

 

 

GRATITUDE

  

Merci pour des perles incrustées dans les mots

Pour du brocart voilé dans les vers si beaux

Dictés par une alliance poétique sentimentale,

Émanés des confidences sincères et  amicales.

 

 

HÃY CHO NHAU

 

Một cơn gió nhẹ thoảng qua

Dễ đưa ta dến lìa xa cõi đời

Để kết thúc một kiếp người

Mong manh như giọt sương rơi đầu cành

 

Thế mà cứ mãi quẩn quanh

Ghét ghen, sân hận, tranh giành, hơn thua

Đang là bạn, hóa ra thù,

Đang thân thiết, bỗng thờ ơ lạnh lùng

 

Cùng trong cõi tạm sống chung

Chơi vơi bể khổ, mênh mông đất trời

 

Hãy cho nhau những nụ cười

Hãy cho nhau trọn tình người  niềm vui

Hãy cho nhau vị ngọt bùi

Hãy cho nhau vạn ngàn lời yêu thương

Tròn câu hiếu đạo cương thường.

 

 

DONATION

 

Un seul souffle de vent léger

Nous transporte déjà à l’autre monde

Marquant ainsi l’heure moribonde

D ’une vie fragile comme une rosée

  

À quoi bon donc se donner des soucis

Haine, colère, concurrence, jalousie ?

Entre amis, pourquoi faire acte d ’hostilité

Choisir l’indifférence au lieu de l’intimité ?

  

Dans cette auberge passagère qu’est la vie

Entre ciel et terre, on souffre des maux infinis.

 

Donnons-nous volontiers des sourires

Donnons-nous l’amour et les plaisirs

Donnons-nous la tendresse et la douceur

Donnons- nous des paroles de bon cœur

Selon les principes moraux de toute heure.

 

 

ÉPILOGUE - 

 

J’aime ces vers si profonds par leur simplicité

Qui depuis toujours pénètrent bien notre cœur

A travers la traduction j ’oserais les dédier

À toutes les âmes sœurs  d ’ici et  d ’ailleurs.

 

( TTS )

LỜI BẠT 

 

Thơ giản dị nên thơ càng sâu lắng

Lời nhẹ nhàng dễ đi thẳng hồn người

Xin tạm mượn qua đôi dòng chuyển ngữ

Gửi đến ai chút vị ngọt cho đời.

 

( TTS )

 

POÈMES  DE  TÔN NỮ  HỶ  KHƯƠNG

TRADUITS  PAR   THÂN TRỌNG SƠN

 

 

TIẾNG VỌNG TRI ÂM

( Lettre de Bernard Uhoda )

 

Poèmes vietnamiens de TON NU  HY KHUONG,

traduits en français par THAN TRONG SON.

 

Cher Son, 

J’ai lu votre traduction des poèmes de TON NU HY KHUONG avec l’intérêt le plus vif, celui d’une double reconnaissance : j’ai été touché par l’attention de votre envoi et je retrouve bien dans vos textes l’esprit vietnamien que j’ai cru pouvoir approcher pendant cinq années.

J’ai eu du plaisir à y retrouver un parfum de gravité mêlé à celui d’une « fraîche rose », ainsi qu’à la douceur d’une « allègre mélodie » (‘‘Ensemble dans la joie’’) et du « rivage du vieux temps » (‘‘Ensemble dans la tristesse’’). J’ai été séduit également par ces courtes invitations, détachées de toute pesanteur et attachées aux magies de l’instant et « d’une inconstance » (‘‘Évanescence’’). J’ai apprécié encore l’entremêlement de la joie et de la tristesse, dans lequel le profane que je suis reconnaît la philosophie du yin et du yang ainsi qu’un comble de sagesse : le partage de la tristesse et celui de la joie sont tous deux une joie supérieure (‘‘Ensemble’’). Outre l’évocation sensible de l’amour proprement dit, celui de la femme-Muse (‘‘Ensemble’’) comme celui de la Muse-femme (‘‘Il reste un amour sincère’’), j’ai aimé enfin cette recherche permanente de la concorde, du vivre-ensemble, « ce peu d’affection » qu’il nous faut à la fois préserver en nous et diffuser autour de nous (‘‘Tant qu’on se voit’’) ; cette recherche traverse la plupart des poèmes et le recueil lui-même comme les titres en témoignent (par exemple, ‘‘Entre nous’’, ‘‘Ensemble dans la joie’’, ‘‘Ensemble dans la tristesse’’, ‘‘Ensemble’’, ‘‘Tant qu’on se voit’’, ‘‘Amitié’’, ‘‘Gratitude’’).

Au-delà de ce bonheur à vous lire, je sens aussi que vos textes stimulent une réflexion sur la langue et sur la poésie. Je conçois les difficultés de toute traduction, a fortiori de poésie, et qui plus est de poésie vietnamienne. Il me semble, pour autant que je puisse en parler et vous pardonnerez mes errements, que la langue vietnamienne plus qu’une autre est propice à la poésie en ce qu’elle laisse du jeu entre les mots. C’est bien le rôle du poète de s’y engouffrer ; il est le plongeur qui repêche les sens tombés entre les mots. Par ailleurs, la langue vietnamienne est plus concise que la langue française, elle n’en a pas le décorum analytique, par exemple ses articles, prépositions et affixes. Sa syntaxe au premier chef est différente. Si elle semble plus imprécise que la langue française, c’est sans doute qu’elle ressemble davantage à la vie. Tout entière inscrite en situation, elle sollicite davantage encore le contexte. Elle ambitionne l’adéquation d’un esprit à un moment, elle est précise dans l’instant. Je sens ce lien étroit avec la vie dans vos traductions et c’est pourquoi j’admire aussi leur effort de resserrement et de fluidité, dont j’imagine aisément qu’il garde aux textes originaux toute la force de leur impact.

Contentement du cœur et réflexion sur la langue, oui, mais c’est encore une sagesse que vous éveillez en nous. Les poèmes et vos traductions ont indéniablement une portée éthique. La quête d’un équilibre entre la vie personnelle et la vie sociale y est sans cesse manifestée, de même que la poursuite d’un sens à cette vie, entre l’éphémère et le durable, les maux et les bonheurs, l’évanescent et le sensible, le moi et l’autre, « la recherche de la vérité et du mystérieux » (‘‘Tant qu’on se voit’’). La poésie dit de depuis des millénaires ce que la science découvre aujourd’hui : que le souci de l’autre, le besoin d’affection, la nécessité de la vie sociale pourraient bien être présents dans nos gènes, inscrits dans notre psycho-physiologie, imprimés comme un poème dans nos corps, que ceux-ci sont moins individuels qu’on le laisse trop souvent croire et, finalement, que la compassion est une intelligence animale et, partant, humaine. En tous coins et à tous vents, la poésie répète cela comme une respiration nécessaire. Dans ce genre littéraire, souplesse et puissance d’évocation vont de pair et j’ai l’impression que la poésie vietnamienne, par la nature de sa langue et celle de son esprit, y ajoute un supplément de suggestivité, tel que l’ont par exemple recherché les symbolistes belges et français en assouplissant précisément une syntaxe et une logique françaises par trop contraignantes, aux fins non pas d’exprimer des correspondances entre éléments éloignés mais bien, comme dans vos textes, de célébrer un réel complexe concentré en un point de la nature. Selon la poésie et pour peu qu’elle tende à l’explorer, la vérité n’est ni dans l’espace, ni dans le temps, elle est dans le mystère de l’esprit et l’ivresse du partage (‘‘Tant qu’on se voit’’).

Le plaisir d’abord ressenti est ainsi augmenté, renouvelé d’un double prolongement, linguistique et philosophique. C’est ce que j’aime en poésie et c’est pourquoi j’aime la vôtre. Bien sûr, celle du poète TON NU HY KHUONG, mais la vôtre également, car seul un poète authentique peut traduire avec efficacité de la poésie, qu’il faut comprendre de l’intérieur. Je vous remercie du fond du cœur et j’ai encore du bonheur à rendre aux textes le dernier mot : « Un seul souffle de vent léger » (‘‘Donation’’) court-circuite le temps et le réel. Dans l’accomplissement perpétuel d’ « une durée toute brève » (‘‘La vie éphémère’’) comme dans l’intense moment d’ « une vie de cent ans » (‘‘Amitié’’), tout est double – duel et duo –, tout est incertitude et vérité, puisqu’il n’y a que l’amour et que, seul à compter, l’amour échappe à tout calcul : « Dans l’amour, on ne compte pas pertes et gains » (‘‘Dette d’amour’’).

 

Votre jeune frère en poésie,

 

Bernard Uhoda*

( BRUXELLES – 09.09.2004 )

 

* Professeur belge

Conseiller pédagogique AUF / Antenne de HCM-Ville

 

 

Thư của Bernard Uhoda gởi Thân Trọng Sơn

-------------------------------------------------------------- 

Anh Sơn thân mến, 

            Tôi đọc bản dịch của anh (dịch thơ Tôn Nữ Hỷ Khương) thích thú vô cùng, thích thú vì 2 điều tâm đắc : Cảm động trước sự ân cần của anh và tìm thấy trong tuyển tập cái hồn Việt mà tôi tưởng đã có thể tiếp cận trong vòng 5 năm qua.

            Tôi vui mừng tìm lại được một hương thơm trang nhã lẫn với mùi hương của một “đóa hồng tươi” cũng như với sự nhẹ nhàng của một “ khúc nhạc vui ” (Ensemble dans la joie / Vui cùng nhau) và của “bến sông xưa” (Ensemble dans la tristesse / Buồn có nhau). Tôi cũng bị mê hoặc bởi những mời gọi ngắn ngủi, trút bỏ tất cả ràng buộc để  gắn bó với những sự diệu kỳ của “cái khoảnh khắc “ và “cái biến thiên” (Évanescence”/ Lẽ vô thường). Tôi còn đánh giá cao sự hòa hợp giữa niềm vui và nỗi buồn, trong đó kẻ ngoại đạo là tôi  đã nhận thức được triết lý âm dương cũng như đỉnh cao của trí tuệ: chia buồn với nhau và góp vui cùng nhau đều tạo nên một niềm vui lớn hơn (Ensemble / Bên nhau). Ngoài việc nhớ tới tình yêu với nghĩa hẹp của nó – “cái tình chân thật gởi người tri âm ’’ (Ensemble / Bên nhau), cũng như cái mối chân tình ràng buộc với Nàng Thơ (Il reste un amour sincère/ Còn mối chân tình), tôi còn yêu thích sự miệt mài - chắt chiu - tìm kiếm  một sự hòa hợp, một cuộc –sống-cùng-nhau, ‘’một chút tình thương ấy” mà chúng ta cần phải vừa giữ lại trong ta, vừa ban phát ra khắp chung quanh ta (Tant qu’on se voit / Còn gặp nhau). 

            Tôi bắt gặp sự kiếm tìm ấy qua hầu hết các bài thơ mà ngay tựa đề của tuyển tập cũng như tựa đề của từng bài cũng đủ minh chứng ( thí dụ Entre nous / Nói với nhau, Ensemble dans la joie/ Vui cùng nhau, Ensemble dans la tristesse / Buồn có nhau, Ensemble/ Bên nhau, Tant qu’on se voit / Còn gặp nhau, Amitié / Chút tình tri kỷ, Gratitude / Tạ tình…)

            Ngoài niềm vui được đọc thơ dịch của anh, tôi còn cảm thấy những bài dịch của anh đã khiến tôi suy nghĩ về ngôn ngữ và thơ ca. Tôi hiểu rằng việc dịch thuật ắt phải gặp nhiều khó khăn, huống chi dịch thơ, mà lại là thơ Việt. Trong chừng mực mà tôi có thể lạm bàn và nếu anh bỏ qua những sai lầm của tôi, thì, theo tôi, hình như tiếng Việt thích hợp với thơ ca hơn bất cứ một ngôn ngữ nào khác, nhờ sự biến hóa của ngôn từ. Vai trò của nhà thơ là ngụp lặn trong từ ngữ. Nhà thơ là người thợ lặn sẽ vớt cái ý nghĩa rớt rơi trong từ ngữ lên. Mặt khác, tiếng Việt súc tích hơn tiếng Pháp. Tiếng Việt không có nhiều những mẹo luật có tính phân tích của tiếng Pháp, chẳng hạn như mạo từ, giới từ và các từ tố. Trước tiên và trên hết, cú pháp tiếng Việt khác hẳn. Nếu nó có vẻ như không chính xác bằng tiếng Pháp, thì đó chẳng qua là vì nó giống với cuộc sống nhiều hơn. Ngôn ngữ tiếng Việt phản ánh đầy  đủ một tình huống nhưng đòi hỏi phải tìm hiểu thêm qua ngữ cảnh. Nó tìm kiếm một sự hòa hợp toàn hảo và chính xác của tâm hồn ở một thời điểm nhất định.

            Tôi cảm nhận được mối liên hệ chặt chẽ với cuộc sống ấy trong các bài dịch của anh, do đó tôi cũng ngưỡng mộ mọi cố gắng làm cho bản dịch được cô đọng  và lưu loát khiến cho tôi dễ dàng nghĩ rằng bản dịch đã hoàn toàn lột hết ý của bản gốc. 

            Anh đã khơi gợi sự thỏa mãn của tâm hồn và sự suy tưởng về ngôn ngữ. Vâng, nhưng anh còn đánh thức nơi người đọc một sự khôn ngoan đúng mực nữa. Những bài thơ gốc và những bài dịch đều có khuynh hướng đạo đức, đó là điều không thể chối cãi. Trong tìm kiếm sự cân đối hài hòa giữa đời sống cá thể và đời sống xã hội, khuynh hướng đó không ngừng biểu lộ, giống như sự đeo đuổi một ý nghĩa cho cuộc đời nầy, giữa sự phù du và sự bền vững, giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa cái vô thường và cái cảm nhận được, giữa cái tôi và tha nhân, sự kiếm tìm chân lý và lẽ huyền vi (Tant qu’on se voit / Còn gặp nhau) v.v… Từ nhiều thiên niên kỷ trước, thơ ca đã nói đến cái mà ngày nay khoa học mới phát kiến : rằng sự lo lắng cho tha nhân, nhu cầu được yêu thương, sự cần thiết của đời sống xã hội đều có thể hiện hữu trong “gien” của chúng ta, lưu lại trong tâm sinh lý của chúng ta, khắc ghi như một bài thơ vào trong cơ thể chúng ta, rằng những cái ấy ít cá biệt hơn người ta vẫn tưởng, và cuối cùng, rằng lòng trắc ẩn là một sự thông minh của loài vật, và do đó cũng là của loài người. Ở khắp mọi nơi thơ ca đều nhắc đi nhắc lại điều đó như một hơi thở  cần thiết. Trong thể loại văn học nầy, sự uyển chuyển và sức mạnh trong gợi tưởng luôn song hành  với nhau và tôi có cảm tưởng rằng thơ ca Việt nam, do tính chất riêng biệt về ngôn ngữ và về tinh thần của nó, còn có một đặc tính phụ là tính gợi cảm, như các nhà thơ Bỉ và Pháp thuộc phái tượng trưng vẫn tìm kiếm để mong làm cho cú pháp và “lôgíc” (vốn rất bó buộc) được linh hoạt hơn, mục đích không phải là để diễn đạt được những tương ứng giữa những yếu tố  cách xa nhau , mà là để ca tụng một hiện thực phức tạp cô đọng trong một vấn đề của bản chất, như thể hiện trong các bài dịch của anh.

            Tùy theo thơ ca và chỉ cần thơ có khát vọng vươn tới sự khám phá chân lý thì chân lý không ở trong không gian, cũng không ở trong thời gian. Chân lý ở trong sự huyền nhiệm của tinh thần và ở trong sự mê say được chia sẻ (Tant qu’on se voit/ Còn gặp nhau)

            Thế là sự thích thú tôi cảm thấy lúc ban đầu đã tăng lên, tươi mới hơn bởi một sự phát triển mang tính vừa ngôn ngữ vừa triết học. Đó là điều tôi thích trong thơ ca và cũng chính vì vậy mà tôi thích thơ anh. Tất nhiên là thơ của Nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, nhưng cũng là thích thơ anh luôn, bởi lẽ phải là thi sĩ đích thực thì mới có thể dịch thơ có hiệu quả, vì phải hiểu được cái ẩn chứa bên trong của bài thơ. Tôi cám ơn anh tận đáy lòng và xin phép được hoan hỉ nói thêm một lời : Một cơn gió nhẹ thoảng qua (Donation / Hãy cho nhau ) đã làm chập mạch thời gian và hiện thực. Trong sứ mệnh thực hiện không ngừng nghỉ một “khoảnh khắc ngắn ngủi ” ( La vie éphémère/ Phù sinh) cũng như một “khoảnh khắc đáng kể” trong “cuộc sống trăm năm” (Amitié / Chút lòng tri kỷ ), tất cả đều có tính “nhị phân”, tính kép  - tương phản và  tương đồng – tất cả đều thiếu xác thực và tất cả đều là chân lý, bởi vì chỉ có tình yêu là đáng kể, chỉ tình yêu mới vượt ra ngoài mọi toan tính :

“Tình yêu ai tính thiệt hơn “ ( Dettes d’amour / Nợ tình )

 

Bạn thơ của anh,

Bernard Uhoda *

( 09.09.2004 )

 

*Giáo sư Bỉ.

Cố vấn sư phạm

Hiệp Hội Đại Học Pháp ngữ

TP Hồ CHÍ MINH

 

 

( Bản dịch của Thân Trọng Thủy )

 

 

Trang Thân Trọng Sơn

art2all.net