THƠ TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG THÂN TRỌNG SƠN Chuyển ngữ
ENTRE NOUS POÈMES DE TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG – Traduits par THÂN TRỌNG SƠN
|
NÓI VỚI NHAU
Chẳng oán hờn ai, chẳng trách ai Hãy đi cho hết quãng đường đời Tâm không vướng bận lời phi thị Chuyện thế gian đùa, nỏ lắng tai. |
ENTRE NOUS
Pour personne n’ayons de reproche ni d’aversion Continuons jusqu’au bout le chemin de la vie Sans être empêtrés des qu ’en-dira-t-on Sans prêter attention aux propos d ’autrui.
|
VUI CÙNG NHAU
Nhìn đóa hồng tươi vừa chớm nụ Ngắm trăng treo lơ lửng ven đồi Say vần thơ đượm tình tri kỷ Cùng lắng chờ nghe khúc nhạc vui |
ENSEMBLE DANS LA JOIE
Regardons la fraîche rose à peine épanouie Contemplons la lune au flanc de la colline montée Goûtons les vers imprégnés d’une belle amitié Préparons-nous à l’écoute d’ une allègre mélodie. . |
BUỒN CÓ NHAU
Chung bước lần theo đường lối cũ Vật vờ hồi tưởng bến sông xưa Bên nhau ngẫm nghĩ đời dâu bể Cùng chịu đất trời cảnh gió mưa. |
ENSEMBLE DANS LA TRISTESSE
Retournons ensemble aux chemins d’antan Retrouvons les souvenirs du rivage des vieux temps Méditons sur les vicissitudes de la vie Pour rester ensemble sans peur des intempéries.
|
BÊN NHAU
Cuộc đời dẫu có bể dâu Bên nhau ta hãy quên sầu cùng vui Đem tinh hoa hiến dâng đời Lấy tình chân thật gửi người tri âm Dốc lòng giữ mối từ tâm Chữ thương yêu vẫn âm thầm trao nhau. |
ENSEMBLE
Malgré toutes les vicissitudes de la vie Partageons les joies, oublions les soucis À la vie, offrons le Beau en toute sa pureté À nos amis, des sentiments de sincérité Gardons en nous un bon cœur pour toujours L’un à l’autre disons-nous des mots d’amour.
|
CÒN MỐI CHÂN TÌNH
Nhớ mới ngày nào tuổi mộng mơ Tháng năm vùn vụt có ai ngờ Sắc xuân chừng ngả màu sương tuyết Còn mối chân tình buộc với thơ. |
IL RESTE UN AMOUR SINCÈRE
Temps des beaux jours, temps des beaux rêves Tout suit son cours, sans repos ni trêve Les éclats du bel âge déjà en ténèbres tournés Reste seul un amour sincère à la Muse enchaîné.
|
CÒN GẶP NHAU
Ưu ái tặng những tâm hồn đồng điệu.
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui Chuyện đời như nước chảy hoa trôi Lợi danh như bóng mây chìm nổi Chỉ có tình thương để lại đời.
Còn gặp nhau thì hãy cứ thương Tình người muôn thuở vẫn còn vương Chắt chiu một chút tình thương ấy Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường.
Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi Bao nhiêu thú vị ở trên đời Vui chơi trong ý tình cao nhã Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời.
Còn gặp nhau thì hãy cứ cười Cho tình thêm thắm, ý thêm tươi Cho hương thêm ngát, đời thêm vị Cho đẹp lòng tất cả mọi người.
Còn gặp nhau thì hãy cứ chào Giữa miền đất rộng với trời cao Vui câu nhân nghĩa, tròn sau trước Lấy chữ chân tình gửi tặng nhau.
Còn gặp nhau thì hãy cứ say Say tình, say nghĩa bấy lâu nay Say thơ, say nhạc, say bè bạn Quên cả không gian lẫn tháng ngày.
Còn gặp nhau thì hãy cứ đi Đi tìm chân lý, lẽ huyền vi An nhiên tự tại – lòng thanh thản Đời sống tâm linh thật diệu kỳ.
|
TANT QU’ON SE VOIT
Affectueusement dédié aux âmes sœurs
Tant qu’on se voit, réjouissons-nous toujours Les choses de la vie continuent bien leur cours Honneurs et richesses ne sont que passagers Reste seul un amour à la vie laissé.
Tant qu’on se voit, vouons-nous à l’amour L’amour du genre humain persiste pour toujours Gardons bien précieusement ce peu d’affection Envoyons-la aux chemins de mil directions.
Tant qu’on se voit, profitons-en pour nous divertir Dans l’existence abondent que de plaisirs Savourons-les d’un esprit raffiné et élégant La vie accentue encor ses traits excellents.
Tant qu’on se rencontre, continuons à rire Que les pensées soient plus vives, l’amour plus ardent La vie plus exquise, les parfums plus pénétrants Et à tout le monde on fera ainsi plaisir.
Tant qu’on est ensemble, disons –nous bonjour Au milieu de la vaste terre et du ciel élevé Conduisons-nous avec charité et fidélité L’un à l’autre offrons-nous un sincère amour.
Tant qu’on se voit, ne cessons pas de nous enivrer De l’amour, de l’attache, soyons ivres toujours Et aussi des beaux vers, de la musique, de l’amitié Pour oublier le sens de l’espace et la fuite des jours.
Tant qu’on se voit encor, continuons nos pas À la recherche de la vérité et du mystérieux Gardons pour nous un coeur calme et heureux La vie spirituelle est merveilleuse, n’en doutons pas
|
PHÙ SINH
Vẫn biết cuộc đời là mộng ảo Phù sinh một kiếp thoáng qua mau Tóc xanh đang độ thời thơ ấu Thoảng chốc thì ra đã bạc đầu. |
LA VIE ÉPHÉMÈRE
La vie n’est, chacun le sait, rien qu’un rêve, Et notre existence, une durée toute brève, De la tendre enfance, juste en un moment, On vole à la vieillesse aux cheveux blancs.
|
NỢ TÌNH
Tình yêu ai tính thiệt hơn Mà đem phân tách cho hờn cho cay Nợ tình nào có ai vay Khi đem trang trải biết ngày nào xong. |
DETTE D’AMOUR
Dans l ’amour on ne compte ni pertes ni gains Pourquoi donc l ’échanger contre haine et dédain ? En emprunter ? Mais c ’est de la peine perdue Nul ne sait si jamais on peut payer son dû.
|
LỜI NÀY TÔI VIẾT
Lời này tôi viết cho tôi Khi mùa Xuân đã qua rồi Hương Xuân tàn theo năm tháng Tuổi đời đến lúc tàn phai.
Dẫu cho Tình yêu hết thắm Dẫu cho Ngày Xuân một mai... Nhưng tôi vẫn còn sống mãi Với Nàng Thơ đẹp muôn đời. |
J ’ÉCRIS CES MOTS
J ’écris ces mots pour moi-même Quand le printemps touche à sa fin Les éclats de la saison deviennent blêmes Et mes années tombent en déclin.
L ’Amour a beau faiblir Le printemps a beau tarir Mais moi je reste encore en vie Avec la Muse en compagnie.
|
CHỮ TÂM
Sống trên đời gắng giữ trọn chữ Tâm Và nhất niệm báo ân đừng báo oán.
|
LE BON CŒUR
Pour s’assurer une vie de bonheur Garder à tout instant un bon cœur Témoigner toujours sa reconnaissance Sans jamais penser à la vengeance.
|
XUÂN CỦA ĐẤT TRỜI
Nàng Thơ không có tuổi già Ngàn năm thơ vẫn là thơ của đời Như Xuân vốn của đất trời Mùa Xuân bất tận rạng ngời nước non.
|
PRINTEMPS
La Muse n’ayant point d’âge mûr, La Poésie reste à jamais avec la vie Le Printemps, don de la Nature, Resplendit sur terre à l’infini
|
LẼ VÔ THƯỜNG
Biến thiên là lẽ vô thường, Cuộc đời như giấc mộng trường đó thôi! Quên buồn đổi lấy niềm vui Cho non sông ấm nụ cười tao nhân.
|
ÉVANESCENCE
La vie, un long rêve, est d’une inconstance Tout subsiste ici-bas dans l’évanescence Loin de souffrir, réjouissons-nous toujours, Faisant don des sourires aux amis et connaissances
|
CHÚT TÌNH TRI KỶ
Tri kỷ đời nay dễ mấy người, Trăm năm mua lấy chút tình thôi ! Muôn vàng khó đổi câu tâm sự, Trọn kiếp còn ghi nhớ những lời … |
AMITIÉ
Rares sont les vrais confidents Qui nous témoignent d’une belle amitié Précieuses sont les confidences échangées Qui persistent au cours d’une vie de cent ans.
|
DẶN LÒNG
Giữ yên nếp sống dịu hiền Gây chi sóng gió cho phiền lòng nhau Khi đời đã chẳng vào đâu, Trăm năm mua lấy chữ sầu ích chi !
|
SELF – RECOMMANDATION
Sans causer de peines à autrui, Mener une simple et douce vie Qui parfois n’a pas trop d’importance À quoi bon se donner des soucis ! |
TẠ TÌNH
Cảm lời ai nét ngọc vàng Tạ tình ai gấm thêu hàng tặng trao Duyên thơ đầm ấm ngọt ngào Khúc tri âm đó phổ vào đàn tâm.
|
GRATITUDE
Merci pour des perles incrustées dans les mots Pour du brocart voilé dans les vers si beaux Dictés par une alliance poétique sentimentale, Émanés des confidences sincères et amicales.
|
HÃY CHO NHAU
Một cơn gió nhẹ thoảng qua Dễ đưa ta dến lìa xa cõi đời Để kết thúc một kiếp người Mong manh như giọt sương rơi đầu cành
Thế mà cứ mãi quẩn quanh Ghét ghen, sân hận, tranh giành, hơn thua Đang là bạn, hóa ra thù, Đang thân thiết, bỗng thờ ơ lạnh lùng
Cùng trong cõi tạm sống chung Chơi vơi bể khổ, mênh mông đất trời
Hãy cho nhau những nụ cười Hãy cho nhau trọn tình người niềm vui Hãy cho nhau vị ngọt bùi Hãy cho nhau vạn ngàn lời yêu thương Tròn câu hiếu đạo cương thường.
|
DONATION
Un seul souffle de vent léger Nous transporte déjà à l’autre monde Marquant ainsi l’heure moribonde D ’une vie fragile comme une rosée
À quoi bon donc se donner des soucis Haine, colère, concurrence, jalousie ? Entre amis, pourquoi faire acte d ’hostilité Choisir l’indifférence au lieu de l’intimité ?
Dans cette auberge passagère qu’est la vie Entre ciel et terre, on souffre des maux infinis.
Donnons-nous volontiers des sourires Donnons-nous l’amour et les plaisirs Donnons-nous la tendresse et la douceur Donnons- nous des paroles de bon cœur Selon les principes moraux de toute heure.
|
ÉPILOGUE -
J’aime ces vers si profonds par leur simplicité Qui depuis toujours pénètrent bien notre cœur A travers la traduction j ’oserais les dédier À toutes les âmes sœurs d ’ici et d ’ailleurs.
( TTS )
LỜI BẠT
Thơ giản dị nên thơ càng sâu lắng Lời nhẹ nhàng dễ đi thẳng hồn người Xin tạm mượn qua đôi dòng chuyển ngữ Gửi đến ai chút vị ngọt cho đời.
( TTS )
POÈMES DE TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG TRADUITS PAR THÂN TRỌNG SƠN
|
TIẾNG VỌNG TRI ÂM ( Lettre de Bernard Uhoda )
Poèmes vietnamiens de TON NU HY KHUONG, traduits en français par THAN TRONG SON.
Cher Son, J’ai lu votre traduction des poèmes de TON NU HY KHUONG avec l’intérêt le plus vif, celui d’une double reconnaissance : j’ai été touché par l’attention de votre envoi et je retrouve bien dans vos textes l’esprit vietnamien que j’ai cru pouvoir approcher pendant cinq années. J’ai eu du plaisir à y retrouver un parfum de gravité mêlé à celui d’une « fraîche rose », ainsi qu’à la douceur d’une « allègre mélodie » (‘‘Ensemble dans la joie’’) et du « rivage du vieux temps » (‘‘Ensemble dans la tristesse’’). J’ai été séduit également par ces courtes invitations, détachées de toute pesanteur et attachées aux magies de l’instant et « d’une inconstance » (‘‘Évanescence’’). J’ai apprécié encore l’entremêlement de la joie et de la tristesse, dans lequel le profane que je suis reconnaît la philosophie du yin et du yang ainsi qu’un comble de sagesse : le partage de la tristesse et celui de la joie sont tous deux une joie supérieure (‘‘Ensemble’’). Outre l’évocation sensible de l’amour proprement dit, celui de la femme-Muse (‘‘Ensemble’’) comme celui de la Muse-femme (‘‘Il reste un amour sincère’’), j’ai aimé enfin cette recherche permanente de la concorde, du vivre-ensemble, « ce peu d’affection » qu’il nous faut à la fois préserver en nous et diffuser autour de nous (‘‘Tant qu’on se voit’’) ; cette recherche traverse la plupart des poèmes et le recueil lui-même comme les titres en témoignent (par exemple, ‘‘Entre nous’’, ‘‘Ensemble dans la joie’’, ‘‘Ensemble dans la tristesse’’, ‘‘Ensemble’’, ‘‘Tant qu’on se voit’’, ‘‘Amitié’’, ‘‘Gratitude’’). Au-delà de ce bonheur à vous lire, je sens aussi que vos textes stimulent une réflexion sur la langue et sur la poésie. Je conçois les difficultés de toute traduction, a fortiori de poésie, et qui plus est de poésie vietnamienne. Il me semble, pour autant que je puisse en parler et vous pardonnerez mes errements, que la langue vietnamienne plus qu’une autre est propice à la poésie en ce qu’elle laisse du jeu entre les mots. C’est bien le rôle du poète de s’y engouffrer ; il est le plongeur qui repêche les sens tombés entre les mots. Par ailleurs, la langue vietnamienne est plus concise que la langue française, elle n’en a pas le décorum analytique, par exemple ses articles, prépositions et affixes. Sa syntaxe au premier chef est différente. Si elle semble plus imprécise que la langue française, c’est sans doute qu’elle ressemble davantage à la vie. Tout entière inscrite en situation, elle sollicite davantage encore le contexte. Elle ambitionne l’adéquation d’un esprit à un moment, elle est précise dans l’instant. Je sens ce lien étroit avec la vie dans vos traductions et c’est pourquoi j’admire aussi leur effort de resserrement et de fluidité, dont j’imagine aisément qu’il garde aux textes originaux toute la force de leur impact. Contentement du cœur et réflexion sur la langue, oui, mais c’est encore une sagesse que vous éveillez en nous. Les poèmes et vos traductions ont indéniablement une portée éthique. La quête d’un équilibre entre la vie personnelle et la vie sociale y est sans cesse manifestée, de même que la poursuite d’un sens à cette vie, entre l’éphémère et le durable, les maux et les bonheurs, l’évanescent et le sensible, le moi et l’autre, « la recherche de la vérité et du mystérieux » (‘‘Tant qu’on se voit’’). La poésie dit de depuis des millénaires ce que la science découvre aujourd’hui : que le souci de l’autre, le besoin d’affection, la nécessité de la vie sociale pourraient bien être présents dans nos gènes, inscrits dans notre psycho-physiologie, imprimés comme un poème dans nos corps, que ceux-ci sont moins individuels qu’on le laisse trop souvent croire et, finalement, que la compassion est une intelligence animale et, partant, humaine. En tous coins et à tous vents, la poésie répète cela comme une respiration nécessaire. Dans ce genre littéraire, souplesse et puissance d’évocation vont de pair et j’ai l’impression que la poésie vietnamienne, par la nature de sa langue et celle de son esprit, y ajoute un supplément de suggestivité, tel que l’ont par exemple recherché les symbolistes belges et français en assouplissant précisément une syntaxe et une logique françaises par trop contraignantes, aux fins non pas d’exprimer des correspondances entre éléments éloignés mais bien, comme dans vos textes, de célébrer un réel complexe concentré en un point de la nature. Selon la poésie et pour peu qu’elle tende à l’explorer, la vérité n’est ni dans l’espace, ni dans le temps, elle est dans le mystère de l’esprit et l’ivresse du partage (‘‘Tant qu’on se voit’’). Le plaisir d’abord ressenti est ainsi augmenté, renouvelé d’un double prolongement, linguistique et philosophique. C’est ce que j’aime en poésie et c’est pourquoi j’aime la vôtre. Bien sûr, celle du poète TON NU HY KHUONG, mais la vôtre également, car seul un poète authentique peut traduire avec efficacité de la poésie, qu’il faut comprendre de l’intérieur. Je vous remercie du fond du cœur et j’ai encore du bonheur à rendre aux textes le dernier mot : « Un seul souffle de vent léger » (‘‘Donation’’) court-circuite le temps et le réel. Dans l’accomplissement perpétuel d’ « une durée toute brève » (‘‘La vie éphémère’’) comme dans l’intense moment d’ « une vie de cent ans » (‘‘Amitié’’), tout est double – duel et duo –, tout est incertitude et vérité, puisqu’il n’y a que l’amour et que, seul à compter, l’amour échappe à tout calcul : « Dans l’amour, on ne compte pas pertes et gains » (‘‘Dette d’amour’’).
Votre jeune frère en poésie,
Bernard Uhoda* ( BRUXELLES – 09.09.2004 )
* Professeur belge Conseiller pédagogique AUF / Antenne de HCM-Ville
Thư của Bernard Uhoda gởi Thân Trọng Sơn -------------------------------------------------------------- Anh Sơn thân mến, Tôi đọc bản dịch của anh (dịch thơ Tôn Nữ Hỷ Khương) thích thú vô cùng, thích thú vì 2 điều tâm đắc : Cảm động trước sự ân cần của anh và tìm thấy trong tuyển tập cái hồn Việt mà tôi tưởng đã có thể tiếp cận trong vòng 5 năm qua. Tôi vui mừng tìm lại được một hương thơm trang nhã lẫn với mùi hương của một “đóa hồng tươi” cũng như với sự nhẹ nhàng của một “ khúc nhạc vui ” (Ensemble dans la joie / Vui cùng nhau) và của “bến sông xưa” (Ensemble dans la tristesse / Buồn có nhau). Tôi cũng bị mê hoặc bởi những mời gọi ngắn ngủi, trút bỏ tất cả ràng buộc để gắn bó với những sự diệu kỳ của “cái khoảnh khắc “ và “cái biến thiên” (Évanescence”/ Lẽ vô thường). Tôi còn đánh giá cao sự hòa hợp giữa niềm vui và nỗi buồn, trong đó kẻ ngoại đạo là tôi đã nhận thức được triết lý âm dương cũng như đỉnh cao của trí tuệ: chia buồn với nhau và góp vui cùng nhau đều tạo nên một niềm vui lớn hơn (Ensemble / Bên nhau). Ngoài việc nhớ tới tình yêu với nghĩa hẹp của nó – “cái tình chân thật gởi người tri âm ’’ (Ensemble / Bên nhau), cũng như cái mối chân tình ràng buộc với Nàng Thơ (Il reste un amour sincère/ Còn mối chân tình), tôi còn yêu thích sự miệt mài - chắt chiu - tìm kiếm một sự hòa hợp, một cuộc –sống-cùng-nhau, ‘’một chút tình thương ấy” mà chúng ta cần phải vừa giữ lại trong ta, vừa ban phát ra khắp chung quanh ta (Tant qu’on se voit / Còn gặp nhau). Tôi bắt gặp sự kiếm tìm ấy qua hầu hết các bài thơ mà ngay tựa đề của tuyển tập cũng như tựa đề của từng bài cũng đủ minh chứng ( thí dụ Entre nous / Nói với nhau, Ensemble dans la joie/ Vui cùng nhau, Ensemble dans la tristesse / Buồn có nhau, Ensemble/ Bên nhau, Tant qu’on se voit / Còn gặp nhau, Amitié / Chút tình tri kỷ, Gratitude / Tạ tình…) Ngoài niềm vui được đọc thơ dịch của anh, tôi còn cảm thấy những bài dịch của anh đã khiến tôi suy nghĩ về ngôn ngữ và thơ ca. Tôi hiểu rằng việc dịch thuật ắt phải gặp nhiều khó khăn, huống chi dịch thơ, mà lại là thơ Việt. Trong chừng mực mà tôi có thể lạm bàn và nếu anh bỏ qua những sai lầm của tôi, thì, theo tôi, hình như tiếng Việt thích hợp với thơ ca hơn bất cứ một ngôn ngữ nào khác, nhờ sự biến hóa của ngôn từ. Vai trò của nhà thơ là ngụp lặn trong từ ngữ. Nhà thơ là người thợ lặn sẽ vớt cái ý nghĩa rớt rơi trong từ ngữ lên. Mặt khác, tiếng Việt súc tích hơn tiếng Pháp. Tiếng Việt không có nhiều những mẹo luật có tính phân tích của tiếng Pháp, chẳng hạn như mạo từ, giới từ và các từ tố. Trước tiên và trên hết, cú pháp tiếng Việt khác hẳn. Nếu nó có vẻ như không chính xác bằng tiếng Pháp, thì đó chẳng qua là vì nó giống với cuộc sống nhiều hơn. Ngôn ngữ tiếng Việt phản ánh đầy đủ một tình huống nhưng đòi hỏi phải tìm hiểu thêm qua ngữ cảnh. Nó tìm kiếm một sự hòa hợp toàn hảo và chính xác của tâm hồn ở một thời điểm nhất định. Tôi cảm nhận được mối liên hệ chặt chẽ với cuộc sống ấy trong các bài dịch của anh, do đó tôi cũng ngưỡng mộ mọi cố gắng làm cho bản dịch được cô đọng và lưu loát khiến cho tôi dễ dàng nghĩ rằng bản dịch đã hoàn toàn lột hết ý của bản gốc. Anh đã khơi gợi sự thỏa mãn của tâm hồn và sự suy tưởng về ngôn ngữ. Vâng, nhưng anh còn đánh thức nơi người đọc một sự khôn ngoan đúng mực nữa. Những bài thơ gốc và những bài dịch đều có khuynh hướng đạo đức, đó là điều không thể chối cãi. Trong tìm kiếm sự cân đối hài hòa giữa đời sống cá thể và đời sống xã hội, khuynh hướng đó không ngừng biểu lộ, giống như sự đeo đuổi một ý nghĩa cho cuộc đời nầy, giữa sự phù du và sự bền vững, giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa cái vô thường và cái cảm nhận được, giữa cái tôi và tha nhân, sự kiếm tìm chân lý và lẽ huyền vi (Tant qu’on se voit / Còn gặp nhau) v.v… Từ nhiều thiên niên kỷ trước, thơ ca đã nói đến cái mà ngày nay khoa học mới phát kiến : rằng sự lo lắng cho tha nhân, nhu cầu được yêu thương, sự cần thiết của đời sống xã hội đều có thể hiện hữu trong “gien” của chúng ta, lưu lại trong tâm sinh lý của chúng ta, khắc ghi như một bài thơ vào trong cơ thể chúng ta, rằng những cái ấy ít cá biệt hơn người ta vẫn tưởng, và cuối cùng, rằng lòng trắc ẩn là một sự thông minh của loài vật, và do đó cũng là của loài người. Ở khắp mọi nơi thơ ca đều nhắc đi nhắc lại điều đó như một hơi thở cần thiết. Trong thể loại văn học nầy, sự uyển chuyển và sức mạnh trong gợi tưởng luôn song hành với nhau và tôi có cảm tưởng rằng thơ ca Việt nam, do tính chất riêng biệt về ngôn ngữ và về tinh thần của nó, còn có một đặc tính phụ là tính gợi cảm, như các nhà thơ Bỉ và Pháp thuộc phái tượng trưng vẫn tìm kiếm để mong làm cho cú pháp và “lôgíc” (vốn rất bó buộc) được linh hoạt hơn, mục đích không phải là để diễn đạt được những tương ứng giữa những yếu tố cách xa nhau , mà là để ca tụng một hiện thực phức tạp cô đọng trong một vấn đề của bản chất, như thể hiện trong các bài dịch của anh. Tùy theo thơ ca và chỉ cần thơ có khát vọng vươn tới sự khám phá chân lý thì chân lý không ở trong không gian, cũng không ở trong thời gian. Chân lý ở trong sự huyền nhiệm của tinh thần và ở trong sự mê say được chia sẻ (Tant qu’on se voit/ Còn gặp nhau) Thế là sự thích thú tôi cảm thấy lúc ban đầu đã tăng lên, tươi mới hơn bởi một sự phát triển mang tính vừa ngôn ngữ vừa triết học. Đó là điều tôi thích trong thơ ca và cũng chính vì vậy mà tôi thích thơ anh. Tất nhiên là thơ của Nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, nhưng cũng là thích thơ anh luôn, bởi lẽ phải là thi sĩ đích thực thì mới có thể dịch thơ có hiệu quả, vì phải hiểu được cái ẩn chứa bên trong của bài thơ. Tôi cám ơn anh tận đáy lòng và xin phép được hoan hỉ nói thêm một lời : Một cơn gió nhẹ thoảng qua (Donation / Hãy cho nhau ) đã làm chập mạch thời gian và hiện thực. Trong sứ mệnh thực hiện không ngừng nghỉ một “khoảnh khắc ngắn ngủi ” ( La vie éphémère/ Phù sinh) cũng như một “khoảnh khắc đáng kể” trong “cuộc sống trăm năm” (Amitié / Chút lòng tri kỷ ), tất cả đều có tính “nhị phân”, tính kép - tương phản và tương đồng – tất cả đều thiếu xác thực và tất cả đều là chân lý, bởi vì chỉ có tình yêu là đáng kể, chỉ tình yêu mới vượt ra ngoài mọi toan tính : “Tình yêu ai tính thiệt hơn “ ( Dettes d’amour / Nợ tình )
Bạn thơ của anh, Bernard Uhoda * ( 09.09.2004 )
*Giáo sư Bỉ. Cố vấn sư phạm Hiệp Hội Đại Học Pháp ngữ TP Hồ CHÍ MINH
( Bản dịch của Thân Trọng Thủy )
|