Thân Trọng Sơn

 

VICTOR HUGO
( 1802 - 1885 )

 

“ Thi nhân là một thế giới giấu kín trong một con người “

( Le poète est un monde enfermé dans un homme )

 


 

Nhà thơ, nhà viết tiểu thuyết, nhà viết kịch.

 

Đúng ra phải kể thêm một “ nhà “ nữa, đó là nhà hoạt động chính trị. Và ở lĩnh vực nào, Ông cũng đạt những thành tựu đáng kể.

 

Victor- Marie Hugo sinh tại Besançon, miền Đông nước Pháp. Ông là con thứ ba, và là con út, của một vị tướng trong quân đội, mẹ là hoạ sĩ. Cha Ông gia nhập quân đội năm mười bốn tuổi, là người vô thần, ủng hộ nhiệt thành cho nền cộng hoà được thành lập sau khi chế độ quân chủ bị băi bỏ vào năm 1792. Mẹ ông là người Công giáo sùng đạo. Họ gặp nhau ở Chateaubriant vào năm 1796 và kết hôn vào năm sau đó.

 

Gia đ́nh Ông thường xuyên di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Mẹ Ông sinh được ba người con trong ṿng bốn năm.

 

Mệt mỏi v́ phải chuyển chỗ ở liên tục do cuộc sống trong quân ngũ của chồng, bà tạm thời tách khỏi chồng vào năm 1803 với các con trai.

 

Năm 1811, gia đ́nh Ông đến Tây Ban Nha, ông cùng các anh trai được gởi đến trường Real Colegio de San Antonio de Abad trong khi mẹ ông trở về Paris một ḿnh.

 

Thời gian đi học này, ngoài việc học tập, Victor Hugo dành hết thời gian c̣n lại để làm thơ và thử sức ḿnh với đủ các thể loại. Ông c̣n dịch thơ của các nhà thơ la tinh thời cổ như Horace, Virgile, Lucain, Martial. Năm 15 tuổi, cậu bé Hugo gởi một bài thơ dài 300 câu tham gia cuộc thi thơ do Viện Hàn Lâm Pháp tổ chức và được giải thưởng. Hai năm sau, cậu lại gởi nhiều bài dự thi đến Viện Hàn Lâm Toulouse và lại được giải thưởng. Tên tuổi nhà thơ bắt đầu lan rộng trong giới văn chương ở Paris.

 

Năm 1817, Hugo chuyển đến ở với mẹ và bắt đầu theo học trường luật. Ông bí mật đính hôn, trái với mong muốn của mẹ, với người bạn thời thơ ấu Adèle Foucher, và năm sau chính thức kết hôn. Năm 1819, ông cùng các anh trai bắt đầu xuất bản một tạp chí định kỳ có tên là Le Conservateur Littéraire.

 

Hai cuốn sách đầu tiên Ông xuất bản đều là tiểu thuyết ( 1823 và 1826 ). Từ 1829 đến 1840, Ông liên tiếp xuất bản năm tập thơ. Tập thơ đầu tiên của Ông ( Odes et Poésies diverses ) được xuất bản khi Ông mới 20 tuổi và nhận được tiền trợ cấp hoàng gia từ Louis XVIII. Những tập thơ liên tiếp được xuất bản sau đó cho thấy Victor Hugo là một nhà thơ lớn, có thiên bẩm về trữ t́nh.

 

Đời tư của ông có nhiều chuyện không vui. Ông kết hôn với Adèle Foucher, bạn thân từ thuở thiếu thời, vào tháng 10 năm 1822. Một số không ít bài thơ mà ông xuất bản từ 1822 đến 1835 đều được ông dành tặng người vợ. Từ năm 1830 đến năm 1837 Adèle có quan hệ t́nh cảm với Charles Augustin Sainte Beuve, một nhà phê b́nh và nhà văn.

 

Vào năm 1863, Adèle Foucher xuất bản tác phẩm “ Victor Hugo thuật lại từ một nhân chứng của đời ông “, đây là toàn bộ sưu tầm những kư ức riêng tư của chồng bà và những lời khai quư giá về cuộc đời của ông.

 

Bất chấp công việc riêng, Adèle và Hugo đă sống với nhau gần 46 năm cho đến khi bà qua đời tại Bruxelles vào ngày 27 tháng 8 năm 1868. Hugo lúc đó bị trục xuất khỏi Pháp nên không thể tham dự lễ tang của bà ở Villequier, nơi con gái ông Leopoldine được chôn cất.

 

Người con gái này được Victor Hugo yêu thương nhất.

 

Didi, Didine, là tên thân mật. Tên thật của con gái dài lắm, Léopoldine Cécile Marie-Pierre Catherine Hugo. Con gái thứ hai, nhưng v́ anh trai vắn số, chỉ thấy mặt trời được 5 tháng nên con gái thay làm trưởng, và, tất nhiên rồi, được cha cưng chiều lắm. Con gái thường quấn quít bên cha và lớn lên trong không khí gia đ́nh văn nghệ sĩ, với sự hiện diện thường xuyên của các nhà văn, nhà thơ như Théophile Gautier, Lamartine, Georges Sand, Balzac...

 

Con gái lớn nhanh, và biết yêu sớm. Mùa hè năm 1839, khi mới 14 tuổi, nhân dịp cùng cả nhà đến thăm người bạn của gia đ́nh, là chủ tàu buôn ở Le Havre, con gái gặp con trai chủ nhà, Charles Vacquerie, 21 tuổi, và cả hai cùng bị tiếng sét ái t́nh ngay lần đầu gặp gỡ này và muốn tiến xa.

 

Cha nghĩ là con gái c̣n nhỏ quá nên chưa tán thành việc hôn nhân. Cha không thích chàng trai kia lắm, cha thấy hắn có vẻ tẻ nhạt, hơi nhu nhược và nhất là chẳng có chút kiến thức văn chương, trong khi con gái thật thông minh, linh hoạt. Nhưng rồi cũng chỉ tŕ hoăn được 5 năm. Hôn lễ tổ chức tại nhà thờ Saint-Paul ngày 15 tháng 2 năm 1843, khi con gái được 19 tuổi.

 

Ngày hôm đó, ngay trong nhà thờ, cha viết cho con một bài thơ bày tỏ nỗi niềm " hạnh phúc đớn đau " khi giao con gái yêu quư của ḿnh cho người khác ( bonheur désolant de marier sa fille):

 

" Aime celui qui t’aime, et sois heureuse en lui !

Adieu !- sois son trésor, ô toi qui fus le nôtre !

Va, mon enfant chéri, d’une famille à l’autre.

Emporte le bonheur et laisse-nous l’ennui !
 

Ici, l’on te retient ; là- bas on te désire.

Fille, épouse, ange, enfant, fais ton double devoir.

Donne-nous un regret, donne lui un espoir.

Sors avec une larme ! entre avec un sourire !"


 

" Hăy yêu người yêu con, cùng sướng vui bên người ấy

- Tạm biệt - hăy là kho báu nhà người, nhé con, kho vàng bao ngày nhà ta,

Con gái yêu ơi, từ nhà này chuyển sang nhà kia,

Cứ đi, đem theo hạnh phúc, buồn lo hăy để lại nhà !
 

Nơi đây, muốn giữ con lại, ở kia, mong đón con về

Con thảo, vợ hiền, thiên thần, trẻ nhỏ, bổn phận đôi bên hăy lo tṛn,

Để lại nhung nhớ, mang tới ước mong,

Bước ra lệ tràn khoé mắt! Đi vào nụ cười trên môi! "
 

T́nh cảm quyến luyến, lời dặn ḍ tiễn con đi, tưởng đâu chỉ có ở người phụ nữ, như trong bài Ḷng mẹ của Nguyễn Bính:
 

Gái lớn ai không phải lấy chồng

Can ǵ mà khóc, nín đi không!

Nín đi, mặc áo ra chào họ

Rơ quư con tôi, các chị trông!
 

(...)
 

Đưa con ra đến cửa buồng thôi,

Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi!

Con ạ! đêm nay ḿnh mẹ khóc

Đêm đêm ḿnh mẹ lại đưa thoi.
 

Vậy mà, ở đây người cha cũng chẳng khác:

 

" Tôi buồn lắm, cái buồn sâu lắng, khác nào t́nh cảm của người trồng hoa khi khách qua đường ngắt đi đoá hoa của ḿnh. Lúc năy, tôi đă khóc..."

 

Bài thơ không có nhan đề, sau này in lại trong tập Contemplations ( Trầm tư ) chỉ ghi là " 12 février 1843 ".

 

V́ không có nhan đề nên đă có lúc, thoát khỏi hoàn cảnh xuất xứ của bài, có người đă giới thiệu nó như lời nhắn gởi cô dâu mới ( À une jeune mariée ) và mang ra đọc trong các tiệc cưới, có thể kèm theo bản dịch của Lăng Nhân Phùng Tất Đắc:
 

Đáp ḷng yêu tân lang,

Hạnh phúc cùng chia xẻ,

Con đến chốn người thương

Như ở đây ta quư.
 

Bước sang thềm nhà chồng

Con cho người hoan hỉ.

Ở nhà ta ra đi,

Ưu tư, con luống để.
 

Nhà ta giữ con lại,

Nhà người đứng trông chờ.

Đấy, làm con làm vợ,

Đây, thiên thần, trẻ thơ :

Con ơi, nhớ bổn phận,

Đôi vai chớ hững hờ ...
 

Cho ta chút luyến tiếc,

Cho người một ước mong.

Rời đây tuôn giọt lệ,

Sang đó nở môi hồng ...

(Gửi Cô Dâu Mới, bản dịch của Lăng Nhân Phùng Tất Đắc – 1907- )
 

Rồi cha vẫn tiếp tục sự nghiệp văn chương của ḿnh, c̣n con gái cùng chồng về xứ. Mọi việc sẽ êm xuôi nếu không có cái ngày 4 tháng 9 định mệnh đó.
 

Ngày 4 tháng 9 năm 1843.

 

Sáng sớm, Charles Vacquerie chuẩn bị đi gặp luật sư để hỏi về thủ tục thừa kế. Nơi đến cách nhà vài cây số, ven sông Seine. Cùng đi là ông chú, Pierre Vacquerie, và con trai của chú. Léopoldine không tháp tùng v́ chuẩn bị chưa xong. Cả ba khởi hành trên chiếc thuyền buồm ông chú mới tậu, hẹn sẽ về kịp bữa ăn trưa. Một lát sau, thuyền quay trở lại để trang bị thêm tải trọng dằn cho vững hơn. Léopoldine lúc này đă sẵn sàng ngỏ ư muốn đi cùng. ( Ôi! Định mệnh trớ trêu! )

 

Sau khi đến nơi, làm việc xong, vị luật sư đề nghị mọi người trở về bằng xe ngựa v́ trời lặng gió, thuyền buồm di chuyển chậm, sẽ về rất trễ. Tuy nhiên đoàn khách không chịu và vẫn đi thuyền về.

 

Chú Pierre, cựu thuỷ thủ, cầm lái điều khiển con thuyền êm ả lướt về. Đến khúc sông giữa hai ngọn đồi, một cơn lốc mạnh bất ngờ đập trên cánh buồm khiến con thuyền lật úp. Hai cha con người chú bị cuốn trôi. Dân trên bờ bên kia thấy có người nhô lên ngụp xuống nơi chiếc thuyền, cứ tưởng là tṛ đùa nghịch, nào hay đó là những nỗ lực của anh chồng muốn nắm lấy tay vợ kéo lên v́ quần áo Léoploldine vướng vào đáy thuyền cột chặt lấy cô. Tuy biết bơi rất giỏi, anh vẫn không thể cứu được vợ và đành chấp nhận buông xuôi để ḍng nước cuốn theo.

 

Léopoldine lúc này mới 19 tuổi và lấy chồng chưa đầy 7 tháng.

 

Khi con gái gặp nạn, cha đang cùng nhân t́nh ( Juliette Drouet ) du lịch tận miền Nam, và năm ngày sau, lúc đọc báo mới biết được tin dữ. Cha trở về Paris th́ con gái đă yên nghỉ tại nghĩa trang Villequier, trong cùng huyệt mộ với chồng. Ba năm sau, cha mới có dịp về thăm mộ con gái, nh́n tấm bia khắc tên đôi vợ chồng trẻ, ngày cưới và ngày mất.

 

Suốt nhiều năm sau khi con gái bị nạn, cha không công bố thêm tác phẩm nào. Năm 1845, cha bắt đầu đi vào chính trị. Năm 1848, ông được bầu làm nghị sĩ hội đồng lập hiến. Ông lên án cuộc đảo chính ngày 2 tháng 12 năm 1851 của hoàng tử Louis-Napoléon (cháu của Napoléon Bonaparte). Ngay lập tức, Ông bị buộc đi đày ở Bỉ, sau đó là đảo Jersey và Guernesey.

 

Măi đến 1853 cha mới cho ra đời tập thơ: "les Châtiments", và sau đó "les Contemplations" (1856) và tiểu thuyết "les Misérables" (1862) .
 

Cha dành cuốn số 4 ( 17 bài ) trong sáu cuốn của tập thơ "les Contemplations" để viết về con gái, kỷ niệm ấu thơ, chiêm nghiệm về t́nh yêu, lẽ sống và cơi chết. Bài thơ viết trong nhà thờ ngày con gái vu quy nói trên ( 12 Février 1843 ) được in kèm với bài "4 Septembre 1843" là trang giấy trắng, với một ḍng gồm những dấu chấm lửng.
 

Cũng trong tập này, có bài thơ không tên, thường được nhắc tới với mấy chữ đầu tiên là Demain, dès l'aube:
 

Demain, dès l'aube, à l'heure où blanchit la campagne,

Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m'attends.

J'irai par la forêt, j'irai par la montagne.

Je ne puis demeurer loin de toi plus longtemps.
 

Je marcherai les yeux fixés sur mes pensées,

Sans rien voir au dehors, sans entendre aucun bruit,

Seul, inconnu, le dos courbé, les mains croisées,

Triste, et le jour pour moi sera comme la nuit.
 

Je ne regarderai ni l'or du soir qui tombe,

Ni les voiles au loin descendant vers Harfleur,

Et quand j'arriverai, je mettrai sur ta tombe

Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.
 

 

Ngày mai, ngay lúc rạng đông, khi vùng quê bừng sáng,

Cha sẽ lên đường. Con thấy không, cha biết con đang chờ đợi cha

Cha sẽ đi qua rừng, cha sẽ đi qua núi.

Cha không thể nào ở xa con lâu hơn nữa.

 

Cha sẽ bước đi, mắt ch́m sâu trong suy tưởng

Không nh́n quanh, chẳng nghe động tĩnh chi,

Cô đơn, lạc lơng, lưng kḥm, tay chắp,

Sầu đau, với cha ngày cũng sẽ như đêm.

 

Cha sẽ không ngắm ánh chiều vàng đang xuống,

Cũng không nh́n những cánh buồm xa thẳm hướng Harfleur,

Và khi tới, cha sẽ đặt trên mộ con

Chùm ô rô xanh lá và thạch thảo trổ hoa.

 

( Dịch sang tiếng Việt nên je - tu phải viết ngay là cha - con. Đọc nguyên bản tiếng Pháp, với những câu như " je sais que tu m'attends ", " Je ne puis demeurer loin de toi plus longtemps " ..., cho đến hết câu thứ 10, người đọc dễ cảm nhận đây là cuộc hẹn ḥ của đôi t́nh nhân.

 

Đến hai câu cuối

 

Et quand j'arriverai, je mettrai sur ta tombe

Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.

 

th́ mới bàng hoàng v́ cuộc hẹn ḥ đặc biệt này. )
 

Con gái yêu thương Léopoldine, Didine, Didi, mười chín mùa xuân, là một nốt nhạc buồn trong cuộc đời lắm vinh quang mà đầy sóng gió của người cha Victor Hugo, đại văn hào nước Pháp.

 

Ông c̣n mô tả đau buồn của ḿnh trong bài thơ À Villequier:
 

Hélas! vers le passé tournant un œil d’envie,

Sans que rien ici-bas puisse m’en consoler,

Je regarde toujours ce moment de ma vie

̉u je l’ai vue ouvrir son aile et s’envoler!
 

Je verrai cet instant jusqu’à ce que je meure,

L’instant, pleurs superflus!

̉u je criai: L’enfant que j’avais tout à l’heure,

Quoi donc ! je ne l’ai plus!

 

 

Than ôi! Con mắt tôi ghen tị, hướng về quá khứ,

Mà không có ǵ an ủi được tôi,

Tôi măi nh́n khoảnh khắc đó của đời ḿnh,

Lúc tôi c̣n thấy cháu dang rộng đôi cánh và bay đi!
 

Tôi sẽ thấy măi phút giây đó đến khi tôi đi

Khoảnh khắc đó, nước mắt có ích chi!

Lúc tôi gào: “ Đứa bé mà tôi c̣n mới đây thôi,

Ôi chao! Tôi không c̣n con nữa rồi!"
 

Hugo trở thành đầu tàu của phong trào văn học lăng mạn, ngay cả với các vở kịch mà phần lớn đều được sáng tác tập trung xung quanh những năm 1830: Cromwell ( 1827 ), Hernani ( 1930 ). Marion Delorme ( 1831 ), Lucrèce Borgia ( 1833 ), Ruy Blas ( 1838 ) .

 

Hernani được biểu diễn tại Comédie - Française và được chào đón bằng nhiều buổi tŕnh diễn khác. Sự nổi tiếng của Victor Hugo với tư cách là một nhà viết kịch.

 

Cromwell được xuất bản kèm theo một bài tựa rất dài, có ư nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó được đánh giá như bản tuyên ngôn của chủ nghĩa lăng mạn.

 

Vở này nói về lănh tụ cách mạng Anh Cromwell, là một vở quá dài không thể diễn được ( 6500 câu thơ với 61 nhân vật có tên, hàng trăm nhân vật chỉ định bằng chức vụ, ngoài ra c̣n đông đảo quần chúng. Nếu muốn diễn phải mất 12 tiếng đồng hồ ). Dường như Hugo cố ư làm như vậy để phá vỡ khuôn khổ chật hẹp của chủ nghĩa cổ điển.

 

Vở thứ hai Marie Delorme, viết sau Cromwell hai năm. Hành động kịch diễn ra vào năm 1638, dưới triều Louis XIII và tể tướng Richelieu. Vở này bị kiểm duyệt không được diễn v́ nó gây bất lợi cho chế độ quân chủ lúc đó đang suy yếu.

 

Do đó vở kịch đầu tiên của Victor Hugo được ra mắt công chúng là Hernani và thành công rực rỡ như đă nói. 

 

Đến vở Ruy Blas (1838) Hugo lại trở về với đề tài Tây Ban Nha. Đây là tác phẩm kịch xuất sắc nhất của Hugo.

 

Các vở kịch của Hugo đều phản ánh thái độ của Hugo đối với chế độ quân chủ của Louis Philippe. Nói chung, kịch của ông đều có ư nghĩa chính trị tiến bộ.

 

Ngoài thể loại kịch, Ông c̣n viết tiểu thuyết. Trong lĩnh vực này, Hugo trở thành một tác giả gần gũi và được yêu quư, không chỉ ở Việt Nam. Cuốn Notre Dame de Paris được xuất bản năm 1831 và được dịch ra các thứ tiếng khác ở khắp châu Âu. Sau đó Hugo bắt đầu lên kế hoạch một cuốn tiểu thuyết lớn về sự khốn cùng và bất công của xă hội ngay từ những năm 1830, nhưng phải mất 17 năm nữa để cho cuốn Les Misérables hoàn thiện rồi mới xuất bản vào năm 1862. Les Misérables được nhiều người dịch, đầu tiên là Nguyễn Văn Vĩnh, ông dịch là " Những kẻ khốn nạn ". Về sau, bản dịch của nhóm Lê Quư Đôn ( Những người khốn khổ ) được đánh giá cao hơn. Les Misérables vừa có giá trị như cuốn tiểu thuyết lịch sử, vừa là bản anh hùng ca nhân dân, đồng thời là một cuốn tiểu thuyết luận đề.

 

Trước khi nói đến sự nghiệp văn chương của Ông, tưởng cũng cần nhắc qua những hoạt động chính trị. Năm 1948, Ông được bầu làm nghị sĩ hội đồng lập hiến, với tư cách là một người theo phe bảo thủ. Năm 1849, ông đoạn tuyệt với phe bảo thủ khi có bài phát biểu nổi tiếng kêu gọi chấm dứt sự khốn khổ và nghèo đói. Các bài phát biểu khác đă kêu gọi phổ thông đầu phiếu và giáo dục miễn phí cho trẻ em. Ông lên án cuộc đảo chính ngày 2/12/1851 của hoàng tử Louis-Napoléon ( cháu của Napoléon Bonaparte ). Ông tỏ rơ khí phách kiên cường bảo vệ chế độ Cộng hoà và dũng cảm chấp nhận cuộc sống lưu đày (ở Bỉ, sau đó là đảo Jersey và Guernesay ( Anh ). Trong thời gian này Ông vẫn sáng tác. Tác phẩm mở đầu cho những kiệt tác của Hugo giai đoạn này là một tập thơ lớn: Les Châtiments ( Trừng phạt ) dài đến 7000 câu, xuất bản năm 1853 ở Bruxelles.

 

Năm 1870, Ông trở về Pháp. Ngày 8/2/1871, Ông được bầu vào Quốc hội Pháp. 1876, được bầu làm Thượng nghị sĩ.

 

Vừa là nhà thơ, nhà viết kịch, nhà văn viết tiểu thuyết, nhưng thơ mới là sự nghiệp suốt đời của Victor Hugo. Thực vậy, những vở kịch của Ông chỉ xuất hiện dồn dập trong ṿng mười năm, thời kỳ Ông c̣n trẻ. Những bộ tiểu thuyết lớn hầu hết lại tập trung vào khoảng mấy chục năm cuối đời. Trong khi đó th́ thơ của Ông rải đều suốt 70 năm của sự nghiệp sáng tác: từ 1822 đến 1881. Thơ của Victor Hugo ghi lại đầy đủ những diễn biến phức tạp trong tâm tư của nhà thơ trong suốt chặng đường dài chuyển biến “ từ bóng tối đến ánh sáng “. Về sau có lần để trả lời một người tỏ ư trách ông đi ngược lại những quan điểm thời trẻ, Hugo đă sáng tác bài thơ Écrit en 1886, trong đó có câu:

 

… Est-ce ma faute, à moi, si l’azur éternel

Est plus grand et plus beau qu’un plafond de Versailles.

 

Lỗi đâu phải ở tôi, nếu bầu trời vô tận

Rộng răi và xanh hơn khoảng trần cung điện Versailles.

 

Hugo có ư thức sử dụng ng̣i bút như một thứ vũ khí để phục vụ nhân dân:
 

Oh! La muse se doit aux peuples sans défense

J’oublie alors l’amour, la famille, l’enfance,

Et les molles chansons, et le loisir serein,

Et j’ajoute à ma lyre une corde d’airain!

( Amis, un dernier mot )
 

Ôi! Thơ phải đền đáp nhân dân không bảo vệ

V́ thế tôi quên đi t́nh yêu, gia đ́nh, tuổi trẻ,

Những bài ca lả lướt, cảnh an nhàn thảnh thơi,

Tôi thêm vào đàn lyre của tôi một sợi dây đồng.
 

Thơ của Hugo ghi lại đầy đủ những diễn biến phức tạp trong tâm tư nhà thơ trên suốt chặng đường dài. Trước khi bước vào thế kỷ XIX, thơ ca Pháp trải qua một thời gian dài tŕ trệ. Thế kỷ của Voltaire hầu như là một thế kỷ không có “ nhà thơ “ tuy rằng có không ít tác giả sáng tác bằng văn vần. Thơ ca chỉ được xem là một đồ trang sức của lư trí, do đẽo gọt khéo léo mà nên. Các nhà thơ lăng mạn đă thực sự tiến hành một cuộc cách mạng trong thơ ca, kéo thơ ca ra khỏi t́nh trạng bế tắc. Thơ phải là tiếng nói phát ra từ tâm hồn và trái tim, chứ không phải là những kỹ xảo khô khan, lạnh lùng. Ngôn ngữ cũng như biển cả, nó luôn luôn xao động. Ngày ngôn ngữ dừng lại là ngày nó chết.

 

Là nhà thơ lăng mạn, Victor Hugo lại có những nét đặc biệt khác với các nhà thơ lăng mạn khác. Hugo tiếp tục nêu vấn đề cách tân ngôn ngữ thơ ca một cách hết sức quyết liệt. Ông nói đến việc phá vỡ khuôn khổ cứng nhắc của câu thơ 12 âm tiết alexandrin, xoá bỏ t́nh trạng bất b́nh đẳng giữa các từ, đưa chất văn xuôi vào thơ, sử dụng trong thơ bất cứ một từ nào trong giao dịch hàng ngày. Ông quan niệm việc làm đó như một hành động cách mạng thực sự:

 

Je fis souffler un vent révolutionnaire

Je mis un bonnet rouge au vieux dictionnaire,

Plus de mot sénateur! Plus de mot roturier!

Je fis une tempête au fond de l’encrier,

Et je mêlai, parmi les ombres débordées,

Au peuple noir des mots l’essaim blanc des idées…

( Réponse à un acte d’accusation).

 

Tôi dấy lên trận cuồng phong cách mạng

Tôi đội mũ đỏ cho cuốn từ điển xưa,

Chẳng c̣n từ nguyên lăo, chẳng c̣n từ dân

Dưới đáy lọ mực, tôi gây băo nổi, sóng cồn,

Và tôi trộn lẫn, giữa bóng đêm bị ngập tràn

Lũ từ đen với hàng đàn ư trắng.

( Trả lời một bản cáo trạng ).
 

Hugo rất quan tâm đến mối liên hệ giữa thơ ca và cuộc sống. Ông bác bỏ mọi thứ h́nh thức chủ nghĩa. Về phương diện này, tập thơ Les Orientales (1829) chiếm một vị trí đặc biệt. Tập này bao gồm những bài sáng tác từ năm 1825 đến năm 1828, ông dành ba mươi trong số bốn mươi mốt bài cho đề tài Hy lạp. Năm 1821, nhân dân Hy lạp vùng lên chống quân xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ. Cuộc đấu tranh yêu nước ấy có sức hấp dẫn lớn lao đối với nhiều văn nghệ sĩ lăng mạn. Hy lạp đi vào thơ của Byron, vào tranh của Delacroix…

 

Tính chất lăng mạn của Les Orientales ( Những bài thơ phương Đông ) c̣n thể hiện rơ ở h́nh thức nghệ thuật. Đó là những bài thơ tự do, nhẹ nhàng uyển chuyển, giàu âm điệu. Cách ngắt đoạn câu thơ được thay đổi linh hoạt, tạo nên những tiết tấu, âm điệu mới mẻ, có nhạc tính cao.

 

Bốn tập thơ xuất bản dưới chế độ quân chủ của Louis Phillipe ( Les feuilles d’automne, Le chant du crépuscule, Les voix intérieures, Les rayons et les ombres phản ánh t́nh trạng ngập ngừng, dao động trong tư tưởng của tác giả. Phần lớn những bài trong các tập ấy đều xoay quanh những đề tài nhỏ hẹp của cuộc sống riêng tư hoặc những vấn đề muôn thuở như t́nh yêu, t́nh đồng loại, suy tưởng về sự sống, cái chết. Hiếm thấy bài như bài Rêverie d’un passant à propos d’un roi ( trong tập Les feuilles d’automne )  gợi lên sức mạnh của nhân dân như triều dâng thác đổ một ngày kia sẽ cuốn phăng các vị vua chúa:

 

Écoutez! écoutez, à l’horizon immense,

Ce bruit qui parfois tombe et soudain recommence

Ce murmure confus, ce sourd frémissement 

Qui roule, et qui s’accroît de moment en moment. 

C’est le peuple qui vient! c’est la haute marée.

 

Lắng nghe! Hăy lắng nghe, mênh mông ngoài biển cả,

Văng vẳng âm thanh khi mờ khi tỏ

Tiếng ŕ rầm rất khẽ, phảng phất mơ hồ,

Nó lan rộng và càng nghe càng rơ,

Nhân dân tới, thuỷ triều dâng lên đó…

( Mơ mộng của khách qua đường về một ông vua ).

 

Cách mạng tháng Hai, cuộc khởi nghĩa tháng Sáu năm 1848, sự thành lập nền Cộng hoà II và cuộc đảo chính của Bonaparte sau đó mấy năm, khí phách kiên cường của Hugo bảo vệ chế độ Cộng hoà và cuộc sống lưu vong dũng cảm, tất cả sự kiện ấy đă thức tỉnh ng̣i bút chiến đấu của Victor Hugo. Giai đoạn sáng tác phong phú nhất, có nhiều tác phẩm giá trị nhất của ông trùng với thời gian ông sống lưu vong xa tổ quốc.

 

Tác phẩm mở đầu giai đoạn này là tập thơ Les Châtiments ( Trừng phạt ), xuất bản năm 1853 tại Bruxelles. Trong ṿng nửa năm sống xa tổ quốc, ông sáng tác bảy ngàn câu thơ của tập Trừng phạt, thật là phi thường.

 

Trừng phạt sử dụng thứ vũ khí vừa trào lộng mỉa mai, vừa đả kích dữ dội. Đối tượng chính của tập thơ là Louis Bonaparte, lúc đó đang chễm chệ trên ngai hoàng đế với danh hiệu Napoléon III. Dưới ng̣i bút của Hugo, đó là một “ tên trộm “, nửa đêm từ xó bếp chui ra, một “ kẻ cướp khát máu “ giấu dao găm sau lưng lẻn đến bên nền Cộng hoà khi nền Cộng hoà c̣n đang ngủ. Có lúc, nhà thơ trực tiếp trút nỗi căm hờn ra đầu ngọn bút, trong bài Cette nuit-là, ông viết:

 

Rien qu’en songeant à vous mon vers indignés sort

Et mon cœur orageux dans ma poitrine gronde.

Comme le chêne au vent dans la forêt profonde!

 

Chỉ nghe tên ngươi, lời thơ ta hầm hầm tức tối

Trong lồng ngực, trái tim ta điên cuồng la lớn

Như cây sồi trước gió trong rừng sâu

( Đêm ấy ).

 

Trong một số bài khác, Hugo đă vươn đến tầm khái quát xă hội rộng lớn, phân biệt hai nước Pháp, nước Pháp của nhân dân lao động, và nước Pháp của bọn quyền cao chức trọng. Bài thơ Joyeuse vie đưa ta đến trước một quang cảnh trái ngược làm ta rớt nước mắt. Một bên là nỗi cơ cực của người nghèo mà tác giả đă chứng kiến trong những căn nhà tối tăm, ẩm ướt ở thành phố Lille. C̣n bên kia là bọn quyền quư, ch́m đắm trong cảnh ăn chơi truỵ lạc:

 

Vendez l’état! Coupez les bois! Coupez les bourses!

Videz les rėservoirs et tarissez les sources!

Les temps sont arrivés,

Prenez le dernier sou! prenez, gais et faciles, 

Aux travailleurs des champs, aux travailleurs des villes !

Prenez, riez, vivez !
 

Cứ bán nước, cứ chặt rừng, cắt túi!

Vét cạn khô, hút cho cạn nguồn khô suối!

Thời cơ này đă đến rồi 

Đừng để một xu! Lấy hết đi, dễ dàng, vui thú,

Của nông dân ngoài đồng, của thợ thuyền giữa phố

Lấy đi, cười lên đi, tận hưởng đi!

( Đời vui ).
 

Đó không phải chỉ là nỗi căm giận của cá nhân nhà thơ, ông đă nói lên tâm trạng của cả một thế hệ.  

 

Nhà thơ cũng thường nhắc đến Tổ quốc một cách da diết.

 

Bài Ultima verba ( Lời cuối ), giống như một bản tuyên ngôn, tác giả lên tiếng rơ ràng, dứt khoát:

 

Si l’on n’est plus que mille, eh bien, j’en suis! Si même

Ils ne sont plus que cent, je brave encor Sylla

S’il en demeure dix, je serai le dixième,

Et s’il n’en reste qu’un, je serai celui-là!
 

Nếu c̣n lại một ngh́n thôi, tôi ở trong số đó!

Nếu c̣n lại một trăm, tôi vẫn chống địch, không rời,

Nếu c̣n lại có mười người, tôi là người cuối sổ,

Và nếu c̣n lại một người đứng đó, ấy là tôi!

 

Hugo viết Trừng phạt trong hoàn cảnh bản thân ông đang trải qua những thử thách ác liệt, tuy vậy ước mơ lăng mạn của nhà thơ vẫn thấm qua toàn bộ tác phẩm. Tập thơ mở đầu với bài Nox ( Đêm tối ) và kết thúc với bài Lux ( Ánh sáng ). Trong bài kết thúc, ông mơ ước đến một tương lai xán lạn, thế giới đại đồng, không có biên giới giữa các quốc gia, không có giá treo cổ, không có những cảnh tù đày khổ sai, không có các đạo quân tàn bạo.

 

Où donc est l’échafaud? ce monstre a disparu.

Tout renaît. Le bonheur de chacun est accru

De la félicité des nations entières.

Plus de soldats l’épée au poing, plus de frontières.

Plus de fisc, plus de glaive ayant forme de croix.

 

Sau Les Châtiments, Hugo c̣n xuất bản nhiều tập thơ nổi tiếng nữa. Tuy phong cách mỗi tập một khác nhưng tác giả vẫn không đi chệch con đường gắn bó thơ ca với đời sống xă hội. Tập thơ Les contemplations ( Mặc tưởng ) xuất bản năm 1856 là tác phẩm trữ t́nh lớn nhất của Hugo thời kỳ sống lưu vong.

 

Tập La légende des siècles ( Truyền kỳ các thời đại ) là một bức tranh lớn miêu tả quá tŕnh vươn lên không ngừng của nhân loại từ thời nguyên thuỷ, qua các thời đại lịch sử cho đến nay.

 

Mối quan hệ giữa thơ ca và cuộc sống lại có dịp được thể hiện sâu sắc trong L’année terrible ( Năm khủng khiếp ), tập thơ lớn cuối cùng của Hugo xuất bản năm 1872. Có thể nói đây là cuốn nhật kư bằng thơ ghi chép những cảm xúc nảy sinh trong năm 1870-1871, năm xảy ra cuộc chiến tranh Pháp Phổ. Tập thơ phản ánh một trong những sự kiện lớn trong lịch sử nước Pháp. Ư chí kiên cường của các chiến sĩ Công xă chinh phục được thiện cảm và ḷng khâm phục của nhà thơ.

 

Bài thơ Sur une barricade ( Trên chiến lũy ) kể chuyện một em bé mười hai tuổi rơi vào tay quân chính phủ tư sản sau khi Công xă thất bại. Cuộc tàn sát đẫm máu xảy ra:

 

Attends ton tour, L’enfant voir des éclairs briller,

Et tous ses compagnons tomber sous la muraille

Il dit à l’officier : Permettez- vous que j’aille

Rapporter cette montre à ma mère chez nous ?
 

Em thấy kia, ánh chớp loé người,

Các chiến hữu dưới chân tường ngă gục,

Em bỗng nói: Cho tôi đi một lúc

Mang chiếc đồng hồ về cho mẹ tôi.

 

Bọn lính tưởng em run sợ, định chuồn, chúng “tha” cho em đi rồi cười ngặt nghẽo với nhau, nhưng

 

Mais le rire cessa, car soudain l’enfant pâle,

Brusquement reparu, fier comme Viola,

Vint s’adosser au mur et leur dit: Me voilà.

 

Trận cười dứt, v́ chú bé mặt mày xanh mét

Vụt hiện ra, như Viola kiêu hănh tràn đầy

Đến tựa vào tường, em nói : Tôi đây.

 

Victor Hugo đă để lại một sự nghiệp thơ ca đồ sộ, gồm gần một trăm năm mươi tư ngàn câu. Yếu tố quan trọng bậc nhất tạo nên giá trị bền vững của thơ Hugo là mối quan hệ giữa thơ ca và cuộc sống xă hội, chính trị.

 

Trong hàng ngàn bài thơ của Victor Hugo, thử đọc lại vài bài.
 

ĐÊM ĐẠI DƯƠNG

( OCEANO NOX )
 

Ôi ! Biết bao thuỷ thủ, bao thuyền trưởng

Ḷng rộn ràng khi cất bước lữ hành!

Rồi chôn vùi nơi chân trời u tối

Bao người đă mất, số phận ác tàn

Biển sâu mịt mùng, đêm tối không trăng,

Măi măi vùi thân dưới đáy đại dương!
 

Biết bao chỉ huy chết cùng đồng đội

Cơn cuồng phong cuốn hết những trang đời

Trong thoáng chốc tan biến giữa biển khơi

Nào ai biết phận người ch́m vực thẳm.

Vồ một con mồi qua từng đợt sóng

Hết lính thuỷ đến mảnh thuyền dạt trôi.
 

Nào ai hay, hỡi những người xấu số,

Thân bồng bềnh giữa khoảng rộng tối tăm

Trán lạnh va đập vào tảng đá ngầm.

Thương cha mẹ vẫn c̣n nuôi hy vọng

Đă qua đời, sau bao ngày trông ngóng,

Các anh đi chẳng thấy hẹn ngày về.
 

Có những đêm, trên đống neo rỉ sét

Vui quây quần, họ thường nhắc đến anh,

Tên tuổi anh vương vít một thời gian

Với tiếng cười, khúc hát, chuyện phiêu lưu

Với cái hôn lén trao người anh yêu,

Các anh giờ yên nghỉ với rong rêu.
 

Người ta hỏi “ Anh giờ đâu rồi nhỉ?

Vua đảo nào? Hay đến chốn giàu sang?”

Rồi kỷ niệm về anh bị vùi chôn

Thân dưới nước, và tên trong kư ức.

Thời gian qua, tô thêm đậm bóng đen

Trên biển tối phủ tối niềm lăng quên.
 

Rồi bóng anh tan biến trước mắt người,

Kẻ buông chài, người cày cấy, vậy thôi.

Chỉ những đêm khi giông băo ngập trời,

Vầng trán bạc, mỏi ṃn, người sương phụ

C̣n nhắc đến anh khi khơi đống tro tàn

Nơi bếp lửa, trong cơi ḷng nát tan.

 

Khi mắt khép rồi trong nấm mộ xanh

Hỏi c̣n ǵ vang vọng những tên xưa?

Chẳng phiến đá nơi nghĩa trang chật chội

Chẳng liễu xanh rụng lá lúc sang thu 

Không cả điệu hát hồn nhiên, đơn điệu 

Của người hành khất nơi góc cầu xưa.
 

Họ đâu rồi? Những người ch́m trong tối?

Hỡi sóng kia, mang bao chuyện đau ḷng,

Sóng sâu thẳm, bà mẹ quỳ khiếp đảm, 

Lúc triều dâng, sóng mang kể cùng nhau,

Nào khác ǵ những thanh âm tuyệt vọng

Khi kéo đến cùng ta lúc đêm thâu.
 

*********
 

Trích từ tập “ Tia sáng và bóng tối “ ( les Rayons et les Ombres ) , đây là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Victor Hugo. Tác giả sáng tác bài này tại Saint-Valéry-sur-Somme khi ông cùng gia đ́nh về nghỉ dưỡng tại khu du lịch này năm 1837.

 

Nhan đề bài thơ trong nguyên bản là Oceano Nox, tiếng la tinh, có nghĩa là Nuit sur l’océan. ĐÊM ĐẠI DƯƠNG.

 

Đêm đại dương muôn đời vẫn thế: Đêm mịt mù và đại dương mênh mông. Mà lại là biển không đáy và đêm không trăng. ( Dans une mer sans fond, par une nuit sans lune ). Nên những người lính thuỷ với tâm thế hân hoan, trước cuộc viễn du với nhiều hăm hở, trong thoáng chốc bị sóng cả dập vùi, “ cơn cuồng phong cuốn hết những trang đời “, “ nào ai biết phận người ch́m vực thẳm “, đời lính thuỷ chỉ là cuốn sách mỏng, bị băo tố xé nát từng trang, niềm vui th́ ngắn mà cái chết quá thảm thương! 

 

Bài thơ mở đầu bằng tiếng kêu thương ( Oh! ) và một loạt những điệp từ, câu cảm thán ( Combien, combien de... ), khắc hoạ nên cảnh t́nh bi thảm, giữa đại dương bao la vô tận, con người quá yếu đuối, nhỏ nhoi. Đắm tàu trong băo tố, cái chết quá đau xót ngậm ngùi, nhất là cho những người ở lại, vẫn ngày ngày chờ đợi ngóng trông. Cha mẹ họ ban đầu c̣n hy vọng, mà người đi có trở lại bao giờ, rồi mỏi ṃn khắc khoải trên băi trên bờ, rốt cuộc cũng theo nhau khuất núi.

 

( Oh ! que de vieux parents, qui n’avaient plus qu’un rêve, 

Sont morts en attendant tous les jours sur la grève 

Ceux qui ne sont pas revenus! )
 

Mỗi tối đến, trong những mái nhà êm ấm, cũng có người nhắc đến các anh, cũng gợi lại qua tiếng cười, khúc hát, qua nụ hôn trộm lén trao người anh từng hẹn ước, qua những chuyện phiêu lưu họ kể cho nhau nghe.

 

Măi vẫn không thấy anh trở về. Cũng có người băn khoăn tự hỏi: hay các anh đă trở thành vua hải đảo? hay là bỏ quê hương t́m chỗ giàu sang?

 

Thế nhưng có ai dừng được ḍng chảy thời gian? Sẽ đến lúc chẳng ai c̣n nhớ nữa, kỷ niệm về anh sẽ bị vùi chôn, thân trong nước và tên trong kư ức. Thời gian qua, tô thêm đậm bóng đen, trên biển tối phủ tối niềm lăng quên.

 

( Puis votre souvenir même est enseveli.

Le corps se perd dans l’eau, le nom dans la mémoire.

Le temps, qui sur toute ombre en verse une plus noire,

Sur le sombre océan jette le sombre oubli.)
 

Biết làm sao được? Lăng quên là quy luật khắc nghiệt của thời gian. Không ai nhớ, v́ ai cũng phải lo việc ḿnh. “ Kẻ buông chài, người cày cấy, vậy thôi“. Duy chỉ c̣n có người vợ goá, đau xót nhớ thương người thân yêu, lúc đêm khuya mưa băo thét gào, c̣n nhớ anh trong nỗi buồn tê tái, ngồi khêu lại nơi bếp lửa lớp tro tàn, và cả tro của cơi ḷng nát tan.
 

( Seules, durant ces nuits où l’orage est vainqueur,

Vos veuves aux fronts blancs, lasses de vous attendre,

Parlent encor de vous en remuant la cendre

De leur foyer et de leur cœur! )
 

Thế là hết. Chết không nấm mồ. Nghĩa trang buồn không cả bia mộ. Không cả h́nh ảnh cành liễu rủ. Không tiếng ca buồn của người hành khất nơi góc cầu xưa.
 

Bỗng vang lên lời thảng thốt của nhà thơ: “ Họ đâu rồi? Những người ch́m trong tối? “ Câu hỏi tu từ như một cách khơi gợi, niềm cảm thông, chia sẻ nỗi đau. Cùng với sóng, mỗi chiều lúc triều dâng, chứng nhân bao câu chuyện đau ḷng, nhà thơ suy ngẫm về số phận con người, vốn hữu hạn trong thời gian và không gian vô hạn.
 

ĐÊM ĐẠI DƯƠNG, bài trữ t́nh trong ḍng thơ lăng mạn, vẫn đậm đà tính triết lư, nhân văn, vượt qua biên giới địa lư và tháng năm, vẫn ngời sáng như một viên ngọc quư!
 

OCEANO NOX
 

Oh! combien de marins, combien de capitaines

Qui sont partis joyeux pour des courses lointaines,

Dans ce morne horizon se sont évanouis!

Combien ont disparu, dure et triste fortune!

Dans une mer sans fond, par une nuit sans lune,

Sous l’aveugle océan à jamais enfouis!
 

Combien de patrons morts avec leurs équipages!

L’ouragan de leur vie a pris toutes les pages

Et d’un souffle il a tout dispersé sur les flots!

Nul ne saura leur fin dans l’abîme plongée.

Chaque vague en passant d’un butin s’est chargée;

L’une a saisi l’esquif, l’autre les matelots!
 

Nul ne sait votre sort, pauvres têtes perdues!

Vous roulez à travers les sombres étendues,

Heurtant de vos fronts morts des écueils inconnus.

Oh ! que de vieux parents, qui n’avaient plus qu’un rêve,

Sont morts en attendant tous les jours sur la grève

Ceux qui ne sont pas revenus!
 

On s’entretient de vous parfois dans les veillées.

Maint joyeux cercle, assis sur des ancres rouillées,

Mêle encor quelque temps vos noms d’ombre couverts

Aux rires, aux refrains, aux récits d’aventures,

Aux baisers qu’on dérobe à vos belles futures,

Tandis que vous dormez dans les goémons verts!
 

On demande : -- Où sont-ils ? sont-ils rois dans quelque île?

Nous ont-ils délaissés pour un bord plus fertile? -

Puis votre souvenir même est enseveli.

Le corps se perd dans l’eau, le nom dans la mémoire.

Le temps, qui sur toute ombre en verse une plus noire,

Sur le sombre océan jette le sombre oubli.
 

Bientôt des yeux de tous votre ombre est disparue.

L’un n’a-t-il pas sa barque et l’autre sa charrue?

Seules, durant ces nuits où l’orage est vainqueur,

Vos veuves aux fronts blancs, lasses de vous attendre,

Parlent encor de vous en remuant la cendre

De leur foyer et de leur cœur!
 

Et quand la tombe enfin a fermé leur paupière,

Rien ne sait plus vos noms, pas même une humble pierre

Dans l’étroit cimetière où l’écho nous répond,

Pas même un saule vert qui s’effeuille à l’automne,

Pas même la chanson naïve et monotone

Que chante un mendiant à l’angle d’un vieux pont.
 

Où sont-ils, les marins sombrés dans les nuits noires?

Ô flots, que vous savez de lugubres histoires!

Flots profonds redoutés des mères à genoux!

Vous vous les racontez en montant les marées,

Et c’est ce qui vous fait ces voix désespérées

Que vous avez le soir quand vous venez vers nous!

 

<<O>>

 

 

LE MANTEAU IMPERIAL
 

O ! Vous dont le travail est joie,

Vous qui n’avez pas d’autre proie

Que les parfums, souffles du ciel,

Vous qui fuyez quand vient décembre,

Vous qui dérobez aux fleurs l’ambre

Pour donner aux hommes le miel.
 

Chastes buveuses de rosée,

Qui, pareilles à l’épousée,

Visitez le lys du couteau,

Ô sœurs des corolles vermeilles,

Filles de la lumière, abeilles,

Envolez-vous de ce manteau!
 

Ruez-vous sur l’homme, guerrières!

Ô généreuses ouvrières,

Vous le devoir, vous la vertu,

Ailes d’or et flèches de flamme,

Tourbillonnez sur cet infâme!

Dites- lui : « Pour qui nous prends-tu? «
 

Maudit! nous sommes les abeilles!

Des chalets ombragés de treilles

Notre ruche orne le fronton,

Nous votons, dans l’azur écloses,

Sur la bouche ouverte des roses

Et sur les lèvres de Platon.
 

Ce qui sort de la fange y rentre

Va trouver Tibère en son antre

Et Charles neuf sur un balcon

Va! sur ta pourpre il faut qu’on mette

Non les abeilles de l’Hymette,

Mais l’essaim noir de Montfaucon.
 

Et percez-le de toutes ensemble

Faites honte au peuple qui tremble,

Aveuglez l’immonde trompeur,

Et qu’il soit chassé par les mouches

Puisque les hommes en ont peur!
 

 

TẤM ÁO HOÀNG BÀO
 

Ôi, Các em mà lao động làm vui

Các em chỉ có được làm mồi,

Là hơi gió, là hương trời phảng phất,

Tháng chạp về, các em đi nương náu,

Hổ phách của hoa, các em lấy trộm,

Để tặng cho người cái ngọt ngào của mật.
 

Các em trong trắng uống sương mai,

Ong ơi ong, giống cô dâu mới cưới,

Ong đi thăm hoa huệ trên đồi,

Hỡi những con ong, mà ánh sáng sinh ra

Là em gái những cánh hoa đỏ chói,

Rời bỏ tấm áo hoàng bào kia, ong bay xa.
 

Các em hăy ào ra đối phương, hỡi ong chiến sĩ

Ôi những nữ binh,những cô thợ hảo tâm

Các em là nghĩa vụ, là đức hạnh chính trung,

Bộ cánh vàng và mũi tên rực lửa,

Hăy cuốn quanh cái thằng nhục nhă đó

Hăy hỏi hắn : Mi nghĩ ta là ai?
 

“ Thằng khốn kia! Chúng tao là ong đây,

Tổ chúng tao rợp bóng giàn nho

Làm đẹp những mặt tiền nhà nên thơ

Chúng tao bay, bừng nở giữa trời xanh,

Trên miệng những đoá hồng hé mở

Và trên môi Platon hiền triết.
 

Mi hăy t́m Charles Chín trên ban công

Và đến với Tibère trong hang tối

Từ bùn thối, phải trở về bùn thối,

Cần thêu lũ quạ đen Montfaucon

Chứ không phải bầy Humette ong vàng

Trên áo mi màu đỏ tía.
 

Và cả đàn ong, hăy nhất tề đâm hắn,

Dân chúng đang c̣n run, hăy làm cho thấy nhục.

Hăy lăn xả vào, hung dữ,

Hăy chọc cho mù mắt tên lừa đảo nhớp nhơ,

Hăy cho ong, cho ruồi đuổi nó đi,

Bởi v́ con người c̣n run sợ.
 

Đây là một trong những bài thơ đả kích sâu cay Napoléon III. Chiếc áo bào hoàng đế màu đỏ thắm, trên áo có thêu những con ong vàng.

 

<<O>>

 

QUAND NOUS HABITIONS TOUS ENSEMBLE
 

Quand nous habitions tous ensemble

Sur nos collines d’autrefois,

Où l’eau court, où le buisson tremble,

Dans la maison qui touche aux bois,

Elle avait dix ans, et moi trente,

J’étais pour elle l’univers.

Oh! comme l’herbe est odorante

Sous les arbres profonds et verts!

Elle faisait mon sort prospère,

Mon travail léger, mon ciel bleu,

Lorsqu’elle me disait : Mon père,

Tout mon cœur s’écriait : Mon Dieu!

A travers mes songes sans nombre,

J’écoutais son parler joyeux,

Et mon front s’éclairait dans l’ombre

A la lumière de ses yeux.

Elle avait l’air d’une princesse

Quand je la tenais par la main,

Elle cherchait des fleurs sans cesse

Et des pauvres dans le chemin.

Elle donnait comme on dérobe,

En se cachant aux yeux de tous.

Oh! la belle petite robe

Qu’elle avait, vous rappelez-vous?

Le soir, auprès de ma bougie,

Elle jasait à petit bruit,

Tandis qu’à la vitre rougie,

Heurtaient les papillons de nuit.

Les anges se miraient en elle.

Que son bonjour était charmant !

Le ciel mettait dans sa prunelle

Ce regard qui jamais ne ment,

Oh! je l’avais, si jeunes encore,

Vue apparaître en mon destin !

C’ėtait l’enfant de mon aurore,

Et mon ėtoile du matin!

Quand la lune est claire et sereine

Brillait aux cieux, dans ces beaux mois,

Comme nous allions dans les bois!

Puis, vers la lumière isolée

Étoilant le logis obscur,

Nous revenions par la vallée

En tournant le coin du vieux mur,

Nous revenions, cœurs pleins de flamme,

En parlant des splendeurs du ciel.

Je composais cette jeune âme

Comme l’abeille fait son miel.

Doux ange aux candides pensėes,

Elle était gaie en arrivant…

Toutes ces choses sont passées

Comme l’ombre et comme le vent!.

 

 

 

THUỞ CHÚNG TÔI CÙNG Ở

 

Thuở chúng tôi cùng ở

Trên đồi ấy ngày xưa

Nơi nước chảy, bụi run

Trong căn nhà ven rừng.
 

Cháu lên mười, tôi ba chục

Với cháu, tôi là cả vũ trụ

Ôi, cây cỏ ngát hương

Dưới ṿm cây xanh tươi.
 

Chao, thu tới rộn ră

Nghe cháu gọi: Cha ơi

Đời tôi bỗng thêm tươi

Trời thêm xanh, việc tôi làm thêm nhẹ
 

Bao đêm tôi mộng mị

Nghe giọng cháu bên tai

Trán tôi bừng trong tối

Thấy mắt cháu sáng ngời.
 

Cháu như nàng công chúa

Khi tôi dắt tay chơi

Cháu mê mải t́m hoa

Trên đường, t́m kẻ khó.
 

Cháu cho mà như lấy cắp

Giấu giếm chẳng để ai hay

Ồ, chiếc áo xinh cháu mặc

Hẳn bạn c̣n nhớ lâu.
 

Tối đến, bên ánh đèn,

Cháu chuyện khẽ huyên thiên

Trong lúc lũ bướm đêm

Va vào cửa kính đỏ.
 

Thiên thần soi bóng cháu

Tiếng chào hỏi dễ thương!

Trời đặt trong con ngươi

Ánh mắt không nói dối.
 

Ôi, từ khi tôi rất trẻ

Đă có cháu bên ḿnh

Đứa con buổi b́nh minh

Ngôi sao lúc rạng sáng.
 

Nhớ những buổi trăng đẹp

Trời cao, vằng vặc soi

Cha con dạo đồng quê

Cùng chạy nhảy trong rừng.
 

Rồi, phía ánh sáng mờ tỏ

Soi căn nhà tối tăm

Cùng về phía thung lũng

Ngoặt theo hướng tường cổ.
 

Đường về, ḷng hăm hở

Tṛ chuyện về đêm trăng

Tâm hồn cháu, tôi chăm,

Như con ong gây mật.
 

Thiên thần thơ ngây, hiền dịu

Về đến nhà, cháu vui

Tất cả đă qua rồi

Như bóng tối, gió bay.
 

Năm 1824, Victor Hugo có đứa con gái đầu ḷng Léopoldine, chẳng may qua đời năm 1843. Sự kiện đau ḷng ấy đă để lại trong ḷng người cha vết thương khó nguôi ngoai. Tác giả đă viết rất nhiều bài thơ gợi lại thời kỳ sung sướng khi con gái c̣n sống hoặc nỗi đau trước cái chết của con gái yêu. Bài này được sáng tác vào tháng 10 năm 1846, về sau in trong tập Les contemplations. Ông vẫn nhớ thuở con c̣n nhỏ, ông chăm chút, dạy dỗ, hun đúc tâm hồn thơ dại bằng những buổi dạo chơi. Giờ đây, tất cả chỉ c̣n là kỷ niệm. Hết cả rồi. Bài thơ kết thúc bằng một nốt nhạc buồn, khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi thương xót.

 

<<O>>

 

LA SAISON DES SEMAILLES, LE SOIR
 

C’est le moment crépusculaire

J’admire, assis sous un portail,

Ce reste de jour dont s’éclaire

La dernière heure de travail.
 

Dans les terres, de nuit baignées,

Je contemple, ému, les haillons

D’un vieillard qui jette à poignées

La moisson future aux sillons.
 

Sa haute silhouette noire

Domine les profonds labours.

On sent à quel point il doit croire

A la fuite utile des jours.
 

Il marche dans la plaine immense,

Va, vient, lance la graine au loin,

Rouvre sa main, et recommence,

Et je médite, obscur témoin,
 

Pendant que, dēployant ses voiles,

L’ombre, où se mêle une rumeur,

Semble élargir jusqu’aux étoiles

Le geste auguste du semeur.
 

Bài thơ trích trong tập Les chansons des rues et des bois. Hugo pha trộn nhiều yếu tố: đêm xuống, ông già tuổi cao vẫn c̣n lao động, người chứng kiến cảnh tượng và trầm tư. Tất nhiên nhân vật chính chỉ là một cái cớ, có một ẩn dụ ở đây, chủ đề một ông già suy nghĩ về thế hệ tương lai đă được La Fontaine gợi lên trong bài Le vieillard et les trois jeunes hommes. Điều thú vị hơn là t́m hiểu xem Hugo nghĩ đến ai khi nh́n thấy “ cử chỉ hào hiệp của người gieo hạt “. Phải chăng ông nghĩ đến những nông dân nuôi sống nhân dân, hay là đến con người đang làm đất màu mỡ nhờ công lao động của ḿnh, hay là nghĩ đến chính ḿnh, nhà thơ tự nh́n thấy ḿnh, hay là nghĩ đến Thượng đế mà ông tưởng tượng như người ban phước bao dung cho thế hệ tương lai? Câu trả lời c̣n bỏ ngỏ, dành cho người đọc khi thưởng thức một bài thơ hay, tả cảnh để tả t́nh, viết với những câu thơ 8 âm tiết ( octosyllabe ) với vần chéo ABAB.
 

CHIỀU, MÙA GIEO HẠT

 

Đây là lúc hoàng hôn

Tựa cửa, tôi ngắm trông

Chút ánh sáng le lói

Giờ cuối buổi làm đồng.
 

Trên ruộng, tắm bóng đêm

Tôi ngắm một ông lăo

Áo quần rách tơi tả

Gieo hạt cho mùa sau.
 

Bóng ông già cao thẳm

Che khuất luống cày sâu

Chắc mọi người tin lắm

Tháng ngày trôi qua mau.
 

Ông đi trên đồng ruộng,

Qua lại, tung hạt giống,

Tay mở, rồi khép lại,

Tôi lặng nh́n, mơ mộng.
 

Trong lúc đêm giăng màn

Bóng lẫn tiếng ŕ rào,

Như vươn đến sao xa

Bàn tay người gieo hạt.

 

<<O>>

 

APRÈS LA BATAILLE
 

Mon père, ce héros au sourire si doux,

Suivi d’un seul housard qu’il aimait entre tous,

Pour sa grande bravoure et pour sa haute taille,

Parcourait à cheval, le soir d’une bataille,

Le champ couvert de morts sur qui tombait la nuit.

Il lui sembla dans l’ombre entendre un faible bruit,

C’ėtait un Espagnol de l’armée en déroute

Qui se traînait sanglant sur le bord de la route,

Râlant , brisé, livide, et mort jusqu’à moitié

Et qui disait: « A boire, à boire par pitié! «

Mon père, ému, tendit à son housard fidèle

Une gourde de rhum qui pendait à sa selle,

Et dit: « Tiens, donne à boire à ce pauvre blessé. »

Tout à coup, au moment où le housard baissé

Se penchant vers lui, l’homme, une espèce de maure,

Saisit un pistolet qu’il étreignait encore,

Et vise au front mon père en criant : « Caramba! »

Le coup passa si près que le chapeau tomba

Et que le cheval fit un écart en arrière,

« Donne-lui tout de même à boire », dit mon père.
 

Bài thơ nổi tiếng này nhắc đến người cha của tác giả, Léopold, vị tướng trong quân đội của Napoléon Đệ Nhất, trong cuộc chiến với Tây Ban Nha năm 1808.

 

Khung cảnh chiến tranh được nhắc đến ngay trong nhan đề và trong một loạt từ thuộc trường ngữ nghĩa chiến tranh: housard, bataille, champ de bataille. morts, armée, pistolet.

 

Từ mon père xuất hiện trong câu thứ nhất, và lặp lại ở câu cuối cùng, biện pháp để nhấn mạnh vai tṛ của người cha, trục chính của toàn câu chuyện.

 

Ngoài nhân vật người cha, hai nhân vật khác cũng hiện diện: người lính hầu cận và lính Tây Ban Nha. Nhân vật thứ hai được mô tả bằng một loạt tính từ: râlant, brisé, livide et mort jusqu’à moitié, nhằm nêu bật t́nh trạng anh ta đă bị đánh bại.

 

Victor Hugo gọi cha anh là anh hùng, nhưng ông dùng những cách nói không tương quan với một anh hùng thời chiến: nụ cười và vẻ hiền từ ( au sourire si doux ), t́nh thương ( le housard qu’il aimait entre tous ), cảm xúc ( mon père, ému )
 

Tính cách anh hùng của người cha không phải là hành động trong cuộc chiến v́ chiến tranh đă kết thúc.

 

Tướng Hugo bảo người lính hầu cho anh thương binh uống nước, ngay cả sau khi hắn bắn vào ông. Cử chỉ khác thường đó khiến ông trở thành anh hùng dưới mắt con.

 

Bài thơ trước hết là một bằng chứng về t́nh thương và sự thán phục của một người con đối với cha ḿnh. Nhưng, qua những câu thơ này, Victor Hugo muốn tố cáo chiến tranh tàn bạo, và nói rằng người lính vẫn có thể chứng tỏ ḷng nhân hậu, ngay cả với kẻ thù.

 

Tóm lại, bài Après la bataille chính là một anh hùng ca ( épopée ) theo truyền thống của IlliadeOdyssée của Homère vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, với những hành động của các anh hùng Hy lạp, Achille và Ulysse.
 

SAU TRẬN ĐÁNH
 

Cha tôi, người anh hùng với nụ cười hiền dịu

Cùng người lính hầu thân cận ông rất thương

V́ tầm vóc cao lớn và ḷng dũng cảm phi thường,

Buổi chiều, sau trận đánh, cỡi ngựa rong ruổi

Chiến trường đầy xác chết ngổn ngang lúc đêm tối,

Có tiếng kêu yếu ớt vọng bên tai,

Một tên lính Tây Ban Nha trong đám bại quân,

Nắm rên rỉ ven đường, người bê bết máu,

Mặt tái nhợt, như sắp chết đến nơi,

Cố thều thào: Cho tôi xin hớp nước.

Cha tôi mủi ḷng nh́n kẻ bị thương

Trao người lính hầu từng theo ông vào sinh ra tử

Bầu rượu vốn đă treo sau yên ngựa,

Ông nói ngay: Người cầm lấy và cho hắn uống.

Trong lúc người cận vệ cúi xuống

Đưa kẻ bại binh, bỗng bất th́nh ĺnh

Hắn giơ súng lên quyết liệt

Nhắm trán cha tôi và la to: Mày phải chết.

Viên đạn bay quá gần làm chiếc mũ rớt xuống

Và con ngựa nhảy một bước lui sau.

“ Cứ cho hắn uống thôi ”, cha tôi nói.

 

<<O>>

 

J’AI CUEILLI CETTE FLEUR POUR TOI SUR LA COLLINE.
 

J’ ai cueilli cette fleur pour toi sur la colline

Dans l’âpre escarpement qui sur le flot s’incline,

Que l’aigle connaît seul et seul peut approcher,

Paisible, elle croissait aux fentes du rocher.

L’ombre baignait les flancs du morne promontoire,

Je voyais, comme on dresse au lieu d’une victoire

Un grand arc de triomphe éclatant et vermeil,

A l’endroit où s’était englouti le soleil,

La sombre nuit bâtir un porche de nuées,

Des voiles s’enfuyaient au loin diminuées,

Quelques toits , s’éclairant au fond d’un entonnoir,

Semblient craindre de luire et de se laisser voir,

J’ai cueilli cette fleur pour toi, ma bien-aimée.

Elle est pâle, et n’a pas de corolle embaumée,

Sa racine n’a pris sur la crête des monts

Que l’amère senteur des glauques goémons,

Moi, j’ai dit: Pauvre fleur, du haut de cette cime,

Tu devais t’en aller dans cet immense abîme

Où l’algue et le nuage et les voiles s’en vont.

Va mourir sur un cœur, abîme plus profond,

Fane-toi sur ce sein en qui palpite un monde.

Le ciel, qui te créa pour t’effeuiller dans l’onde,

Te fit pour l’océan, je te donne à l’amour

Le vent mêlait les flots, il ne restait du jour

Qu’une vague lueur, lentement effacée.

Oh! Comme j’étais triste au fond de ma pensée

Tandis que je songeais, et que le gouffre noir

M’entrait dans l’âme avec tous les frissons du soir!

 

 

ANH HÁI ĐÓA HOA NÀY
 

Anh hái đoá hoa này trên đồi tặng em

Ở vách đá chênh vênh nh́n xuống sóng nghiêng.

Chỉ đại bàng biết rơ và tới được

Giữa khe đá to lặng lẽ hoa mọc

Bóng tối bao trùm những sườn đá đ́u hiu.

Tôi nh́n thấy, như ở nơi mừng chiến thắng

Một khải hoàn môn thắm đỏ, huy hoàng

Ở chốn kia lặn ch́m vầng thái dương.

Đêm dựng lên một cổng lớn đầy mây

Những cánh buồm lướt đi xa nhỏ dần

Vài mái nhà dưới lũng sâu loé sáng

Chừng như sợ quá sáng và có người nh́n thấy.

Anh hái đoá hoa này tặng em yêu dấu

Hoa màu tái nhợt không có cả hương thơm.

Bởi rễ nó mọc trên đỉnh non cao

Chỉ hút được mùi vị hăng hăng

Anh bảo: Hoa tội nghiệp từ trên đỉnh non cao

Đáng lẽ hoa phải rơi xuống vực sâu thẳm

Nơi những cánh buồm, và mây và rong bay đi

Hoa hăy trên ngực tàn tạ, héo khô.

Trời sinh em ra để rả cánh trên sóng nước

Trời giao em cho đại dương, ta giao em cho t́nh yêu đằm thắm.

Gió hoà trộn sóng ngày chỉ c̣n một chút nhỏ nhoi

Ánh sáng mờ, rồi dần dần xoá mất,

Ôi, trong đáy hồn anh sao quá đỗi buồn rầu

Khi suy tưởng, một vực đen sâu thẳm

Thấm vào hồn anh cơn ớn lạnh về đêm.
 

Bài thơ được trích từ tập Les Contemplations ( Mặc tưởng ), trong tập này Hugo có nhiều bài về t́nh yêu, đi đôi với thiên nhiên. Chủ đề bài thơ xoay quanh trục giữa nhà thơ với thiên nhiên với một cành hoa đơn độc.

 

Victor Hugo xác định ngay diễn biến câu chuyện: Cành hoa được hái trên đồi.

 

Người đọc nh́n thấy ngay một thế giới riêng biệt và h́nh ảnh ngọn đồi với khung cảnh u tối lúc chiều xuống, mây che. Đồi nép ḿnh trước sức gió và tiếng gào thét của sóng đại dương. Cuộc sống mong manh, yếu đuối. Cánh hoa là h́nh ảnh sống động duy nhất giữa cảnh thiên nhiên. Con người tưởng như không thể chinh phục được thiên nhiên. Tuy nhiên vẫn c̣n cơ hội vươn lên để thấy “ khải hoàn môn rực đỏ huy hoàng “.

 

Cánh hoa đơn độc “ tội nghiệp “, “ tái nhợt “ “ không cả hương thơm “. Hoa sắp tàn và những cánh hoa sẽ rả dần theo gió. Con người sẽ có lúc mai một “ Trời làm ra em để rả cánh trong sóng nước, làm ra em cho đại dương “. Nhưng “ em hăy tàn trong bầu ngực thế giới hít thở “. Tác giả hiện diện cùng với thiên nhiên, nh́n cánh hoa, cuối cùng vẫn “ Tôi ch́m trong suy tưởng, vực tối đen xâm chiếm tâm hồn với những cơn ớn lạnh về đêm “.
 

Như vậy, h́nh ảnh nhà thơ vẫn thấp thoáng từ đầu tới cuối câu chuyện, trong tất cả yếu tố của cả bài. Trước tiên là ngọn đồi, lung lay theo gió, cánh hoa bị bỏ rơi mà vẫn hiện diện trước mọi người. Phải chăng Victor Hugo muốn giải bày, muốn nói lên những dằn vặt của ḿnh?

 

Không thể nào dịch nhiều bài hơn nữa, chỉ chọn mấy bài với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, để thấy sự đa dạng trong thơ Victor Hugo.
 

***
 

Victor Hugo mất ngày 22/5/1885 sau một cơn đau tim nặng. Ông viết trong di chúc :

 

“ Je donne cinquante mille francs aux pauves. Je veux être enterré dans leur corbillard. Je refuse l’oraison de toutes les Églises. Je demande une prière de toutes les âmes. Je crois en Dieu. “

 

( Tôi xin trao năm ngàn quan cho người nghèo khó. Tôi muốn ḿnh được chôn trên xe tang của họ. Tôi khước từ lễ cầu hồn từ Giáo hội. Tôi chỉ xin ở mỗi tâm hồn một lời cầu nguyện. Tôi tin ở Chúa ).

 

Mặc dù vậy, hơn 2 triệu người vẫn đến tiễn đưa Ông. Đoàn diễu hành tiến hành đi bộ sáu tiếng từ Khải hoàn môn đến nơi Ông được chôn cất. Ông được nhà nước cử lễ quốc tang theo sắc lệnh của Tổng thống Jules Grévy, và thi hài ông được đưa vào điện Panthéon, nơi đây đă có Émile Zola và Alexandre Dumas. Hầu hết các thị trấn và thành phố lớn của Pháp đều có đường phố hoặc quảng trường mang tên ông.

 

Hugo để lại một di sản đồ sộ gồm 18 tập, nhà xuất bản Câu lạc bộ sách Pháp, 1967-1970, và 15 tập, nhà xuất bản Robert Laffont, gồm 17.500 trang khổ lớn, xuất bản năm 1985-1990, tái bản năm 2002 do hai chuyên gia Jacques Sabacher và Guy Rose chú giải. Bộ này gồm 4 tập lớn về thơ với hơn 5000 trang, bao gồm hơn 20 tác phẩm thơ, gần 154 câu thơ trong đó bộ anh hùng ca huyền thoại Truyền kỳ các thế kỷ hơn 1000 trang, 3 tập lớn về tiểu thuyết với 9 tác phẩm, 4500 trang, 2 tập lớn về kịch trên 25000 trang, gồm 12 vở kịch, 1 tập các bài viết về chính trị, 1 tập các bút kư về lịch sử, 1 tập về phê b́nh, 1 tập bút kư về biển và đại dương, 1 tập về các đề tài khác như giáo dục, tôn giáo, triết học.
 

Victor Hugo có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Ông là một tượng đài không chỉ trong văn học Việt Nam mà c̣n cả thế giới nữa.
 

 

THÂN TRỌNG SƠN

dịch và giới thiệu

( tháng 4/2023 ).


 

art2all.net