Bài TỰA
Nhà văn Cung
Tích Biền
viết cho Thi
Phẩm
KINH VÔ
THƯỜNG
của Vơ Thạnh
Văn

@ I
Từ Kinh
Một kính ngưỡng hằng có mà chúng ta được biết, phần nào được hiểu:
“Lời / Chữ của bậc Thánh Nhân gọi là Kinh, của thường nhân,
là Truyện.”
Kinh Dịch đă định rơ 2 phần: Kinh và Truyện. Lời luận giải của Khổng
Tử --một chỉ yếu h́nh định Dịch kinh— là Truyện.
Hà cớ? Là Thánh, là Vạn thế Sư biểu, có thể là do / từ các môn đệ,
hậu thế tôn vinh. Đức Khổng đương thời, cái Hôm ấy và Bấy giờ của
Ông ta, chỉ là một triết gia, khiêm tốn và b́nh thường như mọi con
người. Bậc chí nhân, Khổng, không tự cho ḿnh là Thánh. Mọi sự chỉ
là ngoại vi. Nhưng, “Không tự nhận ḿnh như thế, mới là Như Thế.”
Một số cà triết thuyết, học thuyết, khi được kế thừa, hiện dụng về
sau, là h́nh thành Đạo. Tông giáo có từ Lăo – Trang, qua Đạo Đức
kinh và Nam Hoa kinh.
Đạo / Con Đường được Mở Cơi từ Kinh.
Kinh khai Đạo.
***
Người họ Vơ, Phù Hư Dật Sĩ, bát ngát định danh bộ trường thiên thi
của ḿnh là Kinh. Kinh Vô Thường.
Tác phẩm nầy nếu không là Kinh, theo cách hiểu ở trên, nó
cũng chẳng thể gọi là Truyện, đúng nghĩa theo cách gọi của
Hôm nay.
Vậy, “Nó” đứng nơi đâu? Là ǵ? Thể thái nầy gợi ra, một “Đi t́m
nơi tương phùng.”
Có thể, đây là nơi giáp mặt của ngữ ngôn, và / với, cái mong muốn
bí ẩn của Tác giả Kinh Vô Thường, là, thoát ngoài giới hạn tục
luỵ về tên gọi Kinh – Truyện.
Lại, quyền được nghĩ:
“Thi là Kinh, Văn là Truyện.”
Thi ca, một hiện thân Thánh hoá. Lời Thần linh. Là H́nh nhi
thượng trong mọi tầng hệ tư tưởng. Ở trên văn, và ngoài văn
chương. “Hồn” của Kinh là Thi, chữ / từ chỉ là “Xác.”
Xác có thể nhờ nhiều h́nh tượng mỗi ngôn ngữ biểu hiện [chữ viết
Đông Tây, kim cổ], qua nhiều h́nh thái biểu đạt [trường phái, trào
lưu vv…]. Ở tận Cơi Vô ngôn, Xác ấy có thể / xem như tự huỷ. Xác có
biến thể, nhưng Hồn chỉ Một. Cái Biến thể và cái Vô tướng h́nh hoà
nhập cho một Sự Đạt. Ấy là Thời và Không, của “Thể
lộ kim phong.”
Hoá thân trong // Cái thể của cơn gió vàng thoát lộ // cho
nên những Đích thị Thi nhân đông tây kim cổ thảy đều là các
bậc Thánh, Thần, Tiên. Lời từ ấy là Kinh. Thi nhân đứng trên đỉnh
cùng trời đất. Không hề là kẻ đứng gốc, cùng bóng cây, dẫu là Gốc
Tùng.
Tôi nghĩ, Vơ Thạnh Văn, Con-người-đă-ra-ngoài-nắng-mưa, đă
trực ngộ, dơi theo cái linh dẫn “b́nh sinh vô phương thị,”
nên khoát áo cho bộ trường thiên thi của ḿnh là Kinh. Kinh Vô
Thường.
Điều nầy là b́nh thường.
Không làm con tin cho những Rào Chắn, không giam ḿnh trong chốn
nhân gian than thở rằng Bất Khả Thoát, đó là nhân cách của một Nhà
Sáng tác.
Người Đọc, một khi đối diện Kinh, dù là hiển thị qua chân dung lục
bát hiền hoà, phải có một đôi mắt ngoài nhục nhăn.
Những-mắt-bên-kia-bờ-thịt.
Là, những tâm / trí / thần / tuệ nhăn sẽ được rót tinh mật.
@ 2
Về Truyện.
Từ “truyện” dùng dưới đây khác với từ “truyện” viễn cổ.
Nguyễn Du với Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Đ́nh Chiểu có Lục Vân
Tiên, và khá nhiều tác giả Việt Nam xưa nay có “lục-bát-dài-hơi”
những trên ngh́n câu, được người đời gọi là truyện. Truyện Kiều. Lục
Vân Tiên truyện.
Là, tiểu thuyết được truyền tải qua h́nh thức thơ. Nội dung “sống
nhờ” một cốt truyện. Tờ tợ cái cách dây trầu leo thân cau.
Lợi điểm dẩn dắt người đọc là ở cái nắng mưa số mệnh, là thế thái
nhơn t́nh, chung quy là duy ở cốt truyện. Với đa phần quần
chúng, những văn chương tư tưởng, những thẩm mỹ ngôn tự, chỉ là thứ
yếu.
***
Kinh Vô Thường không hề có cốt truyện.
Mười ngh́n câu lục bát, gồm 2.500 tiểu đoạn tứ tuyệt, chia ra 10 tập,
từ Cát Bụi I đến Cát Bụi X, tuyệt không “một sợi chỉ xuyên suốt”
liên kết, thừa thượng tiếp hạ, theo cấu trúc truyện, trong kỹ
thuật sáng tác truyền thống. Đầu truông cuối băi, Kinh Vô Thường
không hề có một chủ đề riêng lẻ, chương hồi, dù chỉ trong mỗi tập
ngh́n câu.
Nhưng đây không là một ngược ḍng, một phản / phi cấu trúc
[deconstruction]. Kinh Vô Thường vẫn là một tuân thủ nghiêm chỉnh
phong cách lục bát. Sự hiển lộ của toàn bộ tác phẩm là một Biển Chữ
sang trọng, cổ điển và hàn lâm.
Ánh sáng dội lại từ tư tưởng và ngôn ngữ Kinh Vô Thường vẫn là những
tinh quang rộng mở, d́u dặt, thuần khiết và thơ mộng. Thủ pháp sáng
tạo của Tác giả là rất thông minh, tài hoa.
***
Không cốt truyện dẩn dắt, người đọc mong giải trí, một gỡ rối tơ
ḷng, đă sắm sẵn mớ nước mắt, chờ đợi những bước éo le lên ghềnh
xuống thác cuộc thế thái nhơn t́nh, sẽ đụng phải một cái… rỗng không.
Đó là một Đèo-cao-Chữ-nghĩa. Bức-tường-trừu-tượng.
Đọc Kinh Vô Thường, đối với những khách thưởng ngoạn thường t́nh nầy,
loại tầm tầm, sẽ không thể nào t́m thấy những nhân vật có cung cách
của nàng Kiều, Nguyệt Nga, Mă Giám Sinh, Sở Khanh, Bùi Kiệm, Thể
Loan, Vân Tiên… để mà cắt bớt ruột gan của ḿnh ra, mà chia sớt nỗi
ḷng.
Tính lư của Kinh Vô Thường là một Rỗng và Không. Giai nhân mà Tác
giả, xuyên suốt gặp gỡ, chia ly, nhớ nhung, gợi lại, mong chờ, chào
biệt nơi đây, chỉ là những bóng h́nh sương khói. Là những gam màu
trừu tượng. Nàng? Chỉ là một nhân ảnh tuồng như có, tuồng như không
trong kiếp nầy. Lại như từ kiếp trước? Càng không chắc Nàng lấp ló ở
kiếp sau.
Một Rỗng Không vừa thơ mộng vừa tàn khốc.
Một Rỗng Trống chật đầy những nghi hoặc siêu h́nh.
Không một cái móc treo mang tính thực dụng, giàu mùi mặn lạt tục luỵ,
để tâm hồn người đọc móc vào, đi tiếp đường trường chữ nghĩa. Những
độc giả bất lực trước cái Đèo cao nầy, sẽ rất khó ḷng mà đọc cho
hết mười ngh́n câu lục bát lê thê. Sẽ buông ngay Chữ. Sẽ chào biệt
Những Ḍng.
Kinh Vô Thường quả là một thách thức Người Đọc. V́, “Nó” đ̣i hỏi
cái tương tri, cái đức hạnh, một ḷng tin vào chữ nghĩa nơi một ai
chạm vào. Nó đứng một Cơi Riêng trong mỗi Cơi Ḷng. Là một Dâng
hương. Không là thù tạc.
Chỉ là lộng lộng tràng giang ngữ từ. Nội dung không nương theo
truyện, lợi dụng truyện mà dạy / mong người làm theo đức, đi theo
đạo, thuận điều chí thiện. Nhưng trong Kinh Vô Thường, Đức, Đạo điều
chí nhân chí thiện, lẫn âm u than thở, bao cảm hoài, kêu hỏi về một
kiếp người, cả về cái đành hanh của / do / bởi / từ Cát Bụi, th́ hằn
rơ.
@ 3
Qua Kinh Vô Thường, Vơ Thạnh Văn là đệ nhất tài tử của nghệ thuật
Nói-khơi-khơi. Một cách nói “Khó nói nhất” dành cho những
điều nghiêm chỉnh.
Một Cách Nói như không định h́nh của làn khói hương, quấn quít,
tan biến nhanh trong hư không, nhưng mùi hương th́ chậm chậm cách
thấm đẫm hồn người.
Khơi khơi trong rất mực khơi khơi. Nói một điều ǵ cũng chỉ nghệ
thuật nói loanh quanh, tuồng là ngẫu nhĩ. “Ngộ” mà chẳng thấy,
“Thấy” được cả cái “không thể nh́n ra.” Tâm thái của người họ Vơ đậm
chất Thiền. Rộng trải cái khí hậu Lăo Trang. Bát ngát cái vô thanh
vô lượng lẫn vô t́nh nơi Thái hư. Thiên hà ngôn tai. Trời có nói
ǵ đâu. Mà, Trời túm cả thiên thu sự vụ.
Ngữ từ nơi nầy, mười ngh́n câu, là một cái Trời mênh mông lất phất.
“Nói qua rồi lại nói về.” Trước đă nói rồi, sau lại nói thêm. Nói
rồi mà chưa nói hết. Nói thêm mà vẫn không thừa. Như mưa chiều
hôm qua, sáng nay lại cơn mưa. Với vô tận của Trời, cơn mưa nào
là đầu tiên? Mưa nào là cuối cùng?
Cái thăm thẳm của Kinh Vô Thường là bàn khơi khơi. Lẫn chơi chơi. Là,
Lăo / Trang chi ngôn. Là, Trang / Lăo chi thần. Như gió mây thiên
thượng, như thiên khí có lực sai khiến lũ chữ nghĩa kéo nhau đi lang
thang vào chốn Vô Cùng. Một vô cùng Khai / Mở. Để, mọi cánh cửa ngôn
từ, của chiêu niệm, được toan mở, ra mọi chiều kích.
Nhưng, chính cái thế giới rộng mở đến không phương hướng kia, điều
tất yếu, đă / để bày lộ “Cái Nói Bên Trong.” Như cho riêng
ḿnh. Như nói với giấc mộng ảo. Như độc thoại với “Một ai trong
Tôi.”
Đấy là nội hàm của một Niệm tương ứng với một Hạt
trong ṿng Nội liên ái, trên ṿng tay đeo [18] hạt của Nàng,
Nhà Phật. Niệm ấy là: “Tôi có mặt KHÁC nơi nầy như thế.”
@ 4
Ưu điểm của họ Vơ là chừng không chủ tâm dài ḍng lư luận, định
nghĩa 2 từ Vô Thường. Chỉ vẻ ra cái giấc mộng “tuồng như là vô
thường.” Mộng? Như một tỉnh vật hằng có. Là hiện thể của Sự Chết,
khi đang Có mặt.
Luận cho ra thế nào là Vô Thường? Đáp vấn cho tận tường câu hỏi vạn
đại nầy ư? Là điều rất vô nghĩa, hoài phí. Là khá xa lạ với Cái
Đương Nhiên trên cả những đương nhiên.
Không cần thiết phải t́m hiểu cái Lẽ C̣n Mất, ấy là hiểu được
Mệnh. Chỉ an với nó theo cách thư thái, khinh khoái xuôi ḍng. Không
cần biết Nó từ đâu, về đâu. Bởi, muốn cũng không thể biết được. Mau,
Chậm, C̣n, Mất trong dâu bể không là quyền của mỗi cái sống gọi là
Quyền Được Sống nơi mỗi con người. Sự Biết ấy, chính là Đạo.
***
Khởi đi từ “Nhất phiến tài t́nh thiên cổ luỵ,” cho nên, Chữ /
Lời / Ư của họ Vơ, cái ǵ cũng nửa đường đầu nẻo. Như ta trong chờ
đợi một-chiều-rớt-hạt. Mây đen đă kín đen bên kia núi, bên nầy vẫn
cái ráng chiều le lói vàng tênh. Luôn là Một Cái-sẽ-tới nhưng
biết bao giờ tới! Luôn là Cái-chập-chùng-đi mà bao giờ mới lên đường!
Do vậy, nguồn cảm hứng, con triều ngôn ngữ của con Người họ Vơ đậm
cách Khơi Ḍng –dù Kinh Vô Thường luôn dung nạp một lượng từ khá cổ
điển, rất xa lạ loại ngôn ngữ đa phương, nồng cháy, mang tính hiện
đại của Hôm nay.
***
Trong lời Tiểu Tự nhân ngày hoàn thành bộ Kinh Vô Thường, Vơ Thạnh
Văn đă viết:
“Đông Thiên, Tây Trúc và miền Đất Hứa… càng đi càng lạc, càng đến
gần càng xa lạ. Đứng sát bên Linh Thứu vẫn thấy ḿnh lạc lơng, trôi
giạt, quạnh hiu. Quỳ dưới chân núi Si-Na-I chợt biết ḿnh mất hướng,
bồng bềnh, vong lạc.”
Tâm thức của Tác giả là một cô đọng hiển linh.
Từ suối ngồn nầy, Kinh Vô Thường dung chứa một chênh vênh giữa ranh
giới Thật - Ảo. Cơi bờ nầy là Có – Thật, trong Sự - Thật. Có một
lần, có là như thế trong đời Thi Sĩ, một H́nh Dung da thịt, một nhân
t́nh hiển hiện trong đầm ấm đời riêng. Nhưng Chữ nghĩa nầy lại
Đứng - xa - hiện – t́nh, là không rơ chân dung. Chẳng ai bên
kia cầu, ai bên suối, ai khóc và có ai cười? Một trôi giạt mông lung
giữa biển đời luôn có thật quanh đây, luôn lạnh căm, cháy bỏng, oan
khiên lẫn may mắn, lại rất ư hư huyễn.
Đó là cái Lơi, cái bản lai diện mục được sát na trực thị. Là, cuộc
chuyển luân của Thập mục ngưu đồ. Từ khải vọng kiếm t́m, khi
Được và Đă Có, lại trở về “Nhân ngưu câu vong” / Người trâu đều
vô h́nh tướng. Cái ṿng tṛn Rỗng Trống. Một hiện tiền Chân Như.
@ 5
Có người hỏi, V́ sao Người họ Vơ “Đứng được chỗ mười phương”
để “dùng dằng giữa tà huy?”
Theo tôi, trùng phùng nầy có thể giải mă. Vơ Thạnh Văn là một Ki-Tô
hữu, được huân đúc trong / và thừa hưởng nền giáo dục nhị nguyên của
kinh điển Thiên Chúa giáo. Lại là một người khá thông tuệ về Phật
giáo, như từ Cửa Phật. Tĩnh tại một thiền giả. Cũng là môn đệ của
Lăo / Trang. Về đời thường, như chúng ta, anh cũng từng kinh qua cái
biển đời “Không đủ lời, và thời, để than thở, chờ mong,” nên
đă chọn một cuộc sống ẩn khuất của một dật sĩ. Ngần ấy đủ khởi tạo
một Rộng – đường, một Khai - mở trên con đường sáng tạo.
Trong mỗi Tác giả luôn có một ngọn đèn chiếu lại từ vô minh, vô
thức, lúc cầm bút. Luôn có một Thức – giấc từ tiềm thức. Và, cả
những giấc mộng đêm qua, vẫn là nguồn cơn ám / chiếu / thành những
con Chữ có thực.
Từ khởi điểm là “Trung tâm quy chiếu những tư tưởng đa chiều và
đa nguyên ấy, Kinh Vô Thường trù phú những chiêu niệm về ư thức,
lẫn tâm thức trực diện với cuộc đời, với số phận, cả những “Vực – Bờ
- Bên - Kia – số - phận.”
Kinh Vô Thường không mong t́m Người Đọc. Chỉ kẻ tri âm t́m đến.
Và, cuộc tương giao nầy khó bề đứt đoạn.
@ 6
Lời Kết
Văn là người.
Thơ, cũng có thể.
Kẻ điên, thiền giả, người cổ quái, bọn trích tiên có thơ điên, thơ
thiền, thơ quỷ, thơ tiên. Chàng cuồng mộng mê si có thơ t́nh, ông
quan to có thơ pḥ vua nịnh chúa.Phải yêu rất mực mới có thơ rất
t́nh. Phải thụ ân sũng rất thừa mới có thơ đúng đạo Làm Tôi.
Từ tự nhiên, chất Thơ là khí hạo nhiên, là Của – Chung trong trời
đất, nhưng nó được người mần thơ hít vô rồi thở ra đủ kiểu cái ấm –
lạnh – đỏ -- vàng – xanh – nâu. Rất Riêng. Và, rất ư lựa chọn. Nên,
tuỳ thể thái của riêng / mỗi, mà thơ rực hương nhân ái hay rộn ràng
binh đao, hoặc trầm vọng tiếng chuông chùa. Phải sống ra sao mới
thấu rơ ruột gan âm dương.
Thơ họ Vơ, quả là người họ Vơ.
***
Từ bé, tôi được mẹ tôi đẩy vào chốn nhiệm mầu khi kể câu chuyện về
con sông Trà Khúc hai bờ, một bờ đục, bờ kia trong. Đục – Trong rơ
ràng. Tôi qua sông Trà, cứ t́m măi bên nào đục, bên nào trong.
Tôi đă từng đi tới thị trấn Sông Vệ vào thời kháng chiến chín năm
chống Pháp, một ḍng sông một cơi người buồn. Tôi đàn. Tôi hát.
Tiếng hát trong những đêm tŕnh diễn, núi thẳm ở phía xa kia, nơi
đây chỉ ánh trăng cheo leo, không hề có một bóng đèn điện.
Rồi hơn năm mươi năm sau trôi trở lại Quảng Ngăi sau khi biển đời có
đổi thay. Trắng hoá đen, mà Đen không biết có thể hoá ra cái
giống ǵ. Những vùng ngoại ô đầy những ruộng lau xưa kia quanh
thành phố nay là những đại lộ phố xá. Tôi ngồi quán Yaly, một chiều
nhớ bạn. Những Bạn Một Thuở. Rót vài ly rượu đặt trước mặt, những
chiếc ghế hoang trống đối diện. “Nào, mời người khuất bóng cùng
Ta cạn một ly đầy.”
Quảng Ngăi với tôi, tới hôm nay vẫn là một vùng đất êm đềm nhưng rất
kỳ bí, như tiếng hát đêm trăng nào.
***
Vơ Thạnh Văn chào đời ở nơi đây, một làng núi đầu nguồn sông Trà,
trên nhánh phụ lưu Cẩm Thuỷ. Anh thừa hưởng phần nào khí thiêng núi
rừng, hơi thở con hươu, cái nh́n con nai, mai mù sương, chiều cơn
giông núi, tiếng chim đêm kêu mơ. Hoang sơ nuôi anh. Rừng thẳm dạy
anh. Rồi anh xuống đồng bằng. Rồi anh ra thế giới. Đất xanh màu lá,
sông xanh màu trời, cho anh cái bát ngát mộng mơ, cái bàng hoàng rất
ư minh triết và nhân ái của một thi sỹ giữa cuộc đời.
Anh được cái mầm ân sủng của miền kỳ vĩ núi Ấn sông Trà, thừa hưởng
từ Vô, lẫn Hữu h́nh ấy, từ cái “Đục – Trong rạch ṛi.” Mang
cái trong vắt tâm linh trí huệ đi cùng cái khí hậu nhân gian đục
ngầu đương nhiên phải đục, bản thể của tục luỵ. Tất cả, từ ngọn cỏ
Quê Nhà đến h́nh tượng Nữ Thần Tự Do nơi xứ sở thứ Hai anh đang tạm
dung / cư ngụ 45 năm, đă tụ gom, h́nh thành một Thi sỹ Vơ Thạnh Văn
Hôm Nay.
Bồ Đề Cốc, Gia Định
Tháng 12, 2014.
VƠ THẠNH VĂN:
SINH QUÁN:
– Quận Sơn Tịnh
– Tỉnh Quảng Ngăi,
– Năm Mậu Tư.
– Hiện cư ngụ tại California (USA)
HỌC VẤN & GIÁO DỤC:
– Trung Học Pellerin, Huế
– TH Trần Quốc Tuấn, QN
– Đại Học LUẬT KHOA, Huế
– Đại Học HUNTINGON, Alabama
– Đại Học UTA, Texas
NHIẾP ẢNH:
Các sáng tác nhiếp ảnh được post trên:
– art2all.net
– nghiathuc.com
– vietluan.net
– hoiquantramhuong.net
– vuontaongo.net
– antsacramento.blogspoters
– sangtao.org
– phuhu.net
THI CA:
5 bộ Hùng Sử Thi:
2 bộ trường thi:
– 10,000 câu lục bát Kinh Vô Thường
– 10,000 câu thơ ngũ ngôn Kinh Vô Tự
– (Chưa xuất bản tác phẩm nào, chỉ phổ biến hạn chế trên một số
Websites văn học trên các Đặc San thân hữu).
LIÊN LẠC:
vothanhvan2000@gmail.com
phuhudatsi.phds@yaoo.com
Giới thiệu Kinh Vô Thường
trang
Vơ Thạnh Văn
art2all.net |