Biên dịch : Đỗ Tư Nghĩa
Vâng, tôi là sự khởi đầu
của một cái ǵ đó mới mẻ
OSHO
LỜI
NÓI ĐẦU
Nhiều lần Osho được hỏi, tại sao ông không viết một tự truyện, hay ít
nhất, cho phép một loạt những cuộc phỏng vấn, để cho một ai khác có thể
chấp bút viết một bản tường thuật lịch sử (historical account) về đời
ông. Ông thường xua tay gạt đi những câu hỏi này. Ông thường nói, những
chân lư phi thời gian mới là quan trọng, chứ không phải là những mẩu cắt
ra từ nhật báo, mà chúng ta thu thập và gọi là “lịch sử.” Hoặc, ông
thường nói, tiểu sử của ông phải được t́m thấy trong tổng số tác phẩm
của ông – trong hằng trăm những tập sách được xuất bản, ghi lại những
bài nói chuyện của ông, và trong những cuộc đời được chuyển hoá - những
người mà ông đă “chạm đến” (touched).
Tuy nhiên, tâm trí con người khao khát muốn hiểu ư nghĩa của những biến
cố xảy ra trong thời gian. Chúng ta muốn nắm bắt một bối cảnh (context )
mà trong đó chúng ta có thể tự thuyết phục ḿnh rằng chúng ta hiểu ư
nghĩa của những điều đă xảy ra – nhất là khi những “cái xảy ra”
(happenings) này có vẻ như mâu thuẫn, gây thảng thốt, bất thường. Tập
sách này là một sự thừa nhận rằng, thời gian đă chín muồi cho việc cung
cấp cái bối cảnh đó, để hiểu Osho và sự nghiệp của ông. Mười năm [1] đă trôi qua kể từ khi Osho chuẩn bị cho việc rời bỏ cái thân xác đă phục vụ ông 59 năm – như lời bác sĩ riêng của ông - “một cách b́nh thản, như thể ông đang chuẩn bị hành lư cho một kỳ nghỉ cuối tuần ở vùng quê.” Xét về mặt thực tế, th́ chất liệu cho cuốn tự truyện này có lẽ đă không được thu thập, nếu không có khoảng cách 10 năm đó, và những thay đổi sâu xa vốn là hệ quả của nó. Từ khi Osho chuẩn bị hành lư cho “kỳ nghỉ cuối tuần ở vùng quê,” th́ cả CNN lẫn Internet đă ra đời.
[1] Cuốn Tự Truyện này
xuất bản lần đầu tiên vào năm 2000. Osho mất vào năm 1990. Xin lưu ư
bạn đọc: TẤT CẢ NHỮNG GHI CHÚ TRONG BẢN DỊCH NÀY ĐỀU LÀ CỦA NGƯỜI
DỊCH (trừ những chỗ có GHI RƠ là của nguyên tác Anh ngữ). Cũng xin
nói rơ, rằng những GHI CHÚ NÀY CHỈ CÓ MỘT SỐ MỤC ĐÍCH SAU ĐÂY:
|
Cái “thị kiến không
tưởng” [2] mà Osho đă thường hay nói tới – về một thế giới không có những
chia cắt về ranh giới quốc gia, về sắc tộc hay tôn giáo, giới tính hay
tín điều – th́ bây giờ ít ra cũng có thể tưởng tượng được, ngay cả nếu
nó chưa là một hiện thực. Thiền định - mà Osho nhấn mạnh trở đi trở lại,
và nằm ở chính cốt lơi thông điệp của ông - không chỉ là mối quan tâm bí
hiểm (obscure) và khó hiểu (puzzling) của một vài kẻ lập dị
(eccentrics), mà đă trở nên ngày càng được công nhận v́ cái tiềm năng
của nó trong việc mang đến lợi lạc cho mọi người, từ những ủy viên hội
đồng quản trị (executive) doanh nghiệp bị stress nặng, cho đến những
bệnh nhân ung thư. Nói khác đi, mặc dù, không nghi ngờ ǵ nữa, Osho vẫn
là một người đi trước thời đại của ḿnh, thời đại ít rađđă bắt kịp ông,
đủ để cho có thêm nhiều người thấu hiểu (comprehend) cái “tầm nh́n xa”
(perspective) và cái nhăn quan vô song (unique) của ông.
Trên một cấp độ thực tiễn hơn, thời gian và khoa học kỹ thuật đă cho
phép những người lưu giữ sự nghiệp đồ sộ của ông số-hoá
(digitize) [3] và
đưa vào nghiên cứu những bài nói chuyện được ghi âm của ông (gần 5000
giờ) bằng Anh ngữ, cọng thêm hằng trăm những bài nói chuyện khi chúng
được dịch từ tiếng Hindi. Điều này có nghĩa là, trong ṿng vài giây đồng
hồ, người ta có thể biết rằng trong những bài nói chuyện này, Osho dùng
những biến thể của từ “meditation” (thiền định) 25 ngàn lần, và từ
“love” (t́nh yêu) gần 42 ngàn lần. Những biến thể của từ “sex” (t́nh dục),
được xem là một chủ đề “khó coi” (unseemly) khi một nhà thần bí nói về
nó vào những năm ‘ 60 (của thế kỷ 20) tại Ấn độ, xuất hiện đúng 9.300
lần – nhiều hơn 2000 lần, so với việc đề cập tới chính trị và chính trị
gia.
Dĩ nhiên, việc nghiên cứu – trong số tài liệu đồ sộ ấy - để t́m ra những
chỗ mà Osho trực tiếp nói về đời tư của ḿnh, đ̣i hỏi nhiều trí tuệ con
người hơn là phần mềm của máy computer có thể cung cấp. Nếu không có 3
năm đặc biệt dành riêng cho nhiệm vụ đó, th́ cuốn sách này đă không thể
ra đời. Và sau cùng, xây dựng một tự truyện từ tài liệu có được – một tự
truyện tôn vinh tri kiến (understanding) của Osho về tầm quan trọng của
chân lư (truth) so với (versus) sự kiện (fact), về cái phi thời gian so
với cái khoảnh khắc (tạm thời) – đ̣i hỏi một ḷng sốt sắng liều lĩnh để
đảm nhận cái bất khả.
Thí dụ: Trong một
số năm sau khi tốt nghiệp đại học, Osho dạy triết học. Cái tâm trí ưa
lấy sự kiện làm tiêu chí để xếp loại (fact – oriented mind) dán cho ông
nhăn hiệu giáo sư triết học, để rồi tự thỏa măn rằng, ḿnh biết một cái
ǵ đó quan trọng về ông. Riêng về phần ông, th́ Osho cũng đă có thể là
một thợ đóng giày, hay một thợ mộc. Điều quan trọng không phải là cái mà
ông làm, mà là việc ông là ai. Cái tâm trí ưa lấy sự kiện làm định hướng,
muốn định nghĩa con người qua cái mà họ làm, hơn là qua việc họ là ai;
qua những vật sở hữu mà họ chiếm được trong đời, hơn là những tri kiến
(understandings) mà họ mang theo với họ khi họ qua đời. Nhưng cái mối
quan tâm cốt tủy của Osho chính là chiều kích của là
[4] (being) – không
phải là chiều kích của làm (doing) hay có (having). Chừng nào mà chúng
ta c̣n phán đoán dựa trên những giá trị riêng của ḿnh về “làm” và “có”,
để rồi quá xem trọng những biến cố bên ngoài của đời ông, th́ chúng ta
nhất thiết sẽ hiểu lầm ông. Nhưng, đặt sang một bên những chân lư phi thời gian, sự thực là Osho đă tự rèn luyện ḿnh không phải để đóng giày hay làm đồ đạc, mà là để tự biểu hiện ḿnh qua lời nói. Cả những bạn bè ông lẫn kẻ thù ông đều đồng ư rằng, ông làm việc này với tài hùng biện, với tuệ giác (insight), và tính hài hước (humor) khác thường. Việc chọn những từ đúng để tái hiện cuộc đời ông có thể là khả dĩ, thậm chí dễ dàng, nếu Osho đă có một triết lư nhất quán (consistent) mà ông đang cố dạy mọi người. Nhưng ông không hề có một triết lư như vậy. Có lẽ việc ấy đă có thể được, nếu ông đă là thành phần (part) của một truyền thống mà ông đang cố ǵn giữ (uphold), hoặc tuyên bố rằng, ông là một loại thiên sứ hay nhà tiên tri đă giáng thế để sáng lập ra một truyền thống mới. Không có ǵ xa với sự thật hơn. Trái lại, một cách lặp đi lặp lại, ông nhấn mạnh rằng, ông không những không là thành phần của bất cứ truyền thống nào, mà ông c̣n làm mọi thứ có thể được – trong khả năng của con người – để ngăn cản việc sáng tạo ra một truyền thống xung quanh ông một khi ông đă ra đi.
Do vậy, những ḍng chữ trong tập sách này không
được dự định – không thể, bởi v́ đây chỉ là một tự truyện, như chính cái
nhan đề của nó – là câu trả lời dứt khoát cho câu hỏi: “ Osho là ai?”
Đúng hơn, đây chỉ là một “hướng dẫn viên” (guide) cho một cuộc truy tầm
tương lai về câu hỏi đó, trong bối cảnh của cái phi thời (timeless),
cũng như cái hợp thời (timely), trong cái bối cảnh của “là” (being) cũng
như “làm” (doing). Sau cùng, Osho nói, chúng ta sẽ đi tới chỗ biết ông
là ai, chỉ khi nào chúng ta đi tới chỗ biết chúng ta là ai. Khi trao cho
chúng ta sự thách thức đó, ông mời chúng ta học từ cuộc đời ông cái mà
chúng ta có thể. Nhưng việc học hỏi từ đời ông chỉ thực sự có ư nghĩa,
là khi nó động viên chúng ta học hỏi nhiều hơn về chính ḿnh.
[2]
Utopian
vision: “thị kiến không tưởng.” Từ “thị kiến” tôi mượn của Nguyễn Duy
Cần trong “Tinh hoa đạo học Đông Phương”, trong đó ông dịch
“vision déformée” là “thị kiến méo mó.” Từ “vision” trong tiếng Pháp
cũng có một số nghĩa tương tự như từ “vision” trong tiếng Anh. “Diễn nôm”
ra, th́ “vision” có nghĩa là “tầm nh́n, cái nh́n, nhăn quan …” [3] Digitize: số hóa; chuyển thành văn bản điện tử
[4] Đây là 3 phạm trù quan trọng trong triết học của Gabriel Marcel, triết gia hiện sinh hữu thần Pháp. 3 phạm trù đó là: Être (là), Avoir (có), Faire (làm).
|