Biên dịch : Đỗ Tư Nghĩa
PHẦN I:
Từ một cuộc phỏng vấn với Robert Green, Santa Anna
Register, Orange County, California. [1] Human being: con người. Dịch như trên để theo sát cách dùng từ của Osho hơn. Độc giả cần lưu ư: cụm từ “hữu thể người” có tính khái quát cao hơn từ “con người.” Bởi v́ từ “hữu thể” (being) dùng để chỉ tất cả những ǵ “hiện hữu” : vật vô tri giác, và cả vật có sự sống (thảo mộc, thú vật, con người)…
|
CHƯƠNG I
Tôi chưa bao giờ là người “tâm linh” (spiritual) theo cái nghĩa mà bạn
thường hiểu. Tôi chưa bao giờ đi lễ đền, hoặc đi nhà thờ, hoặc đọc kinh
điển, hoặc theo những pháp môn tu tập (practice) nào đó để t́m ra chân
lư, hoặc phụng thờ Thượng đế, hoặc nguyện cầu Thượng đế. Đó không phải
là cách của tôi chút nào. Do vậy, chắc chắn bạn có thể nói, rằng tôi
không đang làm một cái ǵ “tâm linh.” Nhưng đối với tôi, tính tâm linh
(spirituality) có một nội dung (connotation) hoàn toàn khác. Nó cần một
tính cá thể (individuality) trung thực. Nó không chấp nhận bất cứ loại
lệ thuộc nào. Nó tạo ra một sự tự do cho chính ḿnh, bất luận phải trả
giá nào. Nó không bao giờ ở giữa đám đông, nhưng một ḿnh, bởi v́ đám
đông chưa bao giờ t́m thấy bất cứ chân lư nào. Chân lư đă từng được t́m
thấy chỉ trong sự cô độc của con người.
*
Do vậy, tính tâm linh, theo quan niệm của tôi, có một nghĩa khác với ư
tưởng của bạn về nó. Những câu chuyện về thời thơ ấu của tôi, nếu bạn có
thể hiểu chúng, sẽ trỏ vào tất cả những phẩm chất (quality) này trong
cách này hay cách khác. Không ai có thể gọi chúng là tâm linh. Tôi gọi
chúng là “tâm linh” bởi v́ với tôi, chúng đă cho con người tất cả những
ǵ mà họ có thể hoài vọng đạt tới.
Trong khi lắng nghe những câu chuyện tuổi thơ của tôi, bạn nên cố t́m
phẩm chất nào đó – không chỉ là câu chuyện, mà phẩm chất nội tại
(intrinsic) nào đó - nó chạy như một sợi chỉ mỏng qua suốt tất cả những
tự thuật (memoir) của tôi. Và cái sợi chỉ mỏng đó là “tính tâm linh.”
Tính tâm linh, đối với tôi, chỉ đơn giản có nghĩa là t́m kiếm
[2] (finding) chính ḿnh. Tôi không bao giờ cho phép bất cứ ai làm công việc này thay
tôi – bởi v́ không ai có thể làm công việc này thay cho bạn; bạn phải tự
làm lấy cho ḿnh.
__________________
* Nếu đọc kỹ Osho,
ta thường xuyên gặp những câu nói có tính khái quát rất cao, có thể trở
thành “danh ngôn.” [2] To find: t́m kiếm (cái đă mất). Cũng c̣n có nghĩa là “t́m thấy”.
|
1931 - 1939
Tôi nhớ lại ngôi làng nhỏ nơi tôi ra đời. Tại sao sự hiện hữu
[3](existence) lại chọn ngôi làng nhỏ đó, trước hết, th́ không thể giải
thích được. Nó xảy ra như nó phải thế. Đó là một ngôi làng đẹp. Tôi đă
du hành rộng khắp, nhưng tôi chưa bao giờ t́nh cờ gặp lại cái vẻ đẹp ấy
một lần nữa. Người ta không bao giờ gặp lại cái y như cũ (the same).
Những sự thể đến và đi, nhưng chúng không bao giờ nguyên như cũ.
Tôi có thể h́nh dung lại ngôi làng nhỏ, tĩnh mịch (still) đó. Chỉ có vài
túp lều gần một cái ao, và một vài cây cao nơi mà tôi thường chơi đùa.
Không có trường học nào trong làng. Điều đó là hết sức quan trọng, bởi
v́ tôi nằm trong t́nh trạng không được học hành (uneducated) trong thời
gian gần 9 năm, mà đó là những năm quan trọng nhất cho việc h́nh thành
tính cách (most formative years). Sau đó, cho dẫu bạn cố gắng, bạn cũng
không thể “được” giáo dục. Do vậy, trên một phương diện, tôi vẫn không
“được” giáo dục, mặc dù tôi có nhiều học vị – và không chỉ là bất cứ học
vị nào, mà là một bằng M.A hạng nhất. Bất cứ gă khùng nào cũng có thể
làm cái đó; quá nhiều gă khùng làm việc đó hằng năm, đến nỗi nó không
c̣n ư nghĩa ǵ nữa. Cái có ư nghĩa, là trong những năm đầu tiên của đời
ḿnh, tôi đă không “bị” [4] giáo dục. Không có trường học, không đường sá,
không đường xe lửa, không bưu điện. Thật là một phúc lành! Cái làng nhỏ
đó tự ḿnh là một thế giới [5]. Ngay cả trong nhiều lần ở xa ngôi làng đó,
tôi vẫn ở trong thế giới đó, không “bị” giáo dục.
Và tôi đă gặp hằng triệu người, song những
người dân của làng đó th́ chất phác hơn bất cứ ai, bởi v́ họ rất bán
khai. Họ không biết ǵ về thế giới. Thậm chí, cũng chưa bao giờ có lấy
một tờ nhật báo vào làng đó – bây giờ bạn có thể hiểu tại sao không có
trường học nào. Thậm chí, không có lấy một trường tiểu học – thật là một
phúc lành! Không một đứa trẻ hiện đại (modern) nào có thể có được cái
“may mắn” đó. (No modern child can afford it).
Trong quá khứ, có những đứa trẻ kết hôn trước khi chúng lên mười. Đôi
khi, có những đứa trẻ đă kết hôn thậm chí khi chúng c̣n nằm trong bụng
mẹ. Hai người bạn thường quyết định, “ Vợ chúng ta đang mang thai, vậy,
nếu một người sinh con trai, và người kia sinh con gái, th́ chúng ḿnh
kết thông gia.” Không hề có vấn đề hỏi ư kiến bé trai hay bé gái; chúng
chưa ra đời! Nhưng nếu một đứa là trai, và đứa kia là gái, th́ hôn sự
được giải quyết. Và người ta giữ lời của họ.
Chính mẹ tôi kết hôn khi bà lên bảy. Cha tôi th́ chưa tới chín tuổi, và
ông không hiểu cái ǵ đang xảy ra. Tôi thường hỏi ông, “ Điều có ư nghĩa
nhất – mà cha khoái chí - trong đám cưới của ḿnh là ǵ?”
Ông nói, “ Cỡi một con ngựa.” Thật là tự nhiên! Lần đầu tiên ông được ăn
vận như một vị vua, với một con dao treo lủng lẳng cạnh sườn, và ông
ngồi trên một con ngựa trong khi mọi người đi bộ xung quanh ông. Ông
khoái chí hết sức. Đó là cái mà ông khoái nhất trong đám cưới của ḿnh.
Tuần trăng mật là điều không thể có. Bạn sẽ đưa một cậu trai 10 tuổi và
một bé gái 7 tuổi đi hưởng tuần trăng mật ở đâu? Do vậy, tại
Ấn độ,
tuần trăng mật không bao giờ có, và trong quá khứ, không nơi nào khác
trên thế giới có chuyện đó.
Khi cha tôi mười tuổi, và mẹ tôi bảy tuổi, th́ bà nội tôi mất. Sau hôn
lễ, có lẽ một hay hai năm sau đó, toàn bộ trách nhiệm đổ lên vai mẹ tôi,
bà chỉ mới lên chín. Bà nội tôi đă để lại hai đứa bé gái , và hai bé
trai. Do vậy, có bốn đứa trẻ, và trách nhiệm chăm sóc chúng đổ lên vai
một bé gái chín tuổi, và một cậu trai mười hai tuổi. Ông nội tôi không
bao giờ thích sống trong thành phố, nơi mà ông có một cửa tiệm. Ông yêu
vùng quê, và khi bà nội tôi mất, ông hoàn toàn tự do. Chính phủ thường
cấp đất cho dân, bởi v́ có quá nhiều đất và không có nhiều người canh
tác. Do vậy, ông tôi có 50 mẫu đất từ chính phủ, và ông chuyển nhượng
toàn bộ cửa tiệm cho con cái ḿnh – cha tôi và mẹ tôi – lúc ấy cha tôi
chỉ mới có 12 tuổi, c̣n mẹ tôi th́ 9 tuổi. Ông ưa thích dựng một khu
vườn, xây một nông trại, và ông thích sống ở nơi không khí thoáng đăng.
Ông ghét thành phố.
Cho nên, cha tôi không bao giờ có được bất cứ kinh nghiệm nào về tự do
của những người trẻ hôm nay. Ông không bao giờ trở nên một thanh niên
trong cách đó. Trước khi ông có thể trở nên một thanh niên, ông đă già
giặn, phải chăm sóc những đứa em trai, em gái và trông coi cửa tiệm. Và
ở tuổi 20, ông đă sắp xếp việc hôn nhân cho những đứa em gái, lo việc
học hành và cưới vợ cho những đứa em trai của ḿnh. Tôi chưa bao giờ gọi mẹ tôi là “Mẹ,” bởi v́ trước khi tôi ra đời, bà đang chăm sóc bốn đứa trẻ, chúng thường gọi bà là bhabhi. Bhabhi có nghĩa là “vợ của anh trai” (chị dâu) . Và bởi v́ bốn đứa trẻ đang gọi mẹ tôi là bhabhi, tôi cũng bắt đầu gọi bà là bhabhi. Tôi đă học cái danh xưng đó ngay từ đầu, khi bốn đứa trẻ gọi bà như vậy.
_____________________________
[3] Existence: Sự hiện hữu; sự “tồn tại.”
Đây cũng là một từ mà Osho ưa dùng. Nó có ư nghĩa rất bao la., rất
thiêng liêng.
[4] Về sau, bạn đọc sẽ biết, tại sao tôi dùng từ “bị”. Thật ra, Osho không
phê phán “sự giáo dục” nói chung; ông chỉ phê phán những “nền giáo dục”
hiện hành, tại Ấn độ và khắp thế giới ; theo Osho, chúng không “giải
phóng” con người, mà chỉ “nô lệ hóa” con người theo những “khuôn mẫu”
nào đó. Thông điệp cốt tủy của Osho: giải phóng con người ra khỏi mọi
h́nh thức nô lệ - bất luận nó thuộc lănh vực nào ( tôn giáo, ư thức hệ,
chính trị, kinh tế, xă hội …)
[5] Ư nói, ngôi làng này tách biệt hẳn “thế giới văn minh” ở bên ngoài –
xem như bên ngoài nó không có “thế giới” nào nữa. |
* * * * * * * * * * *
Tôi được nuôi nấng bởi ông bà ngoại tôi
[6]. Hai vị ở một ḿnh và muốn (có)
một đứa trẻ để vui cửa vui nhà trong những ngày cuối đời của họ. Do vậy,
cha mẹ tôi đồng ư: Tôi là đứa con trai cả, đứa con đầu ḷng; tôi được
gởi đến sống với ông bà ngoại.
Tôi không nhớ bất cứ mối quan hệ nào với gia đ́nh cha tôi trong những
năm đầu tiên của thời thơ ấu của ḿnh. Tôi đă trải qua những năm bé dại
với ông bà ngoại tôi và một người lăo bộc già - ông ta rất đẹp lăo. Ba
người này… và khoảng cách th́ quá lớn, nên tôi hoàn toàn cô độc. Họ đều
đă già, họ không phải là bè bạn, không thể là bè bạn của tôi. Và tôi
không có ai khác để làm bạn, bởi v́ trong ngôi làng đó gia đ́nh tôi là
giàu nhất; và ngôi làng th́ lại quá nhỏ - tổng cọng không quá 200 người
– và quá nghèo, đến nỗi ông bà tôi thường không cho phép tôi chơi chung
với lũ trẻ trong làng. Chúng bẩn thỉu, và dĩ nhiên, chúng gần như là
những đứa ăn xin. Cho nên, không cách nào để có bạn. Cái đó tạo ra một
ảnh hưởng lớn. Trong suốt đời ḿnh, tôi chưa từng biết ai là bạn. Vâng,
tôi có những người quen biết.
Trong những năm đầu tiên sớm sủa ấy, tôi quá cô đơn (lonely), đến mức
tôi bắt đầu ưa thích nó (sự cô đơn) – và nó thực sự là một niềm vui. Cho
nên nó không phải là một sự nguyền rủa đối với tôi, nó cho thấy đó là
một phúc lành. Tôi bắt đầu ưa thích nó, và tôi bắt đầu cảm thấy tự đủ;
tôi không lệ thuộc vào bất cứ ai.
Tôi chưa bao giờ quan tâm đến những tṛ chơi, v́ lư do đơn giản, là ngay
từ thuở ấu thơ, không có cách nào để chơi; không có ai để chơi cùng. Tôi
vẫn có thể h́nh dung chính tôi trong những năm thơ ấu đó: chỉ ngồi một
ḿnh. Ngôi nhà tọa lạc tại một địa điểm đẹp, ngay đằng trước một cái hồ.
Nó trải ra xa nhiều dặm … và nó quá đẹp và quá yên tĩnh. Chỉ thỉnh
thoảng bạn mới thấy một đàn sếu trắng đang bay, hay cất lên những tiếng
kêu gọi t́nh, và sự thanh b́nh sẽ bị khuấy động; nếu không, th́ đó là
nơi lư tưởng nhất cho việc thiền định. Thỉnh thoảng một tiếng chim gọi
t́nh khuấy động sự thanh b́nh (peace) … sau tiếng gọi của nó, sự thanh
b́nh lại càng sâu thêm. Cái hồ đầy hoa sen, và tôi thường ngồi hằng giờ, quá tự hài ḷng (self – content), như thể thế giới (bên ngoài) không thành vấn đề; những hoa sen, những con sếu trắng, sự tĩnh mịch …
Và
ông bà ngoại tôi trở nên rất ư thức về một điều – rằng tôi rất ưa thích
sự cô độc của ḿnh. Họ đă thấy rằng, tôi không hề ao ước đi vào làng để
gặp bất cứ ai, hay nói chuyện với bất cứ ai. Cho dù họ muốn nói chuyện,
th́ những câu trả lời của tôi chỉ là “vâng” ” và “không”; tôi cũng không
quan tâm đến việc nói chuyện nữa. Họ trở nên ư thức về một điều – rằng
tôi ưa thích sự cô độc của ḿnh, và bổn phận thiêng liêng của họ, là
không quấy rầy tôi.
Do vậy, trong 7 năm liên tục, không ai cố làm hỏng (corrupt) sự hồn
nhiên của tôi; không có ai cả. Ba người già này, sống trong nhà -người
lăo bộc và ông bà ngoại tôi - tất cả họ đều che chở tôi trong mọi cách
có thể được, sao cho đừng ai quấy rầy tôi. Quả thực, khi tôi lớn lên,
tôi bắt đầu cảm thấy một chút áy náy, rằng v́ tôi mà họ đă không thể
chuyện tṛ, họ đă không thể (sống) b́nh thường như mọi người khác. B́nh
thường, người lớn thường nói, “ Hăy im nào, cha đang suy nghĩ, ông (bà)
đang nghỉ ngơi. Hăy im nào, hăy ngồi im.” Trong thời thơ ấu của tôi, sự
thể đă xảy ra một cách ngược lại. Bây giờ tôi không thể trả lời tại sao
và như thế nào; nó chỉ đơn giản đă xảy ra. Cái công lao (credit) đó
không thuộc về tôi.
Tất cả những người già này đều đang ra dấu cho nhau: “Đừng quấy rầy nó –
nó đang rất thích thú.” Và họ bắt đầu yêu thích sự im lặng của tôi.
Sự im lặng có tần số rung động (vibe) của nó; nó dễ lây lan,
(infectious), nhất là sự im lặng của một đứa trẻ không bị cưỡng bách:
không phải là bởi v́ nó bị đe nẹt, “Ta sẽ đánh con, nếu con gây phiền hà
hay làm ồn.” Không, đó không phải là sự im lặng. Nó sẽ không tạo ra sự
rung động vui sướng mà tôi đang nói về, khi một đứa trẻ tự ḿnh im lặng,
yêu thích nó mà không có lư do; niềm hạnh phúc của nó là không nguyên
nhân. Cái đó tạo ra những gợn sóng lớn lan tỏa khắp xung quanh.
Cho nên, do một sự t́nh cờ ngẫu nhiên, mà trong suốt bảy năm, tôi không
hề bị ai quấy rầy – không ai cằn nhằn, chuẩn bị cho tôi vào thế giới của
kinh doanh (business), chính trị, ngoại giao. Ông bà ngoại tôi quan tâm
hơn đến việc để cho tôi được tự nhiên như có thể được – nhất là bà ngoại
tôi. Bà là một trong những nguyên nhân – những điều nhỏ nhặt này ảnh
hưởng đến toàn bộ mẫu mực sống của bạn – đă tạo ra cho tôi niềm kính
trọng đối với toàn bộ nữ giới. Bà là một người phụ nữ chất phác (simple
- giản dị), không được học hành, nhưng vô cùng nhạy cảm. Bà làm rơ với
ông tôi và người lăo bộc: “ Tất cả chúng ta đều đă sống một loại cuộc
sống mà đă không đưa chúng ta tới đâu cả. Chúng ta vẫn trống rỗng như
bao giờ, và bây giờ cái chết đang đến gần.” Bà nhấn mạnh, “Hăy để cho
đứa bé này không bị ảnh hưởng bởi chúng ta. Chúng ta có thể có ảnh hưởng
ǵ nào ? Chúng ta chỉ có thể khiến cho nó giống như chúng ta, mà chúng
ta th́ chả là ǵ cả. Hăy cho nó một cơ hội được là chính ḿnh.”
Ông ngoại tôi – tôi nghe họ bàn bạc trong đêm, nghĩ rằng tôi đang ngủ –
thường nói với bà, “ Bà đang bảo tôi làm điều này và tôi đang làm nó;
nhưng mà thằng bé là con trai của người khác, và chẳng sớm th́ muộn, nó
phải về với cha mẹ nó. Họ sẽ nói ǵ? ‘ Ông bà đă không dạy cháu một chút
xíu nào về phép lịch sự, (manner) về phép xă giao, (etiquette) nó hoàn
toàn hoang dă’.”
Bà nói, “ Đừng lo lắng về chuyện đó. Trên toàn thế giới, mọi người đều
bị “văn minh hoá” (civilized) – người ta được cái ǵ từ đó? Tối đa th́
cha mẹ nó sẽ giận chúng ta. Vậy th́ đă sao nào? Cứ để cho họ giận. Họ
không thể làm ǵ đến chúng ta, và vào lúc đó, đứa bé này sẽ đủ mạnh mẽ
đến mức họ không thể thay đổi ḍng đời của nó.”
Tôi vô cùng biết ơn bà cụ đó. Ông tôi th́ thỉnh thoảng lại lo lắng rằng,
chẳng sớm th́ muộn, ông sẽ phải chịu trách nhiệm: “ Họ sẽ nói, ‘Chúng
con giao nó cho ông bà, và ông bà chả dạy nó cái ǵ cả.’”
Bà tôi thậm chí không cho phép thuê một gia sư. Có một người đàn ông
trong làng, ông ta ít nhất có thể dạy tôi kiến thức sơ đẳng về ngôn ngữ,
toán, một chút địa lư. Ông chỉ mới học đến lớp bốn - “lớp bốn thấp nhất,”
(the lowest four) như tại Ấn người ta gọi bậc tiểu học – nhưng ông là
người được học hành nhiều nhất tại thị trấn đó. Ông tôi năn ni’: “ Ông
ta có thể đến và ông ta có thể dạy nó. Ít nhất, nó sẽ biết cách đánh vần,
một chút toán, để khi nó về lại với cha mẹ nó, họ sẽ không bảo rằng, bảy
năm của thằng bè đă hoàn toàn bị lăng phí.”
Nhưng bà tôi nói, “ Hăy để cho họ làm bất cứ cái ǵ mà họ muốn làm sau
bảy năm. Trong bảy năm, thằng bé phải là bản ngă tự nhiên (natural self)
của nó, và chúng ta sẽ không can thiệp vào.” Và luận cứ của bà luôn luôn
là, “Ông biết cách đánh vần, th́ sao nữa? Ông biết toán, th́ sao nữa ?
Ông đă kiếm một ít tiền; ông có muốn nó cũng kiếm một ít tiền và sống
hệt như ông?”
Chừng đó là đủ để giữ cho ông già đó im lặng. Phải làm ǵ? Ông bị kẹt,
bởi v́ ông không thể biện luận (argue) – và ông biết rằng, ông sẽ phải
nhận chịu trách nhiệm, chứ không phải bà, bởi v́ cha tôi thường hỏi ông,
“ Cha đă làm ǵ”. Và thực ra, cái đó có lẽ đă xảy ra, nhưng may thay,
ông mất trước khi cha tôi kịp hỏi.
Về sau, cha tôi luôn nói, “ Ông cụ (phải) chịu trách nhiệm, cụ đă làm
hỏng thằng bé.” Nhưng bấy giờ tôi đă đủ mạnh, và tôi làm rơ ra với ông:
“ Trước mặt con, xin đừng nói một lời nào chống lại ông ngoại. Ông đă
cứu thoát con khỏi bị cha mẹ làm hỏng – cái đó là mới là nguyên nhân
chính khiến cha tức giận. Nhưng cha c̣n những đứa con khác - cha cứ làm
hỏng họ, và cuối cùng, cha sẽ thấy là ai bị làm hỏng.”
Ông có những đứa con khác, và ngày càng nhiều thêm những đứa trẻ ra đời.
Tôi thường trêu ông, “ Xin làm ơn mang đến thêm một đứa, cho đủ một tá.
Mười một đứa con ? Người ta hỏi, ‘ Bao nhiêu đứa con
? Mười một có vẻ
không tṛn trịa; một tá th́ ấn tượng hơn’.” Và trong những năm về sau,
tôi thường nói với ông, “Cha hăy tiếp tục làm hỏng tất cả những đứa con
của cha đi; con th́ hoang dă, (wild) và con sẽ vẫn măi hoang dă.” Một
cách nào đó, tôi vẫn ở ngoài cái ṿng cương tỏa (grip) của văn minh. ________________________________
[6] Đây là một chi tiết hết sức quan trọng, nó góp phần rất lớn trong việc tạo nên một “Osho nổi loạn” về sau.
|
* * * * * * * * * * * *
Ông ngoại tôi là một người hào phóng. Ông nghèo, nhưng rất giàu sự hào
phóng. Ông cho mỗi người và mọi người bất cứ cái ǵ mà ông có. Tôi đă
học nghệ thuật “cho” từ nơi ông; tôi không bao giờ thấy ông nói “không”
với người hành khất nào, hay bất cứ ai.
Tôi gọi ông là Nana; đó là cách mà tại
Ấn người ta gọi người cha của mẹ
ḿnh. Bà ngoại, được gọi là Nani. Tôi thường hỏi ông tôi, “ Nana, ông
kiếm ở đâu một người vợ xinh đẹp như thế?” Những đường nét của bà không
có vẻ Ấn độ, bà giống người Hy lạp, và bà là một phụ nữ mạnh mẽ, rất
mạnh mẽ. Khi ông ngoại tôi mất, bà chưa quá 50. Bà ngoại tôi sống đến
80, và bà hoàn toàn khỏe mạnh. Ngay cả lúc đó, không ai nghĩ rằng bà sắp
chết. Tôi hứa với bà một điều, rằng, khi bà mất tôi sẽ về. Và đó là lần
viếng thăm cuối cùng của tôi dành cho gia đ́nh – bà mất vào năm 1970.
Tôi phải chu toàn lời hứa của ḿnh.
Trong những năm đầu tiên của đời ḿnh, tôi biết bà ngoại tôi như là mẹ
ḿnh; đó là những năm khi mà người ta bắt đầu phát triển. Người mẹ đẻ
của tôi đến sau đó; lúc ấy tôi đă lớn lên, đă h́nh thành một phong cách
sống nhất định. Và bà ngoại tôi đă giúp tôi hết sức nhiều. Ông ngoại tôi
yêu thương tôi, nhưng không thể giúp tôi nhiều. Ông dành cho tôi nhiều
mến thương, nhưng muốn giúp đỡ, th́ phải cần thêm nhiều thứ – một loại
sức mạnh nào đó. Ông luôn luôn sợ bà tôi. Theo một nghĩa nào đó, th́ ông
là người sợ vợ. Nhưng mà ông thương yêu tôi, ông giúp đỡ tôi … tôi có
thể làm ǵ nếu ông là một người chồng sợ vợ?
99.9 % [7] những ông chồng
đều sợ vợ. Cho nên, cũng không sao cả.
Tôi có thể hiểu ông tôi, và sự rắc rối mà những tṛ nghịch ngợm của tôi
đă gây ra cho ông. Suốt ngày ông thường ngồi trên cái gaddi
[8] của ḿnh,
ít lắng nghe những khách hàng của ông cho bằng lắng nghe những kẻ than
phiền! Nhưng ông thường nói với họ: “ Tôi sẵn sàng bồi thường cho bất cứ
thiệt hại nào mà thằng bé đă gây ra, nhưng hăy nhớ, tôi sẽ không phạt nó.”
Có lẽ chính sự kiên nhẫn của ông đối với tôi, một đứa trẻ nghịch ngợm …
ngay cả tôi cũng không thể tha thứ nó. Nếu một đứa trẻ giống như thế
được giao cho tôi trong nhiều năm … trời đất ơi! Thậm chí trong vài phút,
hẳn tôi sẽ ném nó ra khỏi cửa măi măi. Có lẽ những năm đó tạo ra một
phép lạ cho ông tôi; sự kiên nhẫn to lớn đó phải trả giá. Ông trở nên
ngày càng im lặng hơn. Tôi thấy nó tăng trưởng lên từng ngày. Thỉnh
thoảng tôi thường nói, “ Nana, ông có thể phạt con. Ông không cần phải
quá khoan dung như thế.” Và, bạn có tin được không, ông thường khóc!
Nước mắt ông chảy ra, và ông thường nói, “Phạt con ư? Ta không thể làm
điều đó. Ta có thể phạt chính ḿnh, nhưng không thể phạt con.”
________________________
[7] Không rơ Osho lấy ở đâu ra con số thống kê này ? (!). Nếu đúng vậy, th́ … “hạnh phúc” cho các đức ông chồng quá!
|
Tôi chưa bao giờ – trong một khoảnh khắc riêng
lẻ – từng thấy ông giận tôi, dù chỉ là một thoáng giận dữ trong mắt ông
– và hăy tin tôi, tôi đă làm mọi thứ mà một ngàn (1000) đứa trẻ có thể
làm. Vào buổi sáng, ngay cả trước bữa điểm tâm, tôi đă bắt đầu những tṛ
nghịch ngợm cho đến tận khuya. Đôi khi tôi về nhà quá muộn – 3 giờ sáng
– nhưng ông là một người kỳ lạ! Ông không bao giờ nói : “ Con về muộn
quá, đây không phải là lúc để cho một đứa trẻ về nhà.” Không, thậm chí
không một lần. Thật ra, trước mặt tôi, ông thường tránh nh́n chiếc đồng
hồ trên tường.
Ông không bao giờ đưa tôi đến ngôi đền mà ông thường đến. Tôi cũng
thường đi tới ngôi đền đó, nhưng chỉ khi nó đóng cửa, chỉ để ăn cắp
những tấm lăng kính (prism) , bởi v́ trong ngôi đền ấy có nhiều chiếc
đèn chùm (chandelier) với những tấm lăng kính đẹp. Tôi nghĩ, chẳng bao
lâu, tôi đă ăn cắp hầu hết trong số chúng. Khi người ta mách với ông về
chuyện đó, ông nói, “ Vậy th́ sao nào! Tôi đă tặng (donated) những cái
đèn chùm, nên tôi có thể tặng những cái khác. Nó không ăn cắp; đó là tài
sản của ông ngoại nó. Tôi xây ngôi đền đó.” Vị tu sĩ (priest) hết than
phiền. Để làm ǵ chứ? Ông ta chỉ là một thuộc hạ (servant) của Nana.
Nana thường đi lễ đền mọi buổi sáng, thế nhưng ông không bao giờ nói: “
Hăy đi với ông.” Ông không bao giờ “truyền giáo” cho tôi. Cái vĩ đại là
… không truyền giáo. Thật là quá đổi “con người” (human – phàm tục) khi
cưỡng bách một đứa trẻ cô thế (helpless) theo những tín ngưỡng của bạn,
nhưng ông vẫn không bị cám dỗ. Vâng, tôi gọi nó là cám dỗ lớn nhất. Cái
khoảnh khắc mà bạn thấy một ai đó lệ thuộc vào bạn trên bất cứ phương
diện nào đó, bạn sẽ bắt đầu truyền giáo. Thậm chí ông không bao giờ nói
với tôi : “Con là một người Jaina.”
Tôi nhớ rất rơ – đó là thời điểm mà cuộc điều tra dân số đang được tiến
hành. Một viên chức đă đến nhà tôi. Ông ta điều tra về nhiều thứ. Ông ta
hỏi về tôn giáo của ông tôi; ông nói, “ đạo Jaina.” Rồi ông ta hỏi về
tôn giáo của bà tôi. Nana nói : “ Ông có thể hỏi chính bà ấy. Tôn giáo
là một vấn đề riêng tư. Chính tôi chưa bao giờ hỏi bà ấy.” Thật là một
người kỳ lạ!
Bà tôi trả lời : “ Tôi không tin vào bất cứ tôn giáo nào. Mọi tôn giáo
đều nom có vẻ trẻ con với tôi.” Viên chức này bị sốc. Ngay cả tôi cũng
bị bất ngờ. Bà không tin vào tôn giáo nào cả! Tại
Ấn, t́m ra một người
phụ nữ mà không tin vào bất cứ tôn giáo nào, thật là không thể được.
Nhưng bà sinh ra tại Khajuraho, có lẽ trong một gia đ́nh có những
tantrikas, mà họ không bao giờ tin vào bất cứ tôn giáo nào. Họ đă thực
hành thiền định, nhưng họ chưa bao giờ tin vào tôn giáo nào.
Thiền định mà không tôn giáo? Điều này nghe có vẻ rất không logic với
một tâm trí phương Tây. Vâng… thật ra, nếu bạn tin vào bất cứ tôn giáo
nào, bạn không thể thiền định (meditate). Tôn giáo là một sự can thiệp
vào trong thiền định của bạn. Thiền định không cần Thượng đế nào, thiên
đường, địa ngục nào, không sợ hăi sự trừng phạt, và không có sự luyến
chấp vào lạc thú. Thiền định không dính dáng ǵ tới tâm trí (mind);
thiền định vượt quá nó, trái lại, tôn giáo chỉ là tâm trí,[9] nó ở bên
trong tâm trí.
[9] Trong “thuật ngữ” của Osho, từ “tâm trí” (mind) thường có nghĩa là “trí năng”, hoặc “thức thứ 6” trong Duy Thức Học, hoặc “ư thức” trong tâm lư học phương Tây. Ngược lai, “vô trí” (no – mind) là vượt ra ngoài “tâm trí”. Cần lưu ư: “tâm trí” và “vô trí” là 2 “từ ch́a khóa” trong “tư tưởng” của Osho.
|
Tôi biết Nani không bao giờ đi lễ đền,
nhưng bà dạy tôi một mantra (câu thần chú) mà tôi sẽ tiết lộ lần đầu
tiên. Nó là một mantra của đạo Jaina, nhưng nó không dính dáng ǵ tới
đạo Jaina như cách mọi người hiểu. Chỉ hoàn toàn ngẫu nhiên mà nó có
quan hệ với đạo Jaina mà thôi … Cái mantra này quá đẹp; sẽ rất khó dịch nó, nhưng tôi sẽ cố để có một bản dịch tốt nhất (hay tệ nhất)… Trước hết, hăy lắng nghe cái mantra trong vẻ đẹp nguyên gốc của nó:
Namo arihantanam namo namo/ Namo siddhanam namo
namo/ Namo uvajjhayanam namo namo/ Namo loye savva sahunam namo namo /
Aeso panch namukaro/ Savva pavrappanano/ Mangalam cha savvesam padhamam
havai mangalam/ Arihante saranam pavajjhami/ Siddhe sananam pavajjhami/
Sahu saranam pavajjhami/ Namo arihantanam namo namo/ Namo siddhanam namo
namo / Namo uvajhayanam namo namo / Om, shantih, shantih, shantih…
Bây giờ, là nỗ lực dịch thuật của tôi:
“ Tôi đến bên hai bàn chân của những vị arihanta, và cúi xuống đảnh lễ
các ngài …” Arihanta, trong đạo Jaina, cũng như chữ “A la hán” trong
Phật giáo, dùng để chỉ người đă đă đạt tới cái (chân lư) tối hậu, nhưng
không quan tâm đến bất cứ ai khác. Ông đă về tới nhà và quay lưng lại
với thế gian. Ông không tạo ra một tôn giáo, ông thậm chí không thuyết
pháp, ông thậm chí không tuyên bố (sự chứng ngộ của ḿnh). Dĩ nhiên, ông
phải được nhớ đến trước tiên. Cái sự tưởng nhớ (remembrance) đầu tiên là
dành cho tất cả những ai đă biết (chân lư) và giữ im lặng. Sự tôn kính
(respect) đầu tiên không phải dành cho lời nói, mà dành cho sự im lặng.
Không phải dành cho việc phục vụ kẻ khác, mà đơn thuần dành cho sự thành
tựu chân ngă. Việc có phục vụ kẻ khác hay không, th́ không quan trọng;
cái đó là thứ yếu, không phải là chủ yếu (primary.) Cái chủ yếu, là
người ta đă đạt tới chân ngă, và đạt tới chân ngă là việc thật khó trên
thế gian này. Những người Jaina gọi arihanta là người đă đạt tới chính
ḿnh (chân ngă) và v́ quá ch́m đắm (drowned), quá say sưa với phúc lạc
của việc thành tựu ấy, đến nỗi vị ấy quên toàn bộ thế gian. Cái từ
arihanta, theo nghĩa đen, là “người đă giết kẻ thù” – và kẻ thù đó là
cái ego (“cái tôi” ). Phần thứ nhất của mantra có nghĩa là: “Tôi sờ vào
hai bàn chân của vị đă đạt tới chân ngă.”
Phần thứ hai là: “ Namo siddhanam namo namo.” Cái mantra này là bằng
tiếng Prakrit, chứ không phải Sanskrit. Prakrit là ngôn ngữ của người
Jaina; nó cổ xưa hơn tiếng Sanskrit. Chính từ “sanskrit” có nghĩa là
“được tinh lọc” (refined). Qua từ “sanskrit” (refined), bạn có thể hiểu
rằng ắt phải có một cái ǵ đó trước nó, nếu không, th́ bạn “tinh lọc”
cái ǵ? Prakrit có nghĩa là “chưa tinh lọc”, tự nhiên, sống sít, và
những người Jaina có lư khi họ nói ngôn ngữ của họ là cổ xưa nhất trên
thế giới. Tôn giáo của họ cũng là tôn giáo cổ xưa nhất. Cái mantra đó
th́ bằng tiếng Prakrit, sống sít và chưa tinh lọc. Ḍng thứ hai là: Namo
siddhanam namo namo – “Tôi sờ vào hai bàn chân của người đă trở thành
bản thể (being) của chính ḿnh.” Vậy th́, đâu là sự khác biệt giữa ḍng
một và hai? Vị arihanta không bao giờ nh́n lại đằng sau, không bao giờ
bận tâm về bất cứ loại phục vụ (service) nào, có tính Kytô giáo hay
thuộc tôn giáo nào khác. Vị siddha (thành tựu) thỉnh thoảng ch́a tay ra
cho nhân loại đang ch́m đắm – nhưng chỉ thỉnh thoảng thôi, không phải
luôn luôn. Đó không phải là một điều tất yếu; nó không có tính bắt buộc.
Ông ta có thể, hay không.
Kế đó, ḍng thứ ba: Namo uvajjhaya namo namo – “
Tôi sờ vào hai bàn chân
của những vị đạo sư, những uvajjhaya.” Họ đă đạt tới cùng một điều,
nhưng họ hướng mặt (face) về thế gian, họ phục vụ thế gian. Họ ở trong
thế gian, và không thuộc về nó… nhưng vẫn ở trong nó.
Ḍng thứ tư: Namo loye savva sahunam namo namo – “
Tôi sờ vào hai bàn
chân của những vị “giáo thụ” (the teacher). Bạn biết, có một khác biệt
tinh tế giữa vị “đạo sư” (master) và vị “giáo thụ” (teacher). Bậc “đạo
sư” đă biết (chân lư), và trao truyền lại cái mà vị ấy biết. C̣n vị
“giáo thụ” th́ chỉ tiếp nhận từ người đă biết, và trao truyền nó lại y
nguyên cho thế gian, nhưng chính ông ta chưa biết. Những soạn giả của
cái mantra này thật sự có một cái tâm rất đẹp; họ thậm chí sờ vào hai
bàn chân của những người (mà) chưa biết chính ḿnh, nhưng ít ra họ đang
mang cái thông điệp của những bậc đạo sư tới quần chúng.
Ḍng thứ năm là một trong những câu có ư nghĩa nhất mà tôi từng gặp
trong suốt đời ḿnh. Thật kỳ lạ, là nó được trao cho tôi bởi bà ngoại
tôi khi tôi c̣n là một đưa trẻ nhỏ. Khi tôi giải thích nó cho bạn, bạn
cũng sẽ thấy vẻ đẹp của nó. Chỉ có bà mới có khả năng trao nó cho tôi.
Tôi không biết bất cứ ai khác mà đă có gan để thực sự công bố nó, mặc dù
tất cả những người Jaina lặp lại nó trong các ngôi đền của họ. Nhưng lặp
lại là một chuyện; trao truyền nó cho người mà bạn yêu thương, lại hoàn
toàn là một chuyện khác.
Bốn phần kia cũng không khác biệt với phần thứ năm; tất cả chúng đều
được chứa đựng trong nó, nhưng nó có một sự bao la mà những phần khác
không có. Phần năm phải được viết ra trên tất cả những ngôi đền, tất cả
nhà thờ, bất luận chúng thuộc về ai, bởi v́ nó nói, “
Tôi sờ vào hai bàn
chân của tất cả những ai mà đă biết nó.” Nó không nói, “ những ai đă
biết Thượng đế,” ngay cả chữ “nó” (it) cũng có thể bỏ đi: tôi chỉ đặt
“nó” thêm vào trong bản dịch. Nguyên bản chỉ có nghĩa “
sờ vào hai bàn
chân của những ai mà đă biết.” – không có chữ “nó”. Tôi đang đưa vào từ
“nó” chỉ là để theo đúng ngữ pháp trong ngôn ngữ của các bạn; nếu không,
một ai đó sẽ hỏi “Biết/ Biết cái ǵ? Đâu là đối tượng của sự biết?”
Không có đối tượng nào của sự biết; không có cái ǵ để biết, chỉ có
người biết mà thôi.
Cái mantra này là cái điều tôn giáo duy nhất, nếu bạn gọi nó là tôn giáo,
đă được bà ngoại trao cho tôi – không phải bởi ông tôi, mà là bà tôi.
Một đêm bà nói : “ Con đang thức. Con không ngủ được à? Con đang lập kế
hoạch cho chuyện nghịch ngợm ngày mai phải không?”
Tôi nói, “ Dạ không. Nhưng, một cách nào đó, một câu hỏi đang khởi lên
trong con. Mọi người đều có một tôn giáo, và khi người ta hỏi con, ‘
Cháu theo đạo nào?’ th́ con nhún vai. Nhưng, nhún vai không phải là một
tôn giáo, nên con muốn hỏi bà, con nên nói ǵ?”
Bà nói : “ Chính ta không thuộc về một tôn giáo nào, nhưng ta yêu cái
mantra này, và đây là tất cả những ǵ mà ta có thể cho con – không phải
bởi v́ nó thuộc về đạo Jaina theo truyền thống, nhưng chỉ v́ ta đă biết
vẻ đẹp của nó. Ta đă lặp lại nó hằng triệu lần, và ta luôn t́m thấy sự
b́nh an to lớn … chỉ là cái cảm nhận (feeling) của việc sờ vào hai bàn
chân của tất cả những ai mà đă biết. Ta chỉ có thể cho con cái mantra
này; nhiều hơn thế, ta không thể cho con.”
Bây giờ tôi có thể nói rằng, người phụ nữ này là thực sự vĩ đại, bởi v́
trong chừng mực có liên quan đến tôn giáo, th́ mọi người đều đang nói
dối. Những người Kytô, Do Thái giáo, Hồi giáo – mọi người đều đang nói
dối. Tất cả họ đều nói về Thượng đế, thiên đàng và địa ngục, thiên thần
và đủ loại vớ vẩn, mà chả biết cái ǵ cả. Bà vĩ đại, không phải bởi v́
bà đă biết (chân lư), mà bởi v́ bà không thể nào dối trá với một đứa trẻ.
Không ai nên nói dối – ít ra, với một đứa trẻ; cái đó là không thể tha
thứ được. Trẻ con đă bị khai thác (bóc lột – exploited) qua nhiều thế kỷ
chỉ v́ chúng sẵn sàng tin cậy. Bạn có thể nói dối chúng rất dễ dàng, và
chúng sẽ tin cậy bạn. Nếu bạn là một người cha, người mẹ, chúng sẽ nghĩ
bạn nhất thiết phải đúng. Đó là cách mà toàn bộ nhân loại sống trong bại
hoại (corruption), trong một vũng bùn rất nhớp nháp (slippery) của những
lời dối trá được nói ra với trẻ con trong nhiều thế kỷ. Nếu chúng ta chỉ
có thể làm một điều, một điều đơn giản – không nói dối trẻ con và tự thú
(confess) với chúng sự ngu dốt của chúng ta – rồi th́ chúng ta sẽ có
tính tôn giáo và chúng ta sẽ đặt chúng trên lối đi của tôn giáo. Trẻ con
chỉ là sự hồn nhiên; hăy để lại cho chúng không phải là cái gọi là kiến
thức của bạn. Nhưng trước hết, chính bạn phải hồn nhiên, chân thật,
không dối trá.
Đạo Jaina là tôn giáo khổ hạnh nhất trên thế giới, hay nói khác đi, là
tôn giáo khổ dâm (masochistic) và bạo dâm (sadistic) nhất. Những tu sĩ
Jaina tra tấn chính ḿnh quá nhiều, đến mức người ta tự hỏi, họ có điên
không. Họ không điên. Họ là những doanh nhân, và những tín đồ của những
tu sĩ Jaina đều là doanh nhân. Thật kỳ lạ, toàn bộ cọng đồng những người
Jaina chỉ bao gồm những doanh nhân – nhưng thực ra, cũng không có ǵ kỳ
lạ, bởi v́ chính bản thân tôn giáo này về cơ bản là có động cơ về lợi
nhuận (profit) trong thế giới bên kia. Người Jaina tự tra tấn ḿnh để
đạt tới một cái ǵ đó trong thế giới bên kia, mà y biết ḿnh không thể
đạt tới trong thế giới này.
Hẳn tôi chỉ mới vào khoảng 4 – 5 tuổi, khi tôi thấy ông thầy tu Jaina
trần truồng đầu tiên, được mời vào nhà bà tôi. Tôi không nhịn được, phải
cười to lên. Ông tôi bảo tôi, “Im nào! Ta biết con là một đứa gây rối,
(nuisance), ta có thể tha thứ cho con khi con là cái gai đối với láng
giềng, nhưng ta không thể tha thứ cho con, nếu con nghịch phá guru của
ta. Ông ấy là đạo sư của ta; ông điểm đạo cho ta được vào trong những bí
mật bên trong (inner - nội tại ) của tôn giáo.”
Tôi nói, “ Con không quan tâm về những bí mật ‘bên trong’ (inner), con
quan tâm về những bí mật ‘bên ngoài’ (outer) mà ông ta đang phô bày quá
rơ ràng. Tại sao ông ta lại ở truồng chứ? Ông ta không thể ít ra mặc một
cái khố hay sao?”
Ngay cả ông tôi cũng cười to. Ông nói, “Con không hiểu đâu.”
Tôi nói, “ Được rồi, con sẽ hỏi ông ta.”
Tất cả dân làng đă tụ họp để dự cái darshan của ông thầy tu Jaina. Giữa
cái gọi là bài giảng đạo (sermon), tôi đứng dậy. Việc đó diễn ra cách
đây chừng bốn mươi năm, và từ đó, tôi vẫn liên tục chống lại những tên
ngu xuẩn (idiot) như thế này. Ngày đó, một cuộc chiến tranh bắt đầu, mà
nó sẽ chỉ chấm dứt khi tôi không c̣n trên thế gian này nữa. Có lẽ ngay
cả lúc đó, nó cũng sẽ không chấm dứt; người của tôi có thể tiếp tục nó.
Tôi đă hỏi những câu hỏi đơn giản mà ông ta không thể trả lời. Tôi ngỡ
ngàng (puzzled). Ông tôi xấu hổ. Bà tôi vỗ nhẹ lên lưng tôi và nói,
“Tuyệt! Con đă làm được điều đó! Ta biết con có thể làm được mà.”
Tôi đă hỏi cái ǵ? Chỉ là những câu hỏi đơn giản trong đạo Jaina, bởi v́
đạo Jaina không là ǵ khác hơn ngoài nỗ lực để đừng bị tái sinh một lần
nữa. Nó là một khoa học dốc toàn bộ nỗ lực vào việc ngăn cản sự tái sinh.
Cho nên tôi đă hỏi ông câu hỏi căn bản, “ Có phải ông không muốn bị tái
sinh?”
Ông ta nói, “ Ừ, không bao giờ.”
Rồi, tôi hỏi, “ Vậy, tại sao ông không tự sát? Tại sao ông vẫn đang thở?
Tại sao ăn? Tại sao uống nước? Chỉ cần biến đi, tự sát đi. Tại sao làm
ầm ĩ về một điều đơn giản như thế?” Ông chưa quá tuổi bốn mươi. Tôi nói
với ông, “Nếu ông tiếp tục trong cách này, ông có thể sống thêm bốn mươi
năm hay hơn nữa.” Thuở đó, tôi chưa biết một sự kiện khoa học, là ai ăn
ít đi, sẽ sống lâu hơn …
Do vậy, tôi nói với ông thầy tu – lúc đó, tôi không biết những sự kiện
này – “ Nếu ông không muốn bị tái sinh trở lại, tại sao ông đang sống?
Chỉ để chết? Vậy th́, tại sao không tự sát đi ?” Tôi không nghĩ rằng có
ai đă hỏi ông một câu hỏi như thế. Trong xă hội lịch sự, không ai từng
hỏi một câu hỏi thực sự, và câu hỏi về sự tự sát là câu hỏi thực nhất.
Marcel [10] nói, “ Tự sát là vấn đề triết học thực thụ duy nhất.” Thuở đó
tôi không có khái niệm nào về Marcel. Có lẽ, vào thời điểm đó, không có
Marcel nào, và sách của ông chưa được viết ra. Nhưng đây là điều mà tôi
đă nói với ông thầy tu Jaina: “ Nếu ông không muốn bị tái sinh một lần
nữa, là điều mà ông nói là ông ước muốn, th́ tại sao ông lại (tiếp tục)
sống? V́ mục đích ǵ? Hăy tự sát đi! Tôi
[11] sẽ chỉ cho ông một cách. Mặc
dù tôi không biết nhiều về chuyện thế gian (the ways of the world), về
chuyện tự sát, tôi có thể cho ông một chút lời khuyên. Ông có thể nhảy
từ trên đồi ở cuối làng, hay ông có thể nhảy xuống sông.” Tôi nói với ông thầy tu : “ Vào mùa mưa, ông có thể nhảy xuống sông với tôi. Chúng ta có thể làm bạn một lát, rồi ông có thể chết, và tôi sẽ bơi sang bờ bên kia. Tôi bơi khá tốt.”
__________________________
[10] Gabriel Marcel (1889 – 1973) : triết gia Pháp, thuộc phái “hiện sinh hữu thần”.
|
Ông nh́n tôi một cách dữ tợn, quá giận dữ, đến
nỗi tôi phải bảo ông, “Hăy nhớ, ông sẽ bị tái sinh lần nữa, nếu ông vẫn
c̣n đầy sân hận. Đây không phải là cách để thoát khỏi cái thế giới đầy
lo âu này. Tại sao ông nh́n tôi một cách giận dữ như thế? Hăy trả lời
câu hỏi của tôi một cách thân thiện và trầm tĩnh. Hăy trả lời một cách
vui sướng! Nếu ông không thể trả lời được, th́ hăy cứ nói, ‘ Tôi không
biết.’ Nhưng xin đừng giận dữ.”
Ông thầy tu nói, “ Tự sát là một tội ác. Ta không thể tự sát. Nhưng ta
muốn sẽ không bao giờ bị tái sinh trở lại. Ta sẽ đạt tới trạng thái này
bằng cách chậm răi từ bỏ mọi thứ mà ta sở hữu.”
Tôi nói, “ Làm ơn cho tôi xem một cái ǵ đó mà ông sở hữu – bởi v́, như
tôi có thể thấy, th́ ông trần truồng và không sở hữu cái ǵ cả. Ông có
những tài sản ǵ nào?”
Ông tôi cố ngăn tôi lại. Tôi chỉ tay về phía bà tôi và rồi nói với ông
ngọai: “Xin hăy nhớ, con đă xin phép Nani, và bây giờ không ai có thể
ngăn cản, ngay cả chính ông. Con đă nói với bà về ông, bởi v́ con lo
rằng nếu con cắt ngang lời guru của ông, và cái gọi là bài giảng đạo rác
rưởi của ông ta, th́ ông sẽ giận con. Bà nói, ‘ Chỉ cần chỉ tay về phía
ta, chừng đó là đủ. Đừng lo lắng: ta chỉ cần liếc nh́n ông, th́ ông sẽ
im miệng lại.’” Và thật kỳ lạ… đúng như vậy! Ông tôi im lặng, thậm chí
Nani không cần liếc nh́n ông.
Về sau, cả tôi lẫn Nani tôi đều cười lớn. Tôi nói với bà, “ Thậm chí ông
ngoại không dám nh́n bà.”
Bà nói, “ Ông không thể, bởi v́ hẳn ông đă sợ rằng ta sẽ nói, “Ḿnh im
đi! Đừng can thiệp vào đứa trẻ đó.’ Cho nên, ông tránh mắt ta. Cách duy
nhất để tránh ta là đừng can thiệp vào chuyện của con.”
Thật vậy, ông nhắm mắt lại, như thể là đang thiền định. Tôi nói với ông,
“Nana, tuyệt lắm! Ông đang giận dữ, sôi sục, có lửa bên trong ông, thế
mà ông ngồi nhắm mắt như thể là ông đang thiền định. Guru của ông đang
giận dữ bởi v́ nhưng câu hỏi của con đang làm ông ta bực ḿnh. Ông giận
dữ bởi v́ guru của ông không đủ năng lực để trả lời. Nhưng con nói,
người đàn ông đang giảng đạo ở đây chỉ là một gă đần độn (imbecile).” Và
lúc đó tôi chưa quá bốn, năm tuổi. [12] ______________________
[12] Mới 4 – 5 tuổi, mà “lư luận” được như cậu bé này, th́ thật là… đáng sợ!
|
* * * * * * * * * * * *
Tôi không nhớ tên của ông thầy tu Jaina đó, có lẽ tên ông là Shanti
Sagar, có nghĩa là ‘ đại dương của phúc lạc.’ Chắc chắn ông không phải
là cái đó. Đó là lư do tại sao tôi đă quên ngay cả tên ông. Ông ta chỉ
là một vũng bùn dơ bẩn, không phải là một đại dương của phúc lạc hay
b́nh an. Và chắc chắn ông không phải là một người của sự im lặng, bởi v́
ông trở nên rất giận dữ.
Shanti có thể hàm ư nhiều điều. Nó có thể có nghĩa là sự b́nh an, hoặc
sự im lặng, đó là hai nghĩa căn bản. Cả hai đều thiếu vắng nơi ông. Ông
không b́nh an, cũng không im lặng, không chút nào cả. Bạn cũng không thể
nói rằng không có sự xáo động (turmoil) nào bên trong ông, bởi v́ ông
quá giận dữ, đến mức ông quát to bảo tôi ngồi xuống.
Tôi nói, “ Không ai có thể bảo tôi ngồi xuống trong ngôi nhà của chính
tôi. Tôi có thể bảo ông đi ra, nhưng ông không thể bảo tôi ngồi xuống.
Nhưng tôi sẽ không bảo ông đi ra, bởi v́ tôi có thêm một vài câu hỏi nữa.
Làm ơn đừng giận dữ. Hăy nhớ cái tên của ông, Shanti Sagar – đại dương
của b́nh an và im lặng. Ông ít ra có thể là một vũng nước nhỏ. Và đừng
bị khuấy động (disturbed) bởi một đứa trẻ nhỏ.”
Không bận tâm về chuyện ông có im lặng (silent) hay không, tôi hỏi bà
tôi, bây giờ đang cười thích thú. “ Bà nói ǵ, Nani? Con có nên hỏi ông
ta thêm vài câu hỏi, hay bảo ông ra khỏi nhà?”
Đó là người phụ nữ mà tôi yêu quư. Đó là người phụ nữ (mà) đă khiến cho
tôi trở thành một kẻ nổi loạn. Ngay cả ông tôi cũng bị sốc, khi thấy bà
ủng hộ tôi trong một cách thức như vậy. Cái gă mệnh danh là ‘đại dương
của phúc lạc’ ngay tức th́ câm như hến ngay khi ông ta thấy rằng bà tôi
ủng hộ tôi. Không chỉ có bà, mà những người dân làng ngay lập tức đứng
về phía tôi. Cái gă thầy tu Jaina khốn khổ đó bị bỏ lại hoàn toàn cô độc.
Tôi hỏi ông ta thêm vài câu hỏi nữa. Tôi hỏi, “ Ông đă nói, ‘ Đừng tin
bất cứ điều ǵ , trừ khi bạn đă tự ḿnh thể nghiệm nó.’ Tôi thấy chân lư
trong câu nói đó, do vậy, tôi có câu hỏi này…”
Những người Jaina tin rằng có 7 tầng địa ngục. Lên tới tầng thứ sáu, vẫn
có khả năng sẽ trở lại, nhưng tầng thứ bảy th́ vĩnh cửu. Có lẽ tầng thứ
bảy là địa ngục của người Kytô giáo, bởi v́, một khi bạn đă ở đó, th́
bạn cũng sẽ ở đó măi măi. Tôi tiếp tục, “ Ông đă nói đến bảy tầng địa
ngục, nên câu hỏi khởi lên, là ông đă viếng thăm tầng thứ bảy chưa? Nếu
đă, th́ ông không thể có mặt ở đây. Nếu chưa, th́ dựa trên thẩm quyền
nào mà ông bảo rằng nó hiện hữu? Ông nên nói rằng, chỉ có sáu tầng địa
ngục, chứ không phải bảy. Bây giờ, xin hăy chính xác: Hăy nói rằng, chỉ
có sáu tầng địa ngục, hay nếu ông muốn khăng khăng rằng có bảy, th́ hăy
chứng minh rằng ít nhất một người, Shanti Sagar, đă trở về từ tầng thứ
bảy.”
Ông chết điếng. Ông không thể tin rằng, một đứa trẻ lại có thể hỏi một
câu hỏi như thế. Hôm nay, chính tôi cũng không thể tin được! Làm thế nào
mà tôi đă có thể hỏi một câu hỏi như thế? Câu trả lời duy nhất mà tôi có
thể đưa ra, là bởi v́ tôi không được học hành, và hoàn toàn không có
chút kiến thức nào cả. Kiến thức khiến cho bạn rất tinh ranh (cunning).
Tôi không tinh ranh. Tôi chỉ đơn thuần hỏi cái câu hỏi mà bất cứ đưa trẻ
nào cũng đă có thể hỏi, nếu nó không được học hành. Sự “giáo dục” là tội
ác lớn nhất mà con người đă phạm đối với những đứa trẻ đáng thương. Có
lẽ sự giải phóng lớn nhất trong thế giới này, là sự giải phóng trẻ
con. [13]
___________________________
[13]Theo tôi, đây là một câu nói rất đáng cho chúng ta suy nghĩ
|
Tôi hồn nhiên, ngây thơ, hoàn toàn không có
kiến thức. Lúc ấy tôi chưa biết đọc, hoặc viết, thậm chí cũng không biết
đếm quá mười ngón tay ḿnh. Ngay cả hôm nay, khi tôi phải đếm một cái ǵ
đó, tôi bắt đầu với những ngón tay của tôi, và nếu tôi bỏ sót một ngón
tay, th́ tôi trở nên lẫn lộn.[14] Ông ta không thể trả lời. Bà tôi đứng lên
và nói : “ Ông phải trả lời câu hỏi đó. Đừng nghĩ rằng chỉ một đưa trẻ
đang hỏi, chính tôi cũng đang hỏi, và tôi là nữ chủ nhân của ông.”
Bây giờ, tôi phải giới thiệu với bạn một quy ước của người Jaina. Khi
một tu sĩ Jaina đến một gia đ́nh để nhận thực phẩm của ḿnh, sau khi thọ
thực xong, như là một sự ban phúc cho gia đ́nh, ông cho một bài giảng.
Bài pháp thoại được nói (trước hết) với người nữ chủ nhân. Bà tôi nói, “
Tôi là nữ chủ nhân của ông hôm nay, và tôi cũng đang hỏi câu hỏi đó. Ông
đă viếng thăm tầng địa ngục thứ bảy chưa? Nếu chưa, hăy nói một cách
thành thật rằng chưa, nhưng, nếu vậy, ông không thể nói là có bảy tầng
địa ngục.”
Ông thầy tu trở nên quá bối rối – càng khó xử hơn, v́ bị đối đầu bởi một
người phụ nữ đẹp – đến nỗi ông quay người định bỏ đi. Bà tôi quát to lên,
“ Hăy dừng lại! Đừng bỏ đi! Ai sẽ trả lời câu hỏi của cháu tôi? Và nó
vẫn c̣n một vài câu nữa để hỏi. Ông là loại người ǵ, mà chạy trốn những
câu hỏi của một đứa trẻ!”
Ông thầy tu dừng lại. Tôi nói với ông tôi, “ Con bỏ câu hỏi thứ hai, bởi
v́ ông thầy tu này không thể trả lời nó. Ông ta cũng chưa trả lời câu
hỏi thứ nhất, cho nên con sẽ hỏi ông ta câu hỏi thứ ba; có lẽ ông ta sẽ
có thể trả lời câu hỏi đó.”
Ông ta nh́n tôi. Tôi nói, “ Nếu ông muốn nh́n tôi, hăy nh́n vào đôi mắt
tôi.” Mọi người bỗng im phăng phắc, không ai nói một lời nào. Ông thầy
tu cụp mắt xuống, và rồi tôi nói, “ Bây giờ tôi không muốn hỏi nữa. Hai
câu hỏi đầu tiên của tôi không được trả lời, và tôi không muốn hỏi câu
hỏi thứ ba, bởi v́ tôi không muốn ông khách mời bị xấu hổ. Tôi rút lui.”
Và tôi thực sự rút lui khỏi đó, và tôi quá vui sướng khi thấy bà tôi đi
theo tôi. Gă thầy tu được ông tôi tiễn ra về, nhưng ngay khi ông ta đi khỏi, ông tôi lao vụt vào trong nhà và hỏi bà tôi, “ Ḿnh có điên không đấy? Trước tiên, ḿnh ủng hộ đứa bé trai này, nó là một kẻ gây rối bẩm sinh, rồi ḿnh đi với nó, thậm chí không nói lời chào ông đạo sư của tôi.”
___________________________
[14] Hóa ra, Osho rất … “dốt” toán! |
Bà tôi nói, “ Ông ta không phải là đạo sư của
tôi, nên tôi không quan tâm một chút xíu nào. Vả lại, người mà ông nghĩ
là một kẻ gây rối bẩm sinh, nó là hạt giống. Không ai biết cái ǵ sẽ mọc
ra từ nó.”
Bây giờ tôi biết cái ǵ đă mọc ra từ nó. Nếu người ta không phải là một
kẻ gây rối bẩm sinh, th́ người ta không thể trở nên một vị Phật. Và tôi
không chỉ là một vị Phật, như Phật Gautama; cái đó th́ quá truyền thống.
Tôi là Phật Zorba.[15] Tôi là một sự gặp gỡ của phương Đông và phương Tây.
Thật ra, tôi không phân chia Đông và Tây, thấp và cao, đàn ông và phụ nữ,
thiện và ác, Thượng đế và quỷ sứ. Không, một ngàn lần không – tôi không
phân chia. Tôi kết nối lại với nhau tất cả những ǵ cho tới nay đă từng
bị phân chia. Đó là công việc của tôi.
Cái ngày đó th́ vô cùng có ư nghĩa để hiểu những ǵ đă xảy ra trong suốt
cuộc đời tôi, bởi v́, nếu bạn không hiểu cái hạt giống, bạn sẽ bỏ mất
cái cây, sự trổ hoa, và có lẽ ánh trăng xuyên qua những cành cây.
Từ cái ngày đó, tôi đă luôn luôn chống lại bất cứ cái ǵ có tính thống
dâm (masochistic). Dĩ nhiên, măi sau này tôi mới biết cái từ (word) đó,
nhưng điều đó không quan trọng. Tôi vẫn luôn chống lại tất cả những ǵ
khổ hạnh; thuở đó, tôi chưa hề biết cái từ đó, nhưng tôi đă có thể ngửi
thấy một cái ǵ đó thối tha. Bạn biết tôi dị ứng với mọi loại tự tra tấn.
Tôi muốn mọi con người sống cho tới mức đầy đủ nhất; sự tối thiểu không
phải là phương cách của tôi. Sống cho tới mức tối đa, hay nếu bạn có thể,
đi quá cái tối đa, rồi cái kỳ ảo (fantastic). Hăy đi! Đừng đợi! Và đừng
lăng phí thời gian đợi chờ Thượng đế … Tôi không chống lại ư tưởng về
việc kết liễu cuộc sống. Nếu người ta quyết định kết thúc nó, th́ dĩ
nhiên đó là quyền của y. Nhưng chắc chắn tôi chống lại việc biến nó
thành một cuộc tra tấn lâu dài. Khi ông thầy tu Shanti Sagar này chết,
ông ta nhịn ăn 110 ngày. Một người, nếu khỏe mạnh b́nh thường, có thể
tồn tại 90 ngày không ăn, một cách dễ dàng. Nếu khỏe mạnh một cách phi
thường, th́ y có thể sống thêm lâu hơn nữa.
Do vậy, hăy nhớ, tôi đă không lỗ măng (rude) với người đàn ông đó. Trong
bối cảnh đó, câu hỏi của tôi là hoàn toàn đúng, có lẽ càng như thế, bởi
v́ ông ta đă không thể trả lời nó. Và, thật kỳ lạ khi kể lại với bạn hôm
nay, cái đó là sự khởi đầu không chỉ của sự tra vấn của tôi, mà cũng là
sự bắt đầu của những ai không (thể) trả lời. Tôi đă gặp nhiều người mệnh
danh là tâm linh, nhưng chưa ai từng trả lời bất cứ câu hỏi nào của tôi.
Trên một phương diện, cái ngày đó quy định toàn bộ cái phong vị (flavor)
của tôi, toàn bộ đời tôi.
Shanti Sagar bỏ đi, rất bực bội, nhưng tôi th́ vô cùng vui sướng, và tôi
không giấu ông tôi điều đó. Tôi nói với ông, “ Nana, có lẽ ông ta bỏ đi
với sự bực bội, nhưng con đang cảm thấy rằng ḿnh hoàn toàn đúng đắn.
Guru của ông chỉ (là) xoàng thôi. Ông nên chọn một ai đó khá hơn một
chút.”
Ngay cả ông cũng cười to và nói, “ Có lẽ con nói đúng, nhưng bây giờ, ở
tuổi ta, th́ việc thay đổi guru là không mấy thực tế.” Ông hỏi Nani tôi,
“ Ḿnh nghĩ sao?”
Bà tôi, bao giờ cũng trung thực với bản tính của ḿnh, nói, “Không bao
giờ quá muộn để thay đổi. Nếu ông thấy cái ḿnh đă chọn là không đúng,
th́ hăy thay đổi nó. Thực vậy, hăy nhanh lên, bởi v́ ông đang già thêm.
Đừng nói. ‘ Tôi già rồi, nên tôi không thể thay đổi.’ Một chàng trai trẻ
nói vậy th́ c̣n khả thứ, nhưng một ông già th́ không được - và ông th́
đủ già rồi. ”
Và chỉ một vài năm sau th́ ông mất, nhưng ông không thể thu hết can đảm
để thay đổi guru của ḿnh. Ông tiếp tục trong cùng khuôn mẫu cũ. Bà tôi
thường nói khích ông, nói, “ Bao giờ th́ ông mới thay đổi guru và những
phương pháp (tu tập) của ḿnh?”
Ông thường nói, “Vâng, tôi sẽ, tôi sẽ.” Một hôm, bà tôi nói, “ Hăy thôi đi tất cả những thứ vớ vẩn này! Không ai từng thay đổi trừ khi người ta thay đổi ngay bây giờ. Đừng nói, ‘Tôi sẽ, tôi sẽ.’ Hoặc thay đổi hoặc không, nhưng hăy rơ ràng.”
____________________________
[15] Osho tự “vẽ chân dung” của ḿnh bằng 2 từ “Phật Zorba.” Về sau, bạn đọc sẽ biết tại sao.
|
Người phụ nữ ấy đă có thể trở thành một lực
(force) hết sức hùng mạnh. Bà sinh ra đời không phải chỉ để sống trong cái ngôi làng nhỏ đó. Lẽ ra, toàn bộ thế giới
nên biết về bà. Có lẽ tôi là cái ”kênh chuyển tải” (vehicle) của bà; có
lẽ bà đă rót chính ḿnh vào trong tôi. Bà yêu thương tôi quá sâu xa, đến
mức tôi chưa bao giờ xem bà mẹ đẻ ra tôi là mẹ ruột. Tôi luôn xem Nani
là người mẹ đích thực của tôi.
Bất cứ khi nào tôi phải thú nhận một cái ǵ đó, bất cứ sự sai trái nào
đó mà tôi đă làm cho ai đó, th́ tôi chỉ có thể thú nhận với bà, chứ
không ai khác. Bà là người mà tôi trao trọn tâm tư của ḿnh (my trust).
Tôi có thể tâm sự bất cứ cái ǵ với bà, bởi v́ tôi đă dần nhận thức ra
một điều, và đó là, bà có khả năng để hiểu.
… Cái khoảnh khắc đó trong đời tôi, khi tôi hỏi ông thầy tu Jaina những
câu hỏi kỳ lạ, chọc tức ông và quấy rầy ông, tôi không cho rằng ḿnh đă
làm một cái ǵ đó sai trái. Có lẽ tôi đă giúp ông. Có lẽ, một ngày nào
đó ông sẽ hiểu. Nếu ông đă có ḷng can đảm, th́ có lẽ ông đă hiểu, ngay
buổi đó, nhưng ông là một kẻ hèn nhát – ông chạy trốn. Và từ đó, cái này
đă là kinh nghiệm của tôi. Những người mệnh danh là mahatma và những vị
thánh, tất cả họ đều là những kẻ hèn nhát. Tôi chưa từng gặp một mahatma
nào – Hindu, Hồi giáo, Kytô, Phật giáo – mà ông ta có thể được gọi là
một tâm hồn nổi loạn . Trừ khi người ta nổi loạn, người ta không là
người tôn giáo. Sự nổi loạn chính là nền tảng của tôn giáo.[16]
Nana không chỉ là một ông ngoại. Thật khó định nghĩa ông là ǵ đối với
tôi. Ông thường gọi tôi là Rajah – rajah có nghĩa là “ vị vua” – và
trong bảy năm đó, ông xoay xở thành công để cho tôi sống như một ông
hoàng. Vào ngày sinh nhật của tôi, ông thường mang đến một con voi từ
một thị trấn gần đó… Tại Ấn, thời đó, voi thường được nuôi, hoặc là bởi
những ông vua – bởi v́ nó rất tốn kém, việc bảo dưỡng, thức ăn, và dịch
vụ mà con voi đ̣i hỏi – hoặc là bởi những vị thánh. Hai loại người này
thường nuôi chúng. Những vị thánh có thể nuôi voi bởi v́ họ có quá nhiều
đệ tử. Những đệ tử chăm sóc con voi cẩn thận, y như họ đă chăm sóc vị
thánh. Sống gần đó là một vị thánh, ông ta có một con voi, cho nên, vào
sinh nhật của tôi, ông ngoại tôi thường đặt tôi lên con voi với hai cái
túi, mỗi túi ở một bên, đầy những đồng tiền xu.
Trong thời thơ ấu của tôi, tiền giấy chưa xuất hiện tại
Ấn độ; bạc (kim
loại) vẫn c̣n được dùng cho những đồng rupee. Ông tôi thường đổ đầy hai
túi lớn, treo lủng lẳng ở hai bên, với những đồng xu, và tôi thường đi
xung quanh làng ném những đồng xu đó. Đó là cách mà ông thường cử hành
sinh nhật của tôi … Một khi tôi đă khởi hành, ông thường đến trong cái
xe ḅ của ông, với thêm nhiều đồng rupee, và ông thường luôn miệng nói
với tôi, “ Đừng hà tiện – Ta c̣n đủ tiền. Con không thể ném nhiều hơn ta
có. Cứ ném đi.” Ông t́m đủ mọi cách có thể được, để tạo cho tôi ư tưởng rằng tôi thuộc về một gia đ́nh hoàng tộc nào đó.
________________________________
[16] Từ “nổi loạn” (rebellious) trong ngôn ngữ của Osho, thường chỉ có nghĩa là “ chống lại mọi sự áp đạt” để tự giải phóng ḿnh ra khỏi mỏi h́nh thức nô lệ, trên bất cứ phương diện nào.
|
**************
Sự chia ly có cái chất thơ (poetry) của riêng nó, người ta chỉ cần học
cái ngôn ngữ của nó, và người ta phải sống trong chiều sâu của nó. Rồi
từ trong nỗi buồn, xuất hiện một loại niềm vui … mà nom có vẻ như là
không thể được, nhưng mà nó xảy ra. Tôi đă biết nó, do cái chết của Nana
tôi. Nó là một sự chia ly toàn diện. Chúng tôi sẽ không gặp lại nhau nữa,
thế nhưng có một vẻ đẹp trong nó. Ông già rồi, và đang chết dần, có lẽ
từ một cơn đột quỵ nghiêm trọng. Chúng tôi không ư thức về nó, bởi v́
ngôi làng không có bác sĩ, thậm chí một dược sĩ cũng không, không thuốc
men, cho nên chúng tôi không biết nguyên nhân cái chết của ông, nhưng
tôi nghĩ nó là một cơn đột quỵ nghiêm trọng.
Tôi hỏi nhỏ vào tai ông, “ Nana, ông có cái ǵ để nói trước lúc ra đi?
Có lời trăn trối sau cùng nào không? Hoặc, ông có muốn cho con cái ǵ đó
để nhớ ông măi măi?” Ông tháo chiếc nhẫn và đặt nó vào tay tôi. Bây giờ
cái nhẫn đó đang ở trong tay một sannyasin
[17] nào đó; tôi đă tặng nó cho
một ai đó. Nhưng mà cái nhẫn đó luôn là một bí ẩn. Suốt đời ông, ông
thường không cho phép bất cứ ai thấy cái ǵ trong nó, thế nhưng, ông cứ
thỉnh thoảng lại nh́n vào nó. Chiếc nhẫn đó có một cái cửa sổ bằng thủy
tinh ở cả hai mặt, mà bạn có thể nh́n xuyên suốt qua. Trên đỉnh là một
hạt kim cương; ở mỗi mặt của nó, có một cái cửa sổ thủy tinh.
Ông không cho phép bất cứ ai thấy cái mà ông thường nh́n vào, xuyên qua
cái cửa sổ. Bên trong có một bức tượng Mahavira, tirthankara của người
Jaina, và hai cửa sổ đó là những thấu kính phóng đại. Chúng phóng đại nó
(bức tượng) và nó có vẻ thực sự khổng lồ.
Với những giọt lệ trong mắt, ông nói, “ Ta không có cái ǵ khác để cho
con, bởi v́ tất cả những ǵ ta cho con, đều sẽ bị tước mất khỏi con, y
như nó đă bị tước đi khỏi ta. Ta chỉ có thể cho con t́nh yêu mà ta dành
cho kẻ đă biết chính ḿnh.”
Mặc dù tôi không giữ chiếc nhẫn đó, tôi đă chu toàn ước muốn của ông.
Tôi đă biết vị đó, và tôi đă biết chân lư (it) trong chính ḿnh. Trong
một chiếc nhẫn, th́ có ǵ là quan trọng? Nhưng cụ già đáng thương, ông
yêu vị minh sư (thầy) của ḿnh, Mahavira, và ông trao t́nh yêu đó cho
tôi. Tôi kính trọng t́nh yêu của ông dành cho vị thầy của ḿnh, và dành
cho tôi. Những lời nói cuối cùng của ông, trên môi ông là, “ Đừng lo
lắng, bởi v́ ta không hề đang chết (dying).”
________________________________
[17] Sannyasin: theo truyền thống, th́ một sannyasin là một “kẻ t́m kiếm chân lư” (spiritual seeker), từ bỏ thế tục. Với Osho th́ khác: sannyasin là một “kẻ t́m kiếm” hay một “đệ tử” mà vẫn ở trong thế gian, nhưng cố mang “thiền” và sự nhận biết vào trong mọi sự mà anh ta (hay cô ta) làm. (Chú thích của bản Anh ngữ).
|
Tôi vẫn c̣n nhớ sự im lặng đó. Cái xe ḅ
[18] đang đi băng qua một ḷng sông (riverbed). Tôi nhớ chính xác mỗi chi
tiết. Tôi không nói ǵ bởi v́ tôi không muốn khuấy động bà tôi. Bà không
nói một lời. Có một vài lời b́nh phẩm của ai đó, rồi tôi trở nên lo lắng
một chút về bà, và nói, “ Hăy nói một cái ǵ đi, Nani ; xin đừng im lặng
quá như vậy, thật không thể chịu đựng nổi.”
Bạn có tin được không, Nani hát một bài ca! Đó là cách mà tôi đă học
được, rằng cái chết phải là lễ hội. Bà hát chính bài ca mà bà đă từng
hát khi yêu ông tôi lần đầu.
Điều sau đây cũng đáng được ghi nhận: cách đây chín mươi năm, tại
Ấn,
Nani đă có dũng cảm để “buông rơi” (fall ) vào t́nh yêu. Bà vẫn chưa lấy
chồng cho đến tuổi hai mươi tư . Cái đó là rất hiếm. Có một lần, tôi đă
hỏi bà, tại sao bà không chịu lấy chồng trong một thời gian dài như thế.
Bà là một người phụ nữ đẹp … Tôi chỉ nói đùa với bà, rằng ngay cả vua
của Chattarpur, tiểu bang Khajuraho, có thể đă phải ḷng bà.
Bà nói, “ Thật kỳ lạ, là con đă đề cập đến chuyện đó, bởi v́ chính ông
ta đă phải ḷng bà. Nhưng bà đă từ chối ông ta, không chỉ ông ta, mà c̣n
rất nhiều người khác nữa.” Vào thời đó, tại
Ấn, những cô gái kết hôn
khi họ mới bảy tuổi, hay tối đa, là chín tuổi. Chỉ v́ sợ t́nh yêu … nếu
họ lớn thêm, họ có thể phải ḷng một ai đó. Nhưng bố của bà tôi là một
nhà thơ; những bài ca của ông vẫn c̣n được hát tại Khajuraho và những
làng gần đó. Ông cương quyết rằng, trừ khi bà đồng ư, ông sẽ không gả
con gái ḿnh cho bất cứ ai. Như một sự t́nh cờ, bà phải ḷng ông tôi. Tôi hỏi, “ Cái đó lại càng kỳ lạ hơn; bà từ chối vua của Chattarpur, và thế nhưng bà lại phải ḷng người đàn ông nghèo này. V́ lư do ǵ? Chắc chắn ông không đẹp trai cho lắm, cũng không phi thường trên bất cứ phương diện nào. Tại sao bà lại phải ḷng ông?”
_______________________________
[18] Bởi v́ trong làng không có y bác sĩ, nên người ta phải đưa ông về thành phố, trên một chiếc xe ḅ kéo, có lúc phải đi qua một ḷng sông (cạn). Trong cuốn “Demension beyond the known”, Osho cho biết, khi vào tới gần thành phố, th́ ông (ngọai) đă chết một nửa. Ông chết một cách chậm răi: mê man trong ba ngày rồi mới tắt thở.
|
Bà nói, “ Con đang hỏi một câu hỏi sai. Việc
‘phải ḷng’ không có ‘tại sao’. Ta chỉ đơn giản thấy ông, chừng đó là đủ.
Ta thấy đôi mắt ông, và một niềm tin cậy (trust ) khởi lên trong ta, mà
nó không bao giờ lung lay.”
Tôi cũng đă hỏi ông tôi, “ Nani bảo bà phải ḷng ông. Cái đó là ổn về
phần bà, nhưng tại sao ông cho phép cuộc hôn nhân xảy ra?”
Ông nói, “ Ta không phải là một nhà thơ hay một nhà tư tưởng, nhưng ta
có thể nhận ra cái đẹp khi ta thấy nó.”
Tôi chưa bao giờ thấy một phụ nữ nào đẹp hơn Nani tôi. Chính tôi yêu bà,
và tôi yêu bà suốt đời bà. Khi bà mất ở tuổi 80, tôi vội vă về nhà và
thấy bà đang nằm ở đó, đă chết. Tất cả họ đều chỉ chờ một ḿnh tôi, bởi
v́ bà đă bảo họ rằng, họ không nên đặt thi thể bà lên giàn hỏa cho tới
khi tôi về. Bà đă nhấn mạnh rằng, tôi sẽ châm lửa vào giàn hỏa táng của
bà, do vậy, họ đang chờ tôi. Tôi đi vào, vén khăn liệm lên … và bà vẫn
c̣n đẹp! Thật vậy, đẹp hơn bao giờ cả, bởi v́ tất cả đều im lặng, ngay
cả cái náo động của hơi thở, của sự sống cũng không có ở đó. Bà chỉ là
một sự hiện diện.
Châm lửa vào giàn hỏa táng là nhiệm vụ khó khăn nhất mà tôi từng làm
trong đời ḿnh. Nó như thể là tôi đang châm lửa vào một trong những bức
họa đẹp nhất của Leonard de Vinci, hay Vincent Van Gogh. Dĩ nhiên, đối
với tôi, bà quư giá hơn cả Mona Lisa, đẹp hơn cả Cleopatra. Đó không
phải là một sự phóng đại. Tất cả những ǵ đẹp trong cái nh́n (vision)
của tôi, một cách nào đó, đều đă đến bằng cách thông qua bà. Bà giúp tôi
trên mọi phương diện, để tôi có thể sống theo cách của ḿnh. Không có bà,
có lẽ tôi đă là một chủ tiệm hay một bác sĩ, hay một kỹ sư, bởi v́ khi
tôi đỗ kỳ thi tuyển sinh, th́ cha tôi quá nghèo, thật khó để cho tôi vào
đại học. Nhưng mà ông sẵn sàng vay tiền để làm điều đó. Ông cương quyết
rằng tôi phải vào đại học. Tôi sẵn sàng, nhưng tôi sẽ không học ngành y,
và tôi cũng sẽ không vào trường kỹ sư. Tôi thẳng thừng từ chối trở thành
bác sĩ, hay kỹ sư. Tôi bảo ông, “ Nếu cha muốn biết sự thật, th́ con
muốn là một sannyasin, một hobo [19].”
Ông nói, “ Cái ǵ? Một hobo?”
Tôi nói, “ Vâng, con muốn học triết, để có thể trở thành một hobo triết
học.”
Ông từ chối : “ Trong trường hợp đó, ta sẽ không vay tiền và hăy nhận
lấy mọi sự rắc rối.”
Bà tôi nói, “ Đừng lo lắng, con trai. Con cứ vào đại học và làm bất cứ
cái ǵ mà con muốn làm. Ta c̣n sống, và ta sẽ bán mọi thứ mà ta có, chỉ
để giúp con là chính ḿnh. Ta sẽ không hỏi là con muốn đi đâu, và con
muốn học cái ǵ.”
Bà không bao giờ hỏi, và bà gởi tiền cho tôi một cách liên tục, ngay cả
khi tôi đă trở thành một giáo sư đại học. Tôi phải bảo bà rằng, bây giờ
tôi đang tự kiếm được tiền, và tôi gởi tiền cho bà th́ đúng hơn.
Bà nói, “ Đừng lo lắng, ta không cần dùng món tiền này, và con hẳn đang
dùng nó tốt đẹp hơn.”
Người ta thường tự hỏi, tôi lấy đâu ra tất cả số tiền để mua sách, bởi
v́ tôi có hằng ngàn cuốn sách. Ngay cả khi tôi mới chỉ là một học sinh
trung học, tôi đă có hằng ngàn cuốn sách trong nhà. Khắp nhà đầy sách,
và mọi người tự hỏi tôi kiếm đâu ra tiền để mua. Bà tôi đă bảo tôi,
“Đừng bao giờ nói với ai là con lấy tiền ở đâu, bởi v́ nếu cha con và mẹ
con biết rằng con lấy tiền từ nơi ta, th́ họ sẽ bắt đầu hỏi xin tiền ta,
và ta sẽ khó ḷng từ chối.”
Bà tiếp tục gởi tiền cho tôi. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, ngay cả
trong cái tháng mà bà mất, bà đă gởi món tiền thường lệ cho tôi. Vào
buổi sáng trong ngày bà mất, bà đă kư tờ ngân phiếu. Bạn cũng sẽ kinh
ngạc khi biết rằng, đó là số tiền cuối cùng mà bà có trong ngân hàng. Có
lẽ, bằng cách nào đó, bà biết rằng sẽ không có ngày mai nào nữa. Tôi may mắn trên nhiều phương diện, nhưng may mắn nhất, là tôi đă có ông bà ngoại tôi … và những ngày thơ ấu vàng son đó.
_____________________________
[19] Hobo: kẻ lang thang, sống nay đây mai đó
~~000~~
|