Biên dịch : Đỗ Tư Nghĩa
PHẦN I:
CHƯƠNG II
Theo như tôi có thể nhớ được, th́ tôi chỉ ưa thích một tṛ chơi duy nhất,
tranh luận – tranh luận (argue) về mọi sự. Do vậy, ít người lớn nào có
thể thậm chí chịu đựng được tôi – chứ c̣n hiểu
[1] tôi, đó là chuyện không
thể được.
Tôi không bao giờ thiết đi tới trường. Đó là nơi chốn tồi tệ nhất. Sau
cùng, tôi bị cưỡng bức đi học, nhưng tôi đă kháng cự ở mức có thể; bởi
v́ ở đó chỉ có những đứa trẻ không quan tâm đến những điều mà tôi quan
tâm, và những điều mà tất cả chúng quan tâm, th́ tôi lại chẳng thèm ngó
ngàng. Do vậy, tôi là một “kẻ ngoại cuộc” (outsider). Mối quan tâm của tôi vẫn luôn trước sau như một: (t́m) biết chân lư tối hậu là cái ǵ, ư nghĩa cuộc đời là cái ǵ, tại sao tôi lại ở đây, và không ở nơi nào khác. Và tôi quyết tâm rằng, trừ khi tôi t́m ra câu trả lời, tôi sẽ không chịu yên nghỉ, và tôi sẽ không để cho bất cứ ai xung quanh tôi yên nghỉ (rest).
________________________
[1] Osho “chơi chữ” : to stand: chịu đựng. To understand: hiểu.
|
1939 – 1951
Cái chết của ông tôi là cuộc đối mặt (encounter) đầu tiên của tôi với
cái chết. Vâng, một cuộc đối mặt, và một cái ǵ hơn thế nữa; không chỉ
là một cuộc đối mặt, nếu không thế, có lẽ tôi đă bỏ mất cái ư nghĩa đích
thực của nó. Tôi thấy cái chết, và một cái ǵ hơn nữa, mà không đang
chết, và đang trôi bồng bềnh bên trên nó, thoát ra khỏi cơ thể… tứ đại.
Cuộc đối mặt đó quyết định toàn bộ ḍng đời của tôi. Nó cho tôi hướng đi,
hay đúng hơn, một chiều kích, mà trước đó tôi chưa hề biết tới.
Tôi đă nghe nói về cái chết của những người khác, nhưng mà chỉ mới nghe
thôi. Tôi chưa thấy, và cho dẫu tôi đă thấy, th́ chúng cũng không có ư
nghĩa nào với tôi. Trừ khi bạn yêu một ai đó và rồi người ấy chết; nếu
không, th́ bạn không thể thực sự đối mặt với sự chết. Hăy gạch chân điều
đó:
Cái chết chỉ có thể được đối mặt trong cái chết của một kẻ thân yêu.
Khi t́nh yêu cọng với cái chết tôi đă bỏ mất vẻ đẹp của cái chết, bởi v́
t́nh yêu và cái chết th́ quá đơn giản, có lẽ là một. Bà yêu thương tôi.
Bà rải t́nh yêu như mưa lên tôi, và cái chết th́ ở đó, xảy ra một cách
chậm răi. Một cái xe ḅ – giờ đây, tôi vẫn c̣n nghe văng vẳng âm thanh
của nó – tiếng lạch cạch của những bánh xe lăn trên những ḥn đá, người
đánh xe liên tục quát to lên với những con ḅ đực, âm thanh của tiếng
roi quất vào chúng… Những âm thanh đó vẫn như c̣n văng vẳng đâu đây. Nó
đă ăn rễ quá sâu trong trải nghiệm của tôi, đến nỗi, tôi nghĩ rằng, ngay
cả cái chết của tôi cũng không thể xóa nḥa nó được. Ngay cả trong khi
đang hấp hối, chắc hẳn tôi sẽ vẫn có thể nghe lại âm thanh của cái xe ḅ
đó.
Nani tôi đang nắm lấy tay tôi, và tôi hoàn toàn choáng váng, không biết
cái ǵ đang xảy ra vào khoảnh khắc đó. Cái đầu của ông tôi tựa vào ḷng
tôi. Tôi giữ tay tôi trên ngực ông, và một cách chậm răi, hơi thở biến
đi. Khi tôi cảm thấy rằng ông không c̣n thở nữa, tôi nói với bà tôi: “
Con rất tiếc, Nani, nhưng có vẻ như ông không c̣n thở nữa.”
Bà nói, “ Cái đó hoàn toàn tốt thôi. Con không cần phải lo lắng. Ông đă
sống đủ, không cần phải hỏi xin thêm.” Bà cũng bảo tôi, “ Hăy ghi nhớ,
bởi v́ có những khoảnh khắc không được phép quên: đừng bao giờ hỏi xin
thêm. Những ǵ đang hiện hữu, cũng đủ lắm rồi.”
Bảy năm đầu tiên là những năm quan trọng nhất trong đời, bạn sẽ không
bao giờ có lại cái cơ hội đó một lần nữa. Bảy năm đó quyết định bảy mươi
năm của đời bạn, tất cả những viên đá nền móng đă được đặt trong bảy năm
đó. Do vậy, bởi một sự ngẫu nhiên kỳ lạ, tôi được cứu thoát khỏi cha mẹ
tôi – và vào lúc tôi về với họ, tôi hầu như đă độc lập, tôi đă bay rồi.
Tôi biết tôi đă có cánh. Tôi biết rằng, tôi có thể bay mà không cần sự
giúp đỡ của bất cứ ai. Tôi biết rằng, toàn bộ bầu trời là của tôi.
Tôi không bao giờ hỏi xin sự hướng dẫn của họ, và nếu bất cứ sự hướng
dẫn nào được cho tôi, tôi luôn vặn lại (retort): “ Đây là điều sỉ nhục.
Có phải cha mẹ nghĩ rằng con không thể tự ḿnh xoay xở? Con hiểu rằng,
cho lời khuyên bảo không phải là một ư định xấu – con cám ơn về điều đó
– nhưng cha mẹ không hiểu một điều, rằng con có khả năng làm nó, tự ḿnh.
Hăy đơn giản cho con một cơ hội để chứng tỏ cái khí phách (mettle) của
con. Xin đừng can thiệp vào.”
Trong bảy năm đó, tôi đă thực sự trở nên một người theo “ chủ nghĩa cá
nhân” (individualist) mạnh mẽ, trung kiên. Bây giờ, thật không thể nào
xoay chuyển được tôi.
Cửa tiệm của cha tôi th́ ở đằng trước nhà, nơi mà gia đ́nh sống. Tại Ấn
độ, nhà và cửa tiệm thường ở cùng một nơi, nên dễ dàng quản lư. Tôi có
thói quen đi băng qua cửa tiệm của cha tôi, với đôi mắt nhắm lại.
Ông hỏi tôi, “ Đây là điều kỳ lạ. Bất cứ khi nào con băng qua cửa tiệm
vào trong nhà, hay từ nhà đi ra” - khoảng cách chỉ độ bốn mét – “con đều
nhắm mắt lại. Con đang thực tập nghi thức ǵ vậy?”
Tôi nói, “ Con chỉ đang thực tập, để sao cho cái cửa tiệm này không hủy
diệt con như nó đă hủy diệt cha. Con không muốn nh́n thấy nó chút nào cả;
con tuyệt đối không quan tâm, hoàn toàn không quan tâm.” Và nó là một
trong những cửa tiệm vải vóc tầm cỡ nhất tại thành phố đó – những loại
vải tốt nhất có thể có được ở đó – nhưng tôi không bao giờ nh́n phía nào,
tôi chỉ đơn giản nhắm mắt lại và đi ngang qua.
Ông nói, “ Nhưng mở mắt ra, cũng không hại ǵ mà. ”
Tôi nói, “ Làm sao biết được – người ta có thể bị chia trí . Con không
muốn bị xao lăng (distracted) bởi cái ǵ cả.”
Một cách tự nhiên – tôi là con trai cả của ông – ông muốn tôi giúp ông.
Ông muốn tôi, sau khi học xong, trở về quản lư cửa tiệm. Ông đă quản lư
tốt; cửa tiệm đă dần dần, dần dần trở thành một nơi sầm uất. Ông nói, “
Dĩ nhiên, ai khác sẽ trông coi nó? Cha mỗi lúc một già thêm; con muốn
cha ở đây măi măi sao?”
Tôi nói, “ Không, con không muốn, nhưng cha có thể về hưu. Cha có những
em trai, họ quan tâm đến cửa tiệm, thật ra, họ rất quan tâm – thậm chí,
họ c̣n sợ rằng cha sẽ chuyển giao cửa tiệm lại cho con. Con đă nói với
họ, ‘Đừng sợ tôi; tôi không phải là kẻ cạnh tranh của các vị.’ Cha hăy
chuyển giao cửa tiệm này cho những em trai của cha đi.”
Nhưng tại Ấn độ, theo truyền thống, th́ đứa con trai cả thừa kế tất cả.
Cha tôi là con trai cả; ông thừa hưởng tất cả. Tất cả những ǵ mà ông có
bây giờ, được giả định là của tôi, để tôi trông coi. Đương nhiên, ông lo
lắng… nhưng không có cách nào khác. Ông cố bằng mọi cách để làm cho tôi
quan tâm.
Ông thường nói với tôi, “ Cho dẫu con trở thành bác sĩ, th́ con cũng
không thể kiếm được nhiều tiền trong một tháng, như ta có thể kiếm trong
một ngày. Nếu con trở thành kỹ sư, con sẽ có lương bổng bao nhiêu? Nếu
con trở thành giáo sư đại học – ta có thể mướn những giáo sư của con,
không có vấn đề ǵ. Và con biết, có quá nhiều, hằng ngh́n những sinh
viên tốt nghiệp, sau tốt nghiệp, những Ph. D, họ đều bị thất nghiệp.”
Trước hết, ông cố thuyết phục tôi đừng vào đại học, bởi v́ ông rất sợ
rằng, việc sống xa nhà sẽ khiến cho tôi hoàn toàn độc lập trong 6 năm.
Lúc đó, ông sẽ thậm chí không thể để mắt đến tôi. Ông đă và vẫn đang hối
tiếc về bảy năm đó, mà ông đă để tôi sống với ông bà ngoại tôi. Tôi nói
với ông, “ Cha đừng sợ. Cái mà cha sợ, đă xảy ra với con: Con đă ‘tốt
nghiệp’ rồi ! Bảy năm đó… Không trường đại học nào được cần đến để làm
hỏng con thêm; con đă bị hỏng hoàn toàn – thoát khỏi bàn tay cha. Những
phương tiện thuyết phục đó – tiền lương, sự nể trọng, tiền bạc – không
có giá trị ǵ đối với con. Và con sẽ không trở thành bác sĩ hay kỹ sư,
nên đừng lo lắng. Thực ra, con dự định sẽ vẫn là một
vagabond [2] suốt đời
con.”
Ông nói, “ Cái đó thậm chí c̣n tệ hơn! Tốt hơn, con nên trở thành một kỹ
sư hay bác sĩ, nhưng một vagabond? Đó không phải là một nghề mới. Nhưng
con lại thích nghĩ về những điều như thế – con muốn trở thành một
vagabond! Ngay cả những ai là vagabond, họ cũng cảm thấy bị sỉ nhục nếu
con nói, ‘Bạn là một vagabond’ ; nhưng mà con đang nói với chính cha đẻ
của ḿnh, rằng suốt đời, con chỉ muốn ḿnh là một vagabond!”
Tôi nói, “ Đó là cái sắp xảy ra.”
Ông nói, “ Vậy, tại sao con lại muốn vào đại học?” Tôi nói, “ Con muốn là một vagabond có giáo dục, không phải là một vagabond do yếu đuối. Con không muốn làm bất cứ cái ǵ trong đời con chỉ v́ sự yếu đuối. B́nh thường, khi người ta không thể là bất cứ cái ǵ khác, họ trở thành một vagabond – nhưng đó không phải là cách của con. Trước hết, con muốn chứng tỏ cho thế giới rằng, con có thể là bất cứ cái ǵ mà con muốn trở thành, nhưng con vẫn muốn trở thành một vagabond – do sức mạnh. Rồi, cho dẫu ḿnh là một vagabond, th́ ḿnh vẫn được nể trọng, bởi v́ sự “khả kính” (respectability) không dính dáng ǵ đến nghề nghiệp của ḿnh; sự “khả kính” nằm ở hành động xuất phát từ sức mạnh, sự sáng suốt, trí tuệ (clarity, intelligence).
[2] Vagabond: người lang thang, lêu lổng; du đăng |
“ Do vậy, xin hăy nhận biết một cách rơ ràng,
rằng con sẽ vào đại học, nhưng không phải để có thể t́m một chỗ làm tốt.
Con không sinh ra để làm những điều ngu xuẩn như thế; vả lại, đă có
nhiều người để làm những điều đó. Nhưng một vagabond rất có văn hoá,
lịch lăm (sophisticated), có giáo dục, th́ rất được cần đến, bởi v́ chưa
ai từng thấy một người như thế. Có những vagabond, nhưng họ là những con
người hạng ba, họ là những kẻ thất bại. Con muốn, trước hết, tuyệt đối
thành công, và rồi đá vào tất cả sự thành công đó và để chỉ là một
vagabond.”
Ông nói, “ Ta không thể hiểu cái logic của con, nhưng, nếu con đă quyết
định trở thành một vagabond, th́ ta biết không có cách nào để thay đổi
con.”
Bảy năm đó… ông cứ gợi tôi nhớ, lặp đi lặp lại, “ Đó là lỗi lầm cơ bản
của chúng ta. Đó là thời gian mà chúng ta có thể xoay xở để biến con
thành một cái ǵ đó có giá trị. Nhưng Nana và Nani của con, hai vị đó,
đă hủy hoại con hoàn toàn.”
Và sau cái chết của Nana tôi, Nani không bao giờ trở lại ngôi làng; bà
quá đau ḷng. Tôi đă thấy hằng ngàn cặp vợ chồng rất thâm t́nh với nhau,
bởi v́, lang thang ṿng quanh Ấn độ, tôi đă lưu lại với rất nhiều gia
đ́nh, nhưng tôi không bao giờ có thể t́m thấy bất cứ ai có thể so sánh
với ông cụ, bà cụ đó: Họ thực sự yêu thương nhau.
Bà lưu lại trong thành phố của cha tôi, nhưng bà là một phụ nữ rất độc
lập. Bà không thích cái đại gia đ́nh, dính kết với nhau; những em trai
của cha tôi, những người vợ của họ, con cái của họ – nó là một caravan (đoàn
người) khổng lồ. Bà nói, “ “Đây không phải là một nơi dành cho ta. Ta đă
sống suốt đời với chồng ta, trong im lặng. Con chỉ ở đó trong bảy năm,
nếu không, hẳn đă không có nhiều chuyện tṛ, bởi v́ không có ǵ để nói.
Chúng ta đă nói về tất cả những điều đó trước kia, nên không có ǵ để
nói – chúng ta chỉ đơn giản ngồi im lặng.” Bà nói, “ Ta muốn sống một
ḿnh.” Do vậy, họ t́m cho bà một ngôi nhà gần con sông, nơi mà bà thường
t́m thấy sự tương tự nào đó với cái nơi mà bà đă sống với ông tôi; trong
thị trấn này, chúng tôi không có hồ, nhưng chúng tôi có một con sông đẹp.
Suốt ngày tôi ở trường hay đi rong ṿng quanh thị trấn hay làm một ngàn
lẻ một thứ, và ban đêm, tôi luôn lưu lại với Nani tôi. Nhiều lần bà nói,
“Cha mẹ con có thể cảm thấy khó chịu. Chúng ta đưa con ra khỏi họ trong
bảy năm, về chuyện đó, họ không thể tha thứ cho chúng ta. Chúng ta nghĩ,
chúng ta nên trả con lại tinh khôi (clean) như khi chúng ta nhận con,
không cố áp đặt bất cứ cái ǵ lên con. Nhưng mà họ tức giận; họ không
nói ra như vậy, nhưng ta có thể cảm thấy điều đó, và ta nghe từ những
người khác, rằng chúng ta đă làm hỏng con. Và bây giờ, con không ngủ ở
nhà với cha mẹ con, và gia đ́nh con; con đến đây mọi đêm. Họ sẽ nghĩ
rằng, việc “làm hư hỏng” (spoiling) con vẫn đang tiếp tục – ông già đă
ra đi, nhưng bà già th́ vẫn c̣n đây.”
Tôi nói với bà, “ Nhưng nếu con không đến, bà có thực sự ngủ được không?
Bà chuẩn bị cho ai cái giường thứ hai mọi đêm trước khi con đến? Bởi v́
con không nói với bà rằng ngày mai con sẽ đến. Về ngày mai, ngay từ đầu,
con đă không chắc chắn, bởi v́ ai biết cái ǵ sẽ xảy ra ngày mai? Tại
sao bà lại chuẩn bị cái giường thứ hai? Và không chỉ cái giường thứ hai…”
Tôi có một thói quen cố hữu, mà bác sĩ của tôi bằng cách nào đó phải t́m
cách loại bỏ; ông ta phải mất hai, ba năm. Ngay từ thời thơ ấu, như tôi
có thể nhớ được, th́ tôi cần kẹo trước khi đi ngủ; nếu không, tôi không
thể ngủ được. Do vậy, bà không chỉ đang chuẩn bị cái giường của tôi, mà
bà có thói quen đi ra ngoài mua thứ kẹo (sweets) mà tôi thích. Và bà
thường giữ những cái kẹo bên cạnh giường tôi, để tôi có thể ăn – ngay cả
giữa đêm, nếu tôi lại cảm thấy thích ăn, th́ tôi có thể ăn.
Tôi hỏi bà, “ Bà giữ những cái kẹo này cho ai? Bà không ăn chúng; từ khi
Nana mất, bà không động tới kẹo.” Nana tôi ưa thích kẹo. Thật ra, có vẻ
như ông đă truyền cái tật này cho tôi; ông cũng có thói quen ăn trước
khi đi ngủ. Điều đó không xảy ra trong bất cứ gia đ́nh Jaina nào. Người
Jaina không ăn vào ban đêm; họ thậm chí không uống nước hay sữa, hay bất
cứ cái ǵ. Nhưng ông sống trong một ngôi làng nơi mà ông là người Jaina
duy nhất, nên không có vấn đề ǵ. Có lẽ, từ ông mà tôi có thói quen đó;
hẳn là ông, ông ăn và gọi tôi ăn cùng với ông. Hẳn tôi đă tham gia với
ông, và dần dần, nó trở nên một lề thói. Trong bảy năm đó, ông đă huấn
luyện tôi!
Cho nên, tôi không thể ngủ ở nhà v́ hai lư do. Một, là v́ những cái kẹo
đó – bởi v́ tại chỗ mẹ tôi, đó là điều không thể được: có quá nhiều trẻ
con, đến nỗi, nếu cho phép một đứa, th́ mọi đứa khác sẽ xin. Và dù sao
đi nữa, điều đó đi ngược lại đạo Jaina, thậm chí, bạn cũng không được
phép hỏi xin. Nhưng cái khó khăn của tôi, là tôi không thể đi ngủ, mà
không có kẹo.
Thứ hai, tôi cảm thấy, “ Nani hẳn phải đang cảm thấy cô độc – và ở trong
ngôi nhà này của cha, thật khó mà được ở một ḿnh, quá nhiều người, nó
luôn là một nơi họp chợ. Không ai sẽ cảm thấy thiếu ḿnh nếu ḿnh không
có mặt ở đây.” Không ai từng (cảm thấy) thiếu vắng tôi; họ đơn giản chắc
chắn rằng, tôi đang ngủ tại nhà Nani tôi, cho nên, cũng chẳng có vấn đề
ǵ.
Do vậy, ngay cả sau bảy năm đó, tôi cũng không ở dưới ảnh hưởng của cha
mẹ tôi. Thật t́nh cờ, ngay từ đầu, tôi đă độc lập. Làm đúng hay sai – đó
không phải là điều quan trọng, nhưng làm một cách độc lập, tự ḿnh. Và,
một cách từ từ, cái đó trở thành kiểu sống của tôi, về mọi sự – thí dụ,
về y phục. Trong thị trấn (town) của tôi, th́ tôi là người phi Hồi giáo duy nhất ăn mặc giống như một người Hồi giáo. Cha tôi nói, “ Con có thể làm bất cứ cái ǵ, nhưng ít nhất, đừng làm điều này, bởi v́ cha phải sống trong xă hội, cha phải nghĩ về những đứa con khác. Và con có ư tưởng này từ đâu thế?”
Những người Hồi giáo trong thị trấn của tôi dùng một loại pajama
được gọi là salvar, thay v́ cái dhoti mà người
Ấn thường dùng. Cái đó
được dùng bởi những người Pakhtoon tại Afghanistan và Pakhtoonistan –
những nơi xa xôi gần Hy mă lạp sơn, phía bên kia Hy mă lạp sơn. Nhưng nó
là một bộ pajama đẹp, và không được may một cách hà tiện vải giống như
một bộ pajama b́nh thường; nó có quá nhiều nếp gấp. Nếu bạn có một cái
salvar thực thụ, th́ bạn có thể may ít nhất mười cái pajama từ nó, nó có
quá nhiều nếp gấp. Những nếp gấp đó tạo cho nó vẻ đẹp của nó, khi tất cả
chúng được gom lại với nhau. Và tôi mặc một cái kurtha (của người
Pakhtoon), không phải loại kurtha của Ấn độ. Kurtha kiểu
Ấn th́ ngắn,
và những tay áo th́ không quá rộng. Kurtha kiểu Pakhtoon có tay áo rất
rộng, và cái kurtha th́ rất dài; nó xuống tận đầu gối. Và tôi có một cái
mũ lưỡi trai Thổ Nhĩ Kỳ.
Cha tôi thường bảo tôi, “ Con bước vào cửa tiệm với mắt nhắm, và nhắm
mắt đi ra. Tại sao không dùng cửa sau?” Ông nói, “ Con có thể đi vào từ
cửa sau, con có thể đi ra từ cửa sau; con có thể có ch́a khoá riêng, bởi
v́ không ai dùng cửa sau. Ít nhất, chúng ta sẽ khỏi phải mất công trả
lời mọi khách hàng, ‘ Người Hồi giáo đang đi vào, mắt nhắm lại, là ai
thế?’ Thế mà con lại có những ư tưởng kỳ lạ này. Chúng ta có một cửa
tiệm vải vóc – đủ loại vải đều có ở đây, y phục may sẵn đều có ở đây,
con có thể có bất cứ kiểu nào, nhưng kiểu … Hồi giáo?”
Tại Ấn, kiểu (y phục) Hồi giáo được xem là kiểu tồi tệ nhất. Tôi nói, “
Đây là lư do tại sao, bởi v́ tất cả mọi người đều nghĩ rằng kiểu Hồi
giáo là kiểu tồi tệ nhất. Con đang phản đối tất cả mọi người, con cho
rằng y phục của người Hồi giáo là y phục đẹp nhất. Và người ta có thể
thấy điều đó; bất cứ nơi nào con đi, chỉ có con là được chú ư, không ai
khác được chú ư. Bất cứ khi nào con bước vào pḥng học, con được chú ư;
bất cứ nơi nào con đi, con được chú ư ngay lập tức.”
Và cái cách mà tôi đang sử dụng cái trang phục (dress) đó… Nó thực sự là
một cái trang phục đẹp, và với một cái mũ lưỡi trai Thổ Nhĩ Kỳ. Cái mũ
lưỡi trai th́ dài và có một cái tua treo lủng lẳng một bên; mọi người
Thổ Nhĩ Kỳ giàu có đều dùng nó. Tôi c̣n quá bé, nhưng cái trang phục đó
giúp tôi trong nhiều cách. Tôi có thể đi gặp ông ủy viên hội đồng (commissioner) của thị trấn, và người gác cổng thường chỉ nh́n tôi và nói, “Mời vào,” khi nh́n thấy cái trang phục đó… Có lẽ ông sẽ không cho phép tôi, một cậu trai nhỏ, bước vào, nhưng, “ Với cái trang phục này, hẳn cậu ta là một sheik [3] hay một ai đó rất quan trọng.” Và ngay cả ông ủy viên hội đồng cũng thường đứng lên, khi nh́n thấy cái trang phục của tôi. “ Sheik” được dùng cho những người rất đáng tôn trọng, và ông thường nói, “Sheikji, betye – Sheikji, mời ngồi xuống.”
Tôi nói với cha tôi, “
Cái trang phục này giúp con trên nhiều phương diện. Chỉ mới hôm kia, con
đến gặp một ông mục sư (minister); và ông cũng nghĩ rằng con là một
sheik thuộc về một gia đ́nh Ả rập hay Ba tư. Thế mà cha lại muốn con bỏ
cái trang phục này, chỉ dùng một dhoti và kurtha, mà sẽ không có ai chú
ư đến ư?”
Tôi tiếp tục mặc cái trang phục đó cho tới kỳ thi tuyển sinh vào đại học.
Họ cố hết sức để tôi không mặc nó nữa, nhưng họ càng cố sức… tôi nói, “
Nếu cha mẹ ngừng cố sức, th́ có lẽ con có thể bỏ nó; c̣n như nếu cha mẹ
tiếp tục cố sức, th́ con là người cuối cùng bỏ nó.”
Một hôm, cha tôi đặt tất cả salvar, kurtha và ba cái mũ lưỡi trai Thổ
Nhĩ Kỳ của tôi thành một gói, và đi xuống nhà kho ở tầng hầm, và đặt
chúng ở đó, nơi cất giữ mọi loại vật dụng bị vỡ, vô dụng. Khi ra khỏi
pḥng tắm, chẳng thấy quần áo đâu cả, nên tôi chỉ đơn giản trần truồng,
mắt nhắm lại, cứ thế mà đi vào trong cửa tiệm. Trong khi tôi đang đi ra
ngoài, cha tôi nói, “ Hăy đợi! Hăy trở lại. Mặc áo quần vào đi.”
Tôi nói, “ Cha hăy mang chúng đến, bất kể chúng đang ở đâu.”
Ông nói, “ Ta chưa bao giờ nghĩ rằng con sẽ làm điều này. Ta nghĩ rằng
con sẽ nh́n quanh t́m áo quần và con sẽ không t́m thấy chúng, bởi v́ ta
đă đặt chúng trong một nơi mà con sẽ không t́m thấy chúng. Rồi, tự nhiên
con sẽ mặc những y phục b́nh thường mà con được mong đợi sẽ mặc. Ta chưa
bao giờ nghĩ rằng con sẽ làm việc này.”
Tôi nói, “ Con làm hành động trực tiếp. Con không tin vào lời nói không
cần thiết.”
Tôi thậm chí cũng không hỏi bất cứ ai, là áo quần của tôi ở đâu. Tại sao
lại phải hỏi chứ? Sự trần truồng của tôi sẽ phục vụ mục đích tương tự.
Ông nói, “ Con có thể lấy lại quần áo của ḿnh, và không ai sẽ quấy rầy
con về chúng nữa. Nhưng, hăy làm ơn, đừng ở truồng mà đi, v́ điều đó sẽ
tạo ra thêm sự rắc rối – rằng một nhà buôn vải vóc, mà lại có một đứa
con trai không có y phục để mặc. Con là người tai tiếng, và con sẽ làm
cho chúng ta bị tai tiếng lây; ‘ Hăy nh́n đứa trẻ đáng thương!’ Mọi
người sẽ nghĩ rằng ta không cho con y phục.” Nó tiếp tục – tôi không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội để mài sắc trí thông minh của ḿnh. Tôi xoay mọi cơ hội khả dĩ về hướng mài sắc trí thông minh, tính cá nhân của tôi. Bây giờ bạn có thể hiểu, khi nh́n vào bức tranh toàn bộ, nhưng chỉ nh́n từng mảnh … (th́ khó mà hiểu được) Dĩ nhiên, những người tiếp xúc với tôi th́ không thể hiểu tôi thuộc loại người nào – điên, khùng – nhưng mà tôi đang tiến hành nó một cách có phương pháp.
__________________________
[3] Sheik: ( Ả rập) : tộc trưởng,
thôn trưởng, hay một người thuộc “danh gia, vọng tộc”. |
**********
Tôi nói
với cha tôi : ‘Không’. Đó là cái từ đầu tiên của tôi trước khi bước vào
trường tiểu học. Tôi nói với cha tôi, “ Không, con không muốn bước vào
chiếc cổng này. Đây không phải là một trường học, nó là một nhà tù.”
Chính cái cổng, và màu của ṭa nhà… Thật kỳ lạ, đặc biệt tại Ấn độ,
những nhà tù và trường học được sơn cùng một màu, và chúng đều được xây
bằng gạch đỏ. Thật khó mà biết một ṭa nhà là một nhà tù hay trường học.
Có lẽ xưa kia một kẻ thích đùa đă thành công trong việc làm một cú chơi
khăm, nhưng ông đă chơi một cách hoàn hảo.
Tôi nói, “ Hăy nh́n ngôi trường này –
cha gọi nó là một ngôi trường ư? Hăy nh́n chiếc cổng này! Thế mà, cha
lại ở đây để cưỡng bách con bước vào học ít nhất trong bốn năm.”
Cha tôi nói, “ Ta luôn e rằng…” - lúc
đó chúng tôi đang đứng ở cổng, dĩ nhiên ở phía bên ngoài, bởi v́ tôi đă
không cho phép ông dẫn tôi vào. Ông nói tiếp, “ … Ta luôn e rằng, ông
của con, và nhất là người phụ nữ này, bà của con, sắp làm hỏng con.”
Tôi nói, “ Nỗi lo sợ của cha là đúng,
nhưng công việc đă được làm xong rồi, và bây giờ không ai có thể hủy bỏ
nó, nên chúng ta hăy đi về nhà thôi.”
Ông nói, “ Cái ǵ! Con phải được giáo
dục.”
Tôi nói, “ Đây là loại khởi đầu ǵ
vậy? Con thậm chí không được tự do để nói đồng ư hay không. Cha gọi nó
là sự giáo dục à? Nhưng nếu cha muốn điều đó, th́ làm ơn đừng yêu cầu
con: Đây là bàn tay con, hăy lôi xệch con vào. Ít ra, con sẽ có sự thỏa
măn rằng, con không bao giờ tự ḿnh bước vào cái “tổ chức” (định chế-
institution) xấu xa này. Làm ơn, ít nhất hăy cho con ân huệ này.”
Dĩ nhiên, cha tôi đang rất bực ḿnh,
nên ông lôi xệch tôi vào. Mặc dù ông là một người rất chất phác, ông lập
tức hiểu rằng, điều đó là không đúng. Ông nói với tôi, “ Mặc dù ta là
cha của con, nhưng lôi xệch con vào, ta cảm thấy không đúng .”
Tôi nói, “ Xin đừng cảm thấy tội lỗi
chút nào cả. Điều mà cha đă làm, là hoàn toàn đúng, bởi v́ trừ khi một
ai đó lôi con vào, con sẽ không tự ư quyết định đi vào. Quyết định của
con là ‘không’. Cha có thể áp đặt quyết định của ḿnh lên con, bởi v́
con phải lệ thuộc cha về y phục, nơi ở, và mọi sự. Tự nhiên, cha ở trong
một vị thế có đặc quyền.”
Việc đi vào trường là khởi đầu của
một cuộc sống mới. Trong nhiều năm, tôi đă sống y hệt một con thú hoang
dă. Vâng, tôi không thể nói là một con người hoang dă, bởi v́ không có
con người nào là hoang dă. Chỉ thỉnh thoảng một người trở thành một con
người hoang dă. Bây giờ tôi là con người hoang dă; Buddha đă từng là con
người hoang dă, Zarathustra, Jesus họ đă từng là những con người hoang
dă – nhưng vào thuở đó, hoàn toàn đúng khi nói rằng, trong nhiều năm,
tôi đă sống như một con thú hoang dă.
Tôi không bao giờ đi học một cách tự
ư. Và tôi hạnh phúc, rằng tôi đă bị lôi xệch vào, rằng tôi không bao giờ
vào một cách tự ư, do tự chọn. Trường học thực sự là xấu xa – mọi trường
học đều xấu xa. Thực ra, tạo ra một t́nh huống nơi mà trẻ (có thể) học
tập là tốt, nhưng giáo dục chúng là không tốt. Sự giáo dục tất yếu là
phải xấu xa.[4] _______________________
[4]
Osho thường có những câu nói có vẻ
“không b́nh thường” kiểu này, nhưng có lẽ chúng ta đừng nên vội phán
đoán . Nếu đặt chúng vào trong “bối cảnh” tư tưởng của ông, ta sẽ hiểu
là ông muốn nói ǵ. |
Và tôi đă thấy ǵ như là cái đầu tiên tại
trường? Cái đầu tiên, là một cuộc “đụng độ” với ông thầy lớp một của tôi.
Tôi đă thấy những người đẹp và những người xấu, nhưng tôi chưa bao giờ
thấy một cái ǵ giống như thế này, một lần nữa! Ông là ông thầy, và ông
sắp dạy tôi. Tôi không thể thậm chí nh́n vào người đàn ông đó. Thượng đế
chắc hẳn đă sáng tạo ra khuôn mặt ông trong một t́nh thế rất “khẩn
trương.” Có lẽ cái bàng quang của Ngài đang đầy ắp, và chỉ để hoàn tất
công việc, Ngài tạo ra người đàn ông này, và lao vội vào toilet. Ngài đă
sáng tạo ra một con người quái dị làm sao! Ông ta chỉ có một mắt, và một
cái mũi khoẵm. Một con mắt đó là đủ, nhưng cái mũi khoẵm đă thực sự làm
tăng thêm vẻ xấu xí cho khuôn mặt ông. Và ông rất khổng lồ! Chắc hẳn ông
phải cân nặng tới 400 pound (180kg), không kém hơn.
Ông là người “thầy” đầu tiên của tôi – tôi muốn nói là “giáo viên”, bởi
v́ tại Ấn, những giáo viên được gọi là “thầy”. Ngay cả bây giờ, nếu tôi
thấy người đàn ông đó, chắc chắn tôi bắt đầu run rẩy. Ông không phải là
một con người chút nào; ông là một con ngựa!
Người giáo viên đầu tiên đó – tôi không biết tên thực của ông, và không
ai trong trường biết, nhất là lũ trẻ; chúng chỉ đơn giản gọi ông là Thầy
Kantar. Kantar có nghĩa là ‘một mắt’; chừng đó là đủ cho lũ trẻ, và nó
cũng là một sự kết án đối với ông ta. Trong tiếng Hindi, kantar không
chỉ có nghĩa là ‘một mắt’, nó c̣n được dùng như là một lời nguyền rủa.
Nó không thể được dịch trong cách đó, bởi v́ một vài sắc thái tinh tế bị
mất trong khi dịch. Cho nên, tất cả chúng tôi gọi ông là Thầy Chột ,
trước sự hiện diện của ông, và khi ông không có mặt ở đó, chúng tôi chỉ
đơn thuần gọi ông là Kantar – cái gă Chột.
Ông không chỉ xấu xí; mọi cái mà ông làm đều xấu xa. Và dĩ nhiên, vào
chính ngày học đầu tiên của tôi, một cái ǵ đó bắt buộc phải xảy ra. Ông
thường phạt lũ trẻ một cách tàn nhẫn. Tôi chưa bao giờ thấy hoặc nghe về
ai khác đă làm những điều như thế với trẻ con.
Ông đang dạy số học. Tôi đă biết một ít bởi v́ ông ngoại tôi thường dạy
tôi ở nhà; đặc biệt, một chút về ngôn ngữ, và một chút số học. Do vậy,
tôi đang nh́n ra ngoài cửa sổ, nh́n cây pipal đẹp đang lóng lánh trong
nắng. Không có cây nào khác chiếu sáng quá đẹp như thế dưới mặt trời,
bởi v́ mỗi cái lá nhảy múa một cách riêng rẽ, và toàn bộ cái cây trở nên
gần như một dàn đồng ca – hằng ngh́n vũ công và ca nhân chói sáng cùng
nhau. Nhưng cũng độc lập nhau. Tôi nh́n cái cây với những chiếc lá của
nó đang nhảy múa trong gió nhẹ, và mặt trời đang chiếu sáng trên mỗi
ngọn lá, và hằng trăm con vẹt (hundreds of parrots) đang nhảy từ cành nọ
sang cành kia, hân hoan thích thú, không v́ lư do nào cả. Sung sướng
thay, chúng không phải đi học!
Khi tôi đang nh́n ra ngoài cửa sổ , th́ Thầy Chột nhảy bổ lên tôi.
Ông nói, “ Tốt hơn, là nên chỉnh đốn mọi sự ngay từ lúc ban đầu.”
Tôi nói, “ Em hoàn toàn đồng ư về điều đó. Em cũng muốn chỉnh đốn mọi
thứ, ngay từ ban đầu.”
Ông nói, “ Tại sao mày nh́n ra cửa sổ khi tao đang giảng số học?”
Tôi nói, “ Số học phải được nghe, chứ không phải để thấy. Em không cần
phải thấy bộ mặt xinh đẹp của thầy. Em đang nh́n ra cửa sổ, để tránh
điều đó. Chừng nào có liên quan đến số học, thầy có thể hỏi em; em nghe
nó, và em biết nó.”
Ông ta hỏi tôi, và cái đó là khởi đầu của một sự rắc rối rất lâu dài –
không phải cho tôi, mà là cho ông. Cái rắc rối, là tôi trả lời đúng. Ông
không thể tin điều đó, và nói, “ Dù mày đúng hay sai, tao sẽ vẫn phạt
mày, bởi v́ nh́n ra cửa sổ khi thầy đang giảng bài, là sai trái.”
Tôi được gọi ra đằng trước mặt ông. Từ bàn giáo viên, ông lấy ra một hộp
bút ch́. Tôi đă nghe nói về những cây bút ch́ nổi tiếng này. Ông thường
đặt một trong những cây bút ch́ này giữa mỗi trong số những ngón tay của
bạn, rồi xiết chặt hai bàn tay bạn, và hỏi, “ Có muốn thêm một chút nữa
không? Có cần thêm không?” – với những đứa trẻ bé nhỏ!
Tôi nh́n những cây bút ch́ và nói, “Em đă nghe nói về những cây bút ch́
này, nhưng trước khi thầy đặt chúng giữa những ngón tay em, hăy nhớ rằng
nó sẽ bắt thầy trả một giá rất đắt, có lẽ thậm chí là chỗ làm của thầy.”
Ông cười lớn. Tôi có thể nói với bạn rằng, nó giống như một con quái vật
trong một cơn ác mộng đang cười vào bạn. Ông nói, “ Ai có thể ngăn cản
tao?”
Tôi nói, “ Đó không phải là điều then chốt. Em muốn hỏi: nh́n ra ngoài
cửa sổ có phạm nội qui không, khi số học đang được giảng? Và nếu em có
thể trả lời những câu hỏi về những ǵ đang được dạy, và em sẵn sàng lặp
lại từng từ một, th́ nh́n ra cửa sổ là có ǵ sai, về phương diện nào?
Vậy th́, tại sao cửa sổ trong pḥng học được tạo ra? V́ mục đích ǵ? Bởi
v́ suốt ngày một ai đó đang dạy một cái ǵ đó, và cửa sổ th́ không cần
đến vào ban đêm, khi mà không có ai nh́n ra khỏi nó.”
Ông ta nói, “ Mày là một đứa gây rối.”
Tôi nói, “ Đúng chính xác như thế, và em sắp đi gặp thầy hiệu trưởng để
xem, liệu thầy có hợp pháp không: thầy phạt em khi em trả lời những câu
hỏi của thầy một cách chính xác.”
Ông trở nên “xuống nước” (mellow) một chút. Tôi ngạc nhiên, bởi v́ tôi
đă nghe nói rằng, ông không phải là người mà có thể chịu khuất phục
trong bất cứ cách nào.
Rồi tôi nói, “ Và rồi em sẽ đi gặp ông chủ tịch hội đồng thành phố, là
người điều hành ngôi trường này. Ngày mai, em sẽ đến với một cảnh sát
trưởng (police commissioner), để cho ông ta có thể thấy tận mắt cái kiểu
tra tấn đang diễn ra ở đây.”
Ông rùng ḿnh. Những người khác không thấy được, nhưng tôi có thể thấy
những điều như thế, những điều mà những người khác có thể bỏ sót. Tôi có
thể không thấy những bức tường, nhưng tôi không thể bỏ sót những cái bé
nhỏ, gần như cực vi. Tôi bảo ông, “Thầy đang run rẩy, mặc dù thầy sẽ
không dám thừa nhận điều đó. Nhưng, để rồi xem. Trước hết, hăy để cho em
đi gặp thầy hiệu trưởng.”
Tôi đến, và ông hiệu trưởng nói, “ Ta biết người đàn ông này tra tấn trẻ
con. Điều đó là trái pháp luật, nhưng ta không thể nói ǵ được, bởi v́
ông ta là giáo viên già nhất trong thị trấn, và cha, ông của hầu hết mọi
người đều đă một lần là học tṛ của ông. Do vậy, không ai dám nhấc một
ngón tay lên chống lại ông.”
Tôi nói, “ Em không quan tâm. Cha em đă từng là học tṛ của ông, ông của
em cũng vậy. Em không quan tâm hoặc về cha em, hoặc về ông em; thật ra,
em không thực sự thuộc về gia đ́nh đó. Em sống xa cách họ từ lâu. Em là
một người lạ mặt ở đây.”
Ông hiệu trưởng nói, “ Ta có thể thấy ngay rằng tṛ hẳn là một người lạ
ở đây, nhưng cậu trai ạ, đừng nên dây vào sự rắc rối không cần thiết.
Ông ta sẽ tra tấn tṛ.”
Tôi nói, “ Điều đó không dễ đâu. Hăy để cho việc này là khởi đầu của
cuộc đấu tranh của em chống lại mọi sự tra tấn. Em sẽ chiến đấu.”
Và, với nắm tay – dĩ nhiên, chỉ là nấm đấm của một đứa trẻ nhỏ – tôi đấm
lên bàn và tôi nói với ông, “ Em không quan tâm về giáo dục hay bất cứ
cái ǵ, nhưng em phải quan tâm về sự tự do của em. Không ai có thể sách
nhiễu em một cách không cần thiết. Thầy phải cho em xem bộ luật giáo dục.
Em không biết đọc, và thầy sẽ phải chỉ cho em xem, là nh́n ra cửa sổ có
trái luật không, trong khi em có thể trả lời đúng mọi câu hỏi.”
Ông nói, “ Nếu tṛ trả lời đúng, th́ việc nh́n ra chỗ nào cũng không
thành vấn đề.”
Tôi nói, “ Thầy hăy đi với em.”
Ông đến với bộ luật giáo dục, một cuốn sách cổ xưa (ancient) mà ông luôn
mang theo. Tôi không nghĩ rằng có ai đă từng đọc nó. Ông hiệu trưởng nói
với Thầy Chột, “ Tốt hơn là đừng sách nhiễu cậu bé này, bởi v́ có vẻ như
nó có thể dội ngược lại ông. Cậu ta không bỏ cuộc dễ dàng.”
Nhưng Thầy Chột không phải là tưp người dễ phục thiện. Sợ hăi, ông trở
nên thậm chí càng gây hấn và bạo động hơn. Ông nói, “ Tôi sẽ cho thằng
bé này sáng mắt ra … – ông không cần lo lắng. Và ai quan tâm về cái bộ
luật đó? Tôi đă là một giáo viên ở đây suốt đời tôi và phải chăng thằng
bé này sắp dạy tôi về bộ luật giáo dục?”
Tôi nói, “ Ngày mai, hoặc là em sẽ ở trong ṭa nhà này hoặc là thầy,
nhưng cả hai chúng ta không thể cùng nhau tồn tại ở đây. Hăy đơn giản
đợi tới ngày mai.”
Tôi lao vội về nhà, kể lại sự việc với cha tôi. Ông nói, “ Ta lo lắng,
liệu ta có đă đưa con vào trường chỉ để mang rắc rối đến cho kẻ khác và
chính con, và cũng lôi kéo ta vào chuyện đó?”
Tôi nói, “ Không, con chỉ đơn giản tường thuật sự việc, để sau này cha
sẽ không nói rằng cha không hề hay biết.”
Tôi đi gặp ông cảnh sát trưởng, ông là một người đáng yêu; tôi đă không
mong đợi rằng một cảnh sát lại có thể dễ mến như vậy. Ông nói, “Ta đă
nghe nói về người đàn ông này. Thật ra, chính con trai ta cũng đă bị ông
ta tra tấn. Nhưng không ai phàn nàn. Tra tấn là trái phép, nhưng nếu
không có người khiếu nại, th́ sẽ không làm được ǵ cả, và chính ta cũng
không dám khiếu nại, bởi v́ biết chắc rằng ông ta sẽ đánh trượt con ta.
Do vậy, tốt hơn là cứ để cho ông ta tiếp tục tra tấn. Chỉ vài tháng nữa
thôi, rồi con ta sẽ chuyển sang một lớp khác.”
Tôi nói, “ Cháu ở đây là để khiếu nại, và cháu không quan tâm đến việc
chuyển sang lớp khác chút nào. Cháu sẵn sàng lưu lại trong lớp này suốt
đời ḿnh.”
Ông nh́n tôi, vỗ nhẹ lên lưng tôi và nói, “ Ta đánh giá cao cái mà cháu
đang làm. Ngày mai ta sẽ đến.”
Rồi tôi lao đi gặp ông chủ tịch hội đồng thành phố, ông ta tự chứng tỏ
ḿnh chỉ là một đống phân ḅ. Ông nói với tôi, “ Ta biết. Không thể làm
ǵ được về chuyện đó. Tṛ phải sống với nó, hay tṛ phải học cách chịu
đựng nó.”
Tôi nói với ông, và tôi nhớ những lời của tôi một cách chính xác, “Cháu
sẽ không tha thứ cho bất cứ cái ǵ mà lương tâm cháu thấy là sai trái.”
Ông nói, “ Nếu sự việc đúng như thế, th́ ta không thể đảm trách việc
này. Hăy đi gặp ông phó chủ tịch, có lẽ ông ta sẽ trợ giúp hiệu quả
hơn.” Và tôi phải cám ơn cái đống phân này về điều đó, bởi v́ ông phó
chủ tịch của làng đó, Shambhu Dube, tỏ ra là người duy nhất có bản lănh
trong toàn làng, trong kinh nghiệm của tôi. Khi tôi gơ cửa – tôi chỉ mới
tám, chín tuổi, và ông là phó chủ tịch – ông nói to, “Vâng, mời vào.”
Ông đang chờ đợi gặp một gentleman nào đó, và ngay khi thấy tôi, ông nom
có vẻ hơi bối rối.
Tôi nói, “ Cháu tiếc rằng, cháu không lớn tuổi hơn một chút – xin thứ
lỗi cho cháu. Vả lại, cháu không được học hành chút nào, nhưng cháu phải
khiếu nại về người này, Thầy Chột.”
Ông nói, “ Ta đă nghe những lời đồn đại, nhưng tại sao không có ai khiếu
nại?”
Tôi nói, “ Người ta sợ rằng con cái họ sẽ bị tra tấn thêm nữa.”
Ông nói, “ Cháu không sợ sao?”
Tôi nói, “ Không, bởi v́ cháu sẵn sàng bị đánh trượt. Đó là tất cả những
ǵ mà ông ta có thể làm.” Tôi nói rằng, tôi sẵn sàng chấp nhận bị trượt,
và tôi không tha thiết sự thành công, nhưng tôi sẽ chiến đấu cho đến tận
cùng: “ Hoặc là người đàn ông này hoặc là cháu – cả hai không thể ở đó
trong cùng một ṭa nhà.”
Shambhu gọi tôi đến sát bên ông. Nắm lấy tay tôi, ông nói, “ Ta luôn
luôn yêu mến những con người nổi loạn , nhưng ta không bao giờ nghĩ rằng
một đứa trẻ ở tuổi cháu lại có thể là một kẻ nổi loạn . Ta chúc mừng
cháu. ”
Chúng tôi trở thành “bạn” của nhau, và t́nh bạn này kéo dài cho đến khi
ông mất. Ngôi làng đó có dân số hai mươi ngàn người, nhưng tại
Ấn, nó
vẫn là một làng. Tại Ấn, trừ khi một thị trấn có một trăm ngàn người,
nó không được xem là một thị trấn. Khi có trên một triệu rưỡi người, th́
nó là một thành phố. Trong suốt đời tôi, tôi không bao giờ gặp được một
ai khác trong làng đó có cùng tầm cỡ (caliber), phẩm chất, hay tài năng
như Shambhu Dube. Nếu bạn hỏi tôi, th́ tôi sẽ nói rằng, trong toàn bộ
Ấn độ, tôi chưa bao giờ t́m thấy một Shambhu Dube thứ hai – thoạt nghe,
có vẻ như là một sự phóng đại, nhưng thật đúng như vậy. Thật hiếm có một
người như ông.
Khi tôi đang du hành khắp
Ấn độ, ông thường đợi hằng tháng để chờ tôi
đến thăm ngôi làng đó chỉ trong một ngày. Ông là người duy nhất mà đă
từng đến để nh́n tôi khi xe lửa tôi chạy qua làng. Dĩ nhiên, tôi không
bao gồm trong đó cha tôi hay mẹ tôi; họ phải đến. Nhưng Shambhu Dube
không phải là bà con thân thích của tôi; ông chỉ đơn giản yêu mến tôi.
Và t́nh yêu này khởi đầu ở buổi tao ngộ (meeting) đó, vào ngày đó, khi
tôi đến để phản đối Thầy Chột.
Shambhu Dube là phó chủ tịch hội đồng thành phố, và ông nói với tôi, “Đừng lo lắng, cái gă đó sẽ bị trừng phạt; thật ra, thời gian phục vụ của
ông ta đă hết. Ông làm đơn xin gia hạn, nhưng chúng ta sẽ không duyệt
cho ông. Từ ngày mai, cháu sẽ không c̣n thấy ông ta trong cái trường đó
nữa.”
Tôi nói, “ Đây có phải là một lời hứa không?”
Chúng tôi nh́n vào mắt nhau. Ông cười thành tiếng và nói, “ Ừ, đó là một
lời hứa.”
Ngày kế đó, Thầy Chột biến đi. Sau đó, ông ta không dám nh́n mặt tôi.
Tôi cố liên hệ với ông, gơ cửa nhà ông nhiều lần, chỉ để nói lời tạm
biệt, nhưng mà ông ta thực sự là một kẻ hèn nhát, một con cừu dưới lốt
hổ. Nhưng ngày đầu tiên đó tại trường hoá ra là khởi đầu của nhiều,
nhiều chuyện khác… |
**********
Điều đầu tiên mà cha tôi đă dạy tôi – và điều
duy nhất mà ông đă từng dạy tôi – là một t́nh yêu dành cho con sông nhỏ
chảy dọc theo thị trấn của tôi. Ông dạy tôi mỗi một việc này – bơi trên
sông. Đó là tất cả những ǵ mà ông đă từng dạy tôi, nhưng tôi vô cùng
biết ơn ông, bởi v́ cái đó mang lại quá nhiều thay đổi trong đời tôi. Y
hệt như Siddharta [5], tôi phải ḷng con sông này.
Cái thói quen hằng ngày của tôi, là ở cùng con sông ít nhất từ năm đến
tám tiếng mỗi ngày. Từ ba giờ sáng, tôi thường ở cùng con sông; bầu trời
thường đầy sao, và những ngôi sao phản chiếu trên mặt nước. Và đó là một
con sông đẹp; nước sông quá ngọt, đến nỗi người ta đă đặt tên nó là
Shakkar – shakkar có nghĩa là “đường”. Nó là một hiện tượng đẹp.
Tôi đă nh́n thấy nó trong bóng đêm với những v́ sao, nhảy múa chảy về
đại dương. Tôi đă nh́n thấy nó với b́nh minh. Tôi đă nh́n thấy nó - ngồi
một ḿnh trên bờ, hay với những người bạn, thổi sáo, nhảy múa trên bờ nó,
thiền định trên bờ nó, bơi xuồng trong nó, hay bơi lội băng qua nó. Dưới
cơn mưa, vào mùa đông, vào mùa hạ.
Tôi có thể hiểu Siddharta của Hermann Hesse và kinh nghiệm của nhân vật
này với con sông. Nó đă xảy ra với tôi: quá nhiều cái diễn ra, bởi v́
một cách chậm răi, chậm răi, với tôi, toàn bộ hiện hữu trở thành một con
sông. Nó mất vẻ rắn chắc của nó; nó trở nên lỏng, dễ thay h́nh đổi dạng.
Và tôi vô cùng biết ơn cha tôi. Ông không bao giờ dạy tôi toán, ngôn ngữ,
địa lư, ngữ pháp, lịch sử. Ông không bao giờ quan tâm nhiều đến sự giáo
dục của tôi. Ông c̣n có mười đứa con khác… Và tôi đă thấy xảy ra nhiều
lần, khi mà người ta thường hỏi, “ Con trai ông đang học lớp mấy?” Và
ông thường phải hỏi một ai đó bởi v́ ông không biết. Ông không bao giờ
quan tâm đến việc giáo dục của tôi, và sự giáo dục duy nhất mà ông đă
cho tôi, là niềm giao cảm (communion) với con sông. Chính ông cũng yêu
sâu sắc con sông đó.
Bất cứ khi nào bạn yêu những sự vật đang tuôn chảy, những sự vật đang di
động, bạn có một nhăn quan (vision) khác biệt về cuộc đời. Con người
hiện đại sống với những con đường nhựa, những ṭa nhà xi măng cốt sắt.
Đây là những danh từ, hăy nhớ, đây không phải là những động từ. Những
ṭa nhà chọc trời không tiếp tục phát triển; con đường vẫn là một (như
cũ) dù ngày hay đêm, dù là một con trăng rằm hay là một đêm tối mịt. Bất
luận cái ǵ xảy ra, nó không thành vấn đề đối với con đường nhựa, nó
không thành vấn đề đối với những ṭa nhà ximăng cốt sắt. Con người đă tạo ra một thế giới của những danh từ, và rồi dính kẹt vào trong thế giới của chính ḿnh. Hắn đă quên đi thế giới của cỏ cây, của sông suối, núi non, và của những v́ sao. Ở đó, chúng không biết về bất cứ danh từ nào, chúng chưa từng nghe về những danh từ; chúng chỉ biết có những động từ. Mọi sự là một tiến tŕnh. Thượng đế không phải là một sự thể (a thing), mà là một tiến tŕnh (process).
[5] Siddharta: nhân vật nam trong tiểu thuyết Siddharta, của Hermann Hesse. Siddharta rất yêu con sông, và đă học ờ nó nhiều điều sâu xa và huyền nhiệm. Xem bản dịch “Câu chuyện của ḍng sông”, Trí Hải dịch, NXB Hội Nhà Văn tái bản.
|
**************
Trong thị trấn của tôi chỉ có một nhà thờ. Có rất ít người Kytô giáo, có
lẽ bốn, năm gia đ́nh, và tôi là người phi Kytô duy nhất thường viếng
thăm nhà thờ đó. Nhưng đó không phải là (trường hợp) đặc biệt; tôi có
thói quen viếng thăm những đền thờ Hồi giáo (mosque), gurudwara, những
ngôi đền Hindu, những ngôi đền Jaina. Tôi luôn có ư tưởng rằng, mọi thứ
đều thuộc về tôi. Tôi không thuộc về nhà thờ nào, tôi không thuộc về bất
cứ ngôi đền nào, nhưng bất cứ ngôi đền, nhà thờ nào hiện hữu trên trái
đất, đều thuộc về tôi.
Thấy một người phi Kytô chủ nhật nào cũng đến, ông linh mục trở nên quan
tâm đến tôi. Ông nói với tôi, “Con có vẻ rất quan tâm. Thật ra, trong
toàn cọng đồng của ta – nó là một cọng đồng quá bé nhỏ – con là người
quan tâm nhất. Những người khác th́ đang ngủ, đang ngáy, nhưng mà con
th́ quá tỉnh táo (alert) và chú ư lắng nghe và quan sát mọi sự. Con có
muốn trở nên giống như Jesus Christ không?” và ông cho tôi xem h́nh Chúa
Jesus, dĩ nhiên là của ông, đang treo trên thánh giá.
Tôi nói, “ Không, tuyệt đối không! Tôi không có ước vọng bị đóng đinh.
Và một người bị đóng đinh, hẳn có một cái ǵ đó không ổn (wrong - sai
trái) với ông ta; nếu không thế, th́ ai quan tâm đến việc đóng đinh ai?
Nếu toàn đất nước ông ta, nhân dân ông ta quyết định đóng đinh ông ta,
th́ điều đó có nghĩa là, trong người đàn ông này phải có một cái ǵ đó
không ổn (wrong). Ông có thể là một người dễ mến, có thể là người tốt,
nhưng hẳn một cái ǵ đó đă dẫn ông đến việc bị đóng đinh. Có lẽ ông có
một bản năng tự vẫn. Những người có bản năng tự vẫn thường không đủ can
đảm để tự vẫn; nhưng họ có thể xoay xở (manage) để người khác mưu sát họ.[6] Và rồi ta sẽ không bao giờ phát hiện ra rằng họ có một bản năng tự vẫn,
rằng họ xúi giục ta giết họ, để cho trách nhiệm đổ xuống ta.”
Tôi nói, “ Tôi không có bản năng tự vẫn nào trong tôi. Có lẽ ông ta
không phải là một người (muốn) tự vẫn, nhưng chắc chắn ông ta là một
loại người có bệnh thống dâm (masochist). Chỉ đơn giản nh́n vào khuôn
mặt ông ta – và tôi đă thấy nhiều bức h́nh ông ta – tôi thấy ông ta nom
quá khốn khổ, vô cùng khốn khổ, đến nỗi tôi đă thử đứng trước một tấm
gương soi và làm ra vẻ khốn khổ như ông ta, nhưng tôi đă thất bại. Tôi
đă gắng sức nhiều, nhưng tôi đă không thể thậm chí bắt chước khuôn mặt
của ông ta; làm thế nào tôi có thể trở thành Jesus Christ được? Cái đó
dường như không thể được. Và tại sao tôi lại phải trở thành Jesus Christ
chứ ?”
Ông bị sốc. Ông nói, “ Ta nghĩ rằng con quan tâm đến Chúa Jesus.”
Vào những ngày chủ nhật, ông thường nói, “ Các bạn thân mến –“
Tôi thường nói, “ Xin hăy đợi! Đừng dùng số nhiều. Không có “những”
người bạn, chỉ “bạn thân mến” cũng đủ rồi. Nó gần như đôi t́nh nhân đang
tâm t́nh với nhau; nó không phải là một công đồng (congregation). Ông có
thể ngồi xuống – không có ai ở đó. Chúng ta có thể có một cuộc tán gẫu
vui vẻ. Tại sao lại cứ đứng một cách không cần thiết trong một giờ, la
to, và…?”
Và đó là cái đă xảy ra. Trong ṿng ba tháng, ông bỏ đi, bởi v́ nếu bạn
không trả lương cho ông … Mặc dù Jesus nói, “ Con người không thể chỉ
sống bằng bánh ḿ thôi,” con người cũng không thể sống mà không có bánh
ḿ. Ông cần bánh ḿ. Nó có thể là không đủ, ông cần nhiều thứ khác nữa,
nhưng nhiều thứ khác là chuyện sau này; trước nhất, phải có bánh ḿ .
Con người chắc chắn có thể chỉ sống bằng bánh ḿ. Y sẽ chưa thành ra một
con người - nhưng mà ai mới ra một con người? Nhưng không ai có thể sống
mà không có bánh ḿ, ngay cả Jesus.
Tôi thường đi vào trong đền thờ Hồi giáo, và họ cho phép tôi. Những
người Kytô, Hồi giáo – những người này đang cải đạo người khác; họ muốn
những người từ những tôn giáo khác đến với tôn giáo của họ. Họ rất hạnh
phúc thấy tôi ở đó – nhưng lại vẫn câu hỏi tương tự. “ Con có muốn trở
nên giống như Hazrat Mohammed?” Tôi ngạc nhiên khi biết rằng không ai
quan tâm đến việc chỉ đơn giản là chính ḿnh, giúp tôi trở thành chính
ḿnh.
Mọi người quan tâm đến một ai đó khác, lư tưởng, lư tưởng của họ, và tôi
chỉ phải là một bản copy? Phải chăng Thượng đế đă không cho tôi một
khuôn mặt gốc? Tôi phải sống với một khuôn mặt vay mượn, với một mặt nạ,
biết rằng tôi không có khuôn mặt nào cả? Như vậy, làm thế nào đời bạn là
một niềm vui được? Ngay cả khuôn mặt bạn cũng không phải là của bạn.
Toàn bộ sự hiện hữu th́ đầy phúc lạc, bởi v́ tảng đá là tảng đá, cây là
cây, sông là sông, đại đương là đại dương. Không cái nào đang bận tâm (muốn)
trở nên một cái khác; nếu không, tất cả chúng đều sẽ phát khùng (go
nuts). Và đó là cái đă xảy ra với con người.
Ngay từ thơ ấu, bạn đă được dạy để không là chính ḿnh, nhưng cái cách
mà nó được nói ra th́ rất khôn khéo, tinh ranh (cunning). Họ nói, “ Con
phải trở nên giống như Krishna, Buddha,” và họ vẽ Buddha và Krishna
trong một cách thức sao cho nó khơi dậy trong bạn ước muốn trở thành một
Buddha, một Jesus, một Krishna. Ước vọng này là nguyên nhân gốc rễ của
sự khốn khổ của bạn. Tôi cũng đă được dạy bảo cùng một điều như bạn
đượcdạy bảo, nhưng ngay từ thơ ấu, tôi đă nhấn mạnh rằng, dù bất cứ hậu
quả nào xảy ra, tôi sẽ không để cho ḿnh đi chệch khỏi chính ḿnh. Đúng
hay sai, tôi sẽ vẫn cứ là chính ḿnh. Cho dù tôi kết thúc tại địa ngục,
tôi sẽ ít nhất có sự thỏa măn rằng tôi đi theo ḍng chảy của đời tôi.
Nếu nó dẫn về địa ngục, th́ nó cứ về địa ngục. Theo lời khuyên của người
khác, lư tưởng, những pháp môn tu tập (discipline) của người khác, th́
cho dù kết thúc tại thiên đường, tôi sẽ không hạnh phúc ở đó, bởi v́ tôi
bị cưỡng bách chống lại ư muốn của ḿnh.
Hăy cố hiểu cái điểm then chốt đó. Nếu nó trái với ư muốn của bạn, th́
ngay cả khi ở trên thiên đường, bạn cũng sẽ thấy đó là địa ngục. Nhưng
đi theo cái ḍng hiện hữu tự nhiên của bạn, th́ ngay cả khi bạn ở địa
ngục, bạn vẫn thấy như ở trên thiên đường.
Thiên đường là nơi mà sự tồn tại đích thực của bạn nở hoa.[7]
Địa ngục là nơi mà bạn bị chà đạp và một cái ǵ khác bị áp đặt lên bạn. [6] Cậu bé này đă có những ư tưởng khá “phạm thánh” và ngược đời – ngay từ lúc c̣n rất nhỏ!
[7]Như vậy, “thiên đường” có thể ở khắp mọi nơi … Nhưng, trước hết, nó ở giữa tâm hồn ta, phải không?
|
**********
Tại làng tôi, như khắp miền Đông
Ấn, hằng năm
vở kịch Ram-leela - đời của Rama - được diễn. Người đàn ông thường đóng
vai Ravana - kẻ thù của Rama, đánh cắp vợ của Rama - là một tay đô vật
có hạng. Anh ta là vô địch của toàn địa hạt (district), và năm tới, anh
ta sắp thi đấu để tranh chức vô địch toàn quốc gia. Chúng tôi thường tắm
trên sông hầu như đồng thời vào buổi sáng, nên chúng tôi trở thành bạn
của nhau. Tôi bảo anh ta, “ Hằng năm anh đóng vai Ravana, và hằng năm
anh bị lừa gạt. Ngay lúc mà anh sắp bẻ găy cây cung của Shiva, để có thể
cưới Sita, con gái của Janaka, th́ một người đưa tin chạy đến, báo tin
rằng thủ đô Sri Lanka của anh đang bốc cháy. Cho nên anh phải đi, vội vă
trở lại đất nước. Và trong khi đó, Rama thành công bẽ găy cây cung và
cưới cô gái. Anh không thấy chán, năm nào cũng chừng đó chuyện ư?”
Anh ta nói, “ Nhưng câu chuyện nó như vậy mà.”
Tôi nói, “ Câu chuyện là ở trong tay chúng ta, nếu anh nghe theo những
gợi ư của tôi. Anh hẳn đă thấy rằng, hầu hết mọi người đều ngủ gục bởi
v́ họ đă xem đi xem lại cùng một điều, năm này sang năm nọ, thế hệ này
sang thế hệ nọ – hăy làm cho nó thú vị (juicy) một chút.”
Anh ta nói, “ Ư cậu là ǵ?”
Tôi nói, “ Lần này, anh làm một điều mà tôi nói ...” Và anh ta đă làm
đúng như thế!
Khi người đưa tin (sứ giả) đến với với thông điệp: “ Thủ đô của ngài,
Sri Lanka vàng son, đang bốc cháy; ngài phải về ngay.” Th́ anh ta nói,
“You shut up, idiot” (im mồm đi, đồ ngốc) – anh ta nói bằng tiếng Anh!
Đó là cái mà tôi đă xúi anh ta làm!
[8] Tất cả mọi người đang ngủ bỗng tỉnh
dậy: “ Ai đang nói tiếng Anh trong vở Ramleela thế nhỉ?”
Và Ravana nói, “ Ngươi hăy đi đi. Ta cóc cần nghe. Ngươi đă lừa gạt ta
hằng năm. Lần này, ta sẽ cưới Sita.”
Rồi anh ta đi và bẻ găy cây cung của Shiva thành từng mảnh, và ném nó
vào những ngọn núi – nó chỉ là một cây cung bằng tre. Và anh ta hỏi
Jankana, “Con gái ngươi đâu? Hăy mang lại đây! Máy bay (jumbo) của ta
đang đợi!”
Thật là buồn cười, vui nhộn! Ngay cả sau bốn mươi năm, bất cứ khi nào
tôi gặp một ai đó từ làng tôi, họ đều nhớ cái vở kịch Ramleela đó. Họ
nói, “Chưa từng có cái ǵ như thế xảy ra.”
Người quản lư (manager) phải cho màn hạ. Và người đàn ông này (đóng vai
Ravana) là một nhà đô vật to con, ít nhất 12 người đă phải khiêng anh ta
ra ngoài. Ngày đó, Ramleela không thể diễn được. Và ngày kế, họ đă phải đổi Ravana; họ t́m một người khác.
[8] Nghịch ngợm kiểu này, th́ chắc ngoài cậu trai (Osho) này ra, toàn cơi Ấn độ không ai dám làm!
|
Bên bờ sông, “Ravana” gặp tôi. Anh ta nói, “
Cậu làm xáo trộn hết mọi sự.”
Tôi nói, “ Nhưng anh có thấy, người ta vỗ tay, thích thú? Trong nhiều
năm, anh đă diễn vai đó, nhưng không ai vỗ tay, không ai cười lớn. Thật
đáng bơ công!”
Tôn giáo cần một phẩm chất tôn giáo. Một vài phẩm chất bị thiếu. Một
trong những phẩm chất quan trọng nhất là một cảm thức hài hước.
Người ta ngăn không cho tôi gặp những diễn viên của họ. Họ làm rơ với
mọi diễn viên, rằng nếu bất cứ ai nói chuyện với tôi hay gặp tôi, th́
người đó sẽ không được phép diễn. Nhưng họ quên nói với một người, anh
ta không phải là một diễn viên …
Anh ta là thợ mộc. Anh cũng thường đến làm một công việc nào đó trong
nhà tôi. Do vậy, tôi nói với anh, “ Tôi không thể đến gần những diễn
viên năm nay. Năm ngoái là đủ! Mặc dù tôi không làm hại ai – mọi người
yêu thích nó, cả thành phố đánh giá cao nó. Nhưng bây giờ họ đang canh
gác mọi diễn viên, và họ không cho phép tôi đến gần diễn viên. Nhưng anh
không là diễn viên, chức năng của anh là công việc khác. Anh có thể giúp
tôi.”
Anh ta nói, “ Bất cứ cái ǵ tôi làm được, tôi sẽ làm, bởi v́ năm ngoái
nó thật là tuyệt. Tôi có thể giúp một chút chứ?”
Tôi nói, “ Chắc chắn rồi.” Và anh ta đă làm nó!
Trong chiến tranh, Lakshmana, em trai của Rama, bị thương bởi một mũi
tên độc. Nó rất nguy kịch. Những y sĩ nói rằng, nếu không mang về một
loại dược thảo nào đó từ núi Arunachal, th́ anh ta không thể được cứu
sống, và vào trước buổi sáng anh ta sẽ chết. Anh ta đang nằm xuống bất
tỉnh trên sân khấu. Rama đang kêu khóc.
Hanuman, kẻ thuộc hạ (follower) tận tụy nhất của anh ta, nói, “Đừng lo
lắng. Tôi sẽ đi ngay lập tức đến Arunachal, t́m dược thảo, mang về trước
buổi sáng. Tôi chỉ cần một y sĩ cho một số chỉ dẫn, làm thế nào để t́m
nó, h́nh dáng nó ra sao. Có thể có quá nhiều loại dược thảo trên núi
Arunachal, và thời gian th́ quá gấp rút, sắp tối rồi.”
Vị y sĩ nói, “ Không có ǵ khó khăn. Loại dược thảo đặc biệt đó có một
tính chất độc đáo. Ban đêm, nó phát xạ và rực sáng, đến mức ngươi có thể
thấy nó. Do vậy, bất cứ nơi nào ngươi thấy một loại cỏ phát sáng, ngươi
có thể mang về.”
Hanuman đi tới núi Arunachal, nhưng hắn bị bối rối, bởi v́ toàn bộ núi
Arunachal đầy những dược thảo phát sáng. Không chỉ một loại cỏ có tính
chất đặc biệt đó. Nhiều loại cỏ khác cũng có đặc tính phát sáng trong
đêm.
Bây giờ Hanuman đáng thương – hắn chỉ là một con khỉ – bối rối không
biết phải làm ǵ. Do vậy, hắn quyết định mang toàn bộ ngọn núi về, và
đặt núi ở đó, đằng trước vị y sĩ để ông t́m ra thứ dược thảo cần thiết.
Người thợ mộc th́ đang ở trên chóp mái nhà. Anh ta phải kéo sợi dây
thừng mà trên đó Hanuman đến với một ngọn núi bằng các-tông với những
ngọn nến đang cháy. Và trước đó, tôi đă bảo anh ta, “ Hăy ngừng ngay
giữa chừng. Hăy để cho nó treo lủng lẳng ở đó, với ngọn núi và mọi thứ.”
Và anh ta làm đúng như thế!
Người quản lư lao vụt ra ngoài. Toàn bộ đám đông xôn xao hào hứng trước
những ǵ đang xảy ra. Và Hanuman đang đầm đ́a mồ hôi, bởi v́ “hắn” đang
treo lủng lẳng trên những sợi dây thừng cùng với ngọn núi, ở bàn tay kia.
Người quản lư lao vụt lên sân khấu. Ông ta hỏi người thợ mộc, và anh ta
nói, “Tôi không biết cái ǵ bị trục trặc. Sợi dây thừng bị kẹt ở một
nơi nào đó.”
Một cách vội vă, không t́m thấy ǵ, người quản lư cắt những sợi dây
thừng và Hanuman với ngọn núi của hắn rơi xuống trên sân khấu. Và đương
nhiên, “hắn” rất tức giận. Nhưng hằng ngàn người th́ vô cùng vui sướng.
Nó càng khiến cho anh ta (người diễn vai Hanuman) thêm tức giận.
Rama tiếp tục lặp lại những lời thoại của vai diễn. Anh ta nói,
“Hanuman, người bạn tận tụy của tôi …"
Hanuman nói, “ Quỷ tha ma bắt những người bạn của ông! Có lẽ tôi bị găy
xương.”
Rama tiếp tục nói, “ Em trai tôi đang hấp hối.”
Hanuman nói, “ Anh ta muốn chết lúc nào, cứ việc chết! Cái mà tôi muốn
biết, là ai đă cắt sợi dây thừng? Tôi sẽ giết hắn ta!”
Một lần nữa, màn phải được hạ xuống, Ramleela phải hoăn lại. Và người
quản lư và những người đang tổ chức cho vỡ diễn, tất cả đến gặp cha tôi
và nói, “ Con trai ông đang phá hủy mọi sự. Nó đang bêu rếu tôn giáo của
chúng tôi.”
Tôi nói, “ Tôi không bêu rếu tôn giáo của quư vị. Tôi chỉ đơn giản đem
lại cho nó một chút hài hước.”
Tôi muốn mọi người cười lớn. Cứ lặp lại hằng năm một câu chuyện cổ để
làm ǵ? Rồi th́, mọi người đều ngủ gật bởi v́ họ biết rơ câu chuyện, họ
biết mọi lời thoại của nó. Nó hoàn toàn vô nghĩa.”
Nhưng thật khó cho những kẻ theo chủ nghĩa truyền thống già nua, những
người chính thống, chấp nhận được tiếng cười.[9] Bạn không thể cười lớn
trong một nhà thờ. ________________
[9] Osho luôn có một “cảm thức hài hước” ( a sense of humor). Trang Tử cũng có một nụ cười rất thâm trầm. Chogyam Trungpa, một đạo sư Mật tông Tây Tạng, cũng vậy. Tôi rất “tâm đắc” với nụ cười của các vị này.
|
************
Ông nội tôi rất yêu tôi, chỉ v́ những tṛ nghịch ngợm của tôi. Thậm chí
trong tuổi già của ḿnh, ông vẫn rất nghịch ngợm. Ông không bao giờ
thích cha tôi hay những ông chú tôi, bởi v́ họ chống lại cái tính nghịch
ngợm của ông lăo này. Tất cả họ đều nói với ông, “ Bây giờ cha đă 70 rồi,
cha phải hành xử đúng đắn. Bây giờ những con trai của cha đều đă 50, 55,
con gái cũng đă 50, con cái họ đều đă thành gia thất, cháu của họ cũng
đang ở đó – thế mà cha vẫn cứ tiếp tục làm những điều khiến cho chúng
con cảm thấy xấu hổ.” Tôi là bạn “tri kỷ” duy nhất của ông, và tôi yêu cụ già này, v́ lư do đơn giản, là ông đă không đánh mất tuổi thơ của ḿnh. Thậm chí ở tuổi 70, ông vẫn nghịch ngợm như bất cứ đứa trẻ nào. Và ông thường nghịch ngợm với chính con trai, con gái của ḿnh, với cả con rể, và họ đều bị sốc.
Tôi cũng người “tâm phúc” (confidant) duy
nhất của ông, bởi v́ chúng tôi âm mưu cùng nhau. Dĩ nhiên, nhiều điều
ông không thể làm – tôi phải làm các thứ đó. Thí dụ, con rể ông đang ngủ
trong pḥng, và ông không thể leo lên mái nhà, nhưng tôi có thể. Do vậy,
chúng tôi cùng âm mưu với nhau; ông sẽ giúp tôi, ông trở thành một “cái
thang” để tôi leo lên mái nhà và dở một tấm ngói.
[10] Và ban đêm, chỉ với
một cây tre và một cái bàn chải gắn vào nó, chạm vào mặt của người con
rể… Anh ta sẽ hét lên, và cả nhà sẽ chạy đến đó… “ Có chuyện ǵ thế?”
Nhưng vào lúc đó, chúng tôi đă biến đi, và anh ta sẽ nói, “ Có một con
ma nào đó, hoặc một ai đó chạm vào mặt tôi. Tôi cố chụp bắt nó, nhưng
không thể; trời quá tối.”
Ông tôi vẫn c̣n hoàn toàn hồn nhiên, và tôi thấy sự tự do lớn lao mà ông
có được. Trong gia đ́nh tôi, ông là niên trưởng. Lẽ ra, ông phải là
người nghiêm túc nhất, và bị chất đầy với quá nhiều vấn đề và lo lắng,
nhưng không có ǵ chạm được tới ông. Mọi người đều nghiêm trang và lo
lắng khi có những vấn đề; chỉ có ông là không lo lắng. Nhưng một điều mà
tôi không bao giờ thích, đó là ngủ chung với ông. Ông có thói quen ngủ
che kín mặt, và tôi cũng sẽ phải ngủ che kín mặt, rất ngột ngạt.
Tôi nói với ông một cách rạch ṛi, “ Về mọi sự, th́ con đồng ư, nhưng
chuyện này th́ con không thể chịu được. Ông ngủ, che kín mặt; con không
thể ngủ che kín mặt – nó làm cho con ngộp thở. Ông có cử chỉ rất tŕu
mến ” – ông thường giữ tôi sát bên quả tim ông và che kín tôi hoàn toàn
– “ cái đó th́ hoàn toàn tốt, nhưng vào buổi sáng, quả tim con sẽ không
c̣n đập! Ư định của ông là tốt, nhưng vào buổi sáng th́ ông sẽ c̣n sống,
c̣n con th́ sẽ tắt thở. Do vậy, t́nh bạn của chúng ta là ở ngoài cái
giường.”
Ông muốn tôi ở đó, bởi v́ ông yêu thương tôi và ông nói, “ Tại sao con
không đến ngủ với ta?” Tôi nói, “ Ông biết hoàn toàn rơ, rằng con không muốn bị ngộp thở bởi bất cứ ai, cho dù ư định của họ là tốt.” Chúng tôi cũng thường đi dạo – một cuộc đi dạo dài – vào buổi sáng, và đôi khi ban đêm, lúc có trăng. Nhưng tôi không bao giờ cho phép ông nắm tay tôi. Và ông thường nói, “Nhưng tại sao? Con có thể ngă, con có thể vấp vào một ḥn đá hay một cái ǵ đó.”
[10]
Ông già này cũng nghịch ngợm… “quá cỡ” ! |
Tôi nói, “ Như vậy tốt hơn. Hăy để cho con va
vấp, điều đó sẽ không giết chết con. Nó sẽ dạy cho con làm sao để khỏi
va vấp, làm sao để cảnh giác, làm sao để nhớ là nơi nào có những tảng đá.
Nhưng ông lại nắm tay con – ông c̣n có thể nắm tay con bao lâu nữa? Ông
định ở với con bao lâu nữa? Nếu ông có thể bảo đảm rằng ông sẽ luôn luôn
ở cùng con, th́ dĩ nhiên, con sẽ sẵn ḷng.”
Ông là một người rất thành thật. Ông nói, “ Ta không thể bảo đảm điều đó;
ta không thể thậm chí nói về ngày mai. Và một điều chắc chắn, là con sẽ
c̣n sống lâu và ta sẽ chết trước, do vậy, ta sẽ không thể ở đây măi măi
để nắm tay con.”
“Vậy th́,” - tôi nói – “ tốt hơn, con nên học từ bây giờ, bởi v́ một
ngày nào đó, ông sẽ rời bỏ con giữa chừng, không ai trợ giúp. Cho nên,
hăy cứ để con một ḿnh, cứ để cho con té ngă. Con sẽ cố đứng dậy. Ông cứ
đợi; ông chỉ cần quan sát, và cái đó sẽ từ bi đối với con, hơn là việc
nắm tay con.”
Thật là tốt khi ngă một vài lần, bị đau, lại đứng lên – đi lạc đường một
đôi lần. Không có hại ǵ cả. Cái khoảnh khắc mà bạn phát hiện ra rằng
bạn đă đi lạc đường, hăy quay trở lại. Cuộc đời phải được học thông qua
thử nghiệm và sai lầm.
Tôi thường nói với cha tôi, “ Đừng cho con bất cứ lời khuyên nào, ngay
cả nếu con hỏi xin. Cha phải rất thẳng thắn về chuyện đó. Cha chỉ cần
nói, ‘ Hăy tự t́m lấy đường mà đi.’ Xin đừng cho con lời khuyên.” Bởi v́
khi có thể có một lời khuyên với giá rẻ, th́ ai c̣n bận tâm t́m kiếm con
đường riêng của ḿnh?
Tôi nói, “ Đó không phải là việc của Thầy. Thầy là giáo viên địa lư, và
đây là một vấn đề đạo đức. Nếu Thầy muốn, em sẵn sàng đi tới pḥng hiệu
trưởng; Thầy cùng đi với em. Không có chỗ nào trong chương tŕnh địa lư…
Em đă đọc nó, và không có chỗ nào nói rằng bạn không thể lấy tiền của
một ai đó khác. Và tiền bạc chỉ là tiền bạc; bất cứ ai có nó, nó là của
người ấy. Ngay lúc này nó là của em. Cậu ta phải cảnh giác hơn. Nếu Thầy
muốn cho lời khuyên, th́ hăy cho cậu ta.”
“ Trước hết, có cần phải đem quá nhiều tiền tới giờ học địa lư không?
Không có ǵ để mua; sẽ không có chuyện mua sắm ở đây. Tại sao bạn ấy đem
tiền đến đây? Rồi, nếu đă đem theo tiền, th́ bạn ấy nên cảnh giác. Đó
không phải là lỗi của em, mà là lỗi của bạn ấy, và em chỉ đơn giản lợi
dụng thời cơ, đó là quyền của em. Tận dụng t́nh huống là quyền của mọi
người.”
Tôi c̣n nhớ người đàn ông đáng thương này. Ông luôn gặp khó khăn, và
luôn gặp khó khăn với tôi. Ông thường gặp tôi bên ngoài lớp, và nói,
“Tṛ có thể làm bất cứ cái ǵ mà tṛ muốn, chỉ đừng mang quá nhiều triết
lư vào trong môn địa lư khốn khổ. Và tôi không biết ǵ về triết lư – tôi
chỉ biết về địa lư. Và tṛ xoay hướng câu hỏi, đến mức mà thậm chí trong
đêm, tôi cứ măi suy nghĩ, không biết nó thuộc về địa lư, tôn giáo, hay
triết học.” Ngay trước trường tôi có hai cây kadamba đẹp. Cây kadamba có hoa rất thơm, và tôi thường ngồi trên cây đó bất cứ khi nào tôi có thể trốn thoát khỏi những giờ học. Đó là nơi tốt nhất, bởi v́ những giáo viên thường đi qua bên dưới - ông hiệu trưởng cũng thường đi qua, và không ai nghĩ rằng tôi có thể đang nấp trong cây. Những cây này có thân rất to. Nhưng bất cứ khi nào ông thầy địa lư này đi qua, tôi không thể cưỡng lại việc ném ít nhất một hai ḥn đá vào đầu ông ta. [11] Và ông thường nh́n lên, và nói, “ Tṛ đang làm ǵ ở đó?”
Một hôm, tôi nói, “ Đây không phải là giờ địa
lư. Thầy quấy rầy việc thiền định của em.”
Và ông ta nói, “ C̣n hai ḥn đá rơi trên đầu ta th́ sao?”
Tôi nói, “ Đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Em đă ném những ḥn đá;
thật kỳ lạ, làm sao mà thầy lại xuất hiện chính xác vào lúc đó. Bây giờ,
em đang tự hỏi về điều đó. Chắc Thầy cũng đang tự hỏi về điều đó, làm
sao mà nó xảy ra một cách chính xác như vậy.”
Ông thường đến mách với cha tôi. “ Sự việc đang đi quá xa.” Ông là một
người hói đầu; và trong tiếng Hindi, người hói đầu gọi là munde. Tên ông
ta là Chotelal, nhưng ông được biết đến như là Chotelal Munde. Chotelal
th́ hiếm khi được dùng, chỉ Munde là đủ, bởi v́ ông là người duy nhất
hói đầu hoàn toàn. Khi ở ngay trước cửa nhà ông, tôi thường gơ cửa và vợ
ông hay một ai đó thường mở cửa, và họ thường nói, “ Tại sao tṛ tra tấn
ông ta? Tṛ tra tấn ông tại trường, tṛ tra tấn ông tại chợ, tṛ tra tấn
ông trên sông khi ông đi tắm.”
Một hôm vợ ông mở cửa và nói, “ Tṛ có chịu ngừng tra tấn ông Hói (Munde)
hay không?” – lúc ấy, ông ta ở đó, đằng sau bà!
Ông túm lấy vợ và nói, “ Bà cũng gọi tôi là Hói (Munde) ! Cậu trai này
đă loan truyền khắp thành phố cái ư tưởng rằng tên tôi là Chotelal Hói –
và bây giờ, chính vợ tôi cũng bị cậu ta “cải đạo”. Tôi có thể tha thứ
mọi người khác, nhưng chính vợ tôi, ngay trong nhà tôi …”
Nhưng tôi nhấn mạnh với những ông giáo viên của tôi: “ Xin vui ḷng đi
theo lối đi của quư vị và đừng cho em bất cứ lời khuyên nào mà không
thuộc về môn học của quư vị, để cho em có thể thám hiểm đời em trong
cách của riêng em. Vâng, em sẽ phạm nhiều sai lầm, nhiều khuyết điểm. Em
sẵn sàng phạm lỗi lầm, bởi v́ đó là cách duy nhất để học hỏi.”
[11] Chỗ này, cậu bé này thật … quá đáng. Phải “đánh đ̣n” thôi!
|
* * * * * * * *
Ông nội tôi không phải là một người tôn giáo,
không chút nào. Ông gần gũi với Alexis Zorba [12] hơn: ăn, uống, và vui chơi;
không có thế giới nào khác, tất cả mọi thứ đó đều là vớ vẩn. Cha tôi là
một người rất tôn giáo; có lẽ v́ ông tôi – một phản ứng, khoảng cách thế
hệ. Nhưng mà có một sự lộn ngược trong gia đ́nh tôi: Ông tôi là một
người vô thần và có lẽ bởi v́ sự vô thần của ông, cha tôi trở thành
người hữu thần. Và bất cứ khi nào cha tôi đi lễ đền, ông tôi thường cười
to và nói, “ Lại nữa! Hăy cứ tiếp tục, hăy cứ lăng phí thời gian của con
đằng trước những bức tượng ngu xuẩn đó!”
Tôi yêu Zorba v́ nhiều lư do; một trong những lư do, là qua Zorba, tôi
t́m thấy lại ông tôi. Ông quá yêu thực phẩm, đến nỗi ông thường không
tin cậy bất cứ ai; ông thường tự ḿnh chuẩn bị thức ăn. Trong đời tôi,
tôi đă từng là một vị khách trong hằng ngàn gia đ́nh tại
Ấn, nhưng tôi
chưa bao giờ nếm một cái ǵ quá ngon lành như những cái do ông tôi nấu.
Và ông quá yêu nó, đến mức hằng tuần nó là một tiệc tùng cho tất cả
những người bạn của ông – và ông thường chuẩn bị suốt ngày.
Mẹ tôi, các cô tôi và những tôi tớ, đầu bếp – tất cả đều bị ném ra khỏi
bếp. Khi ông tôi đang nấu nướng, không ai được quấy rầy ông. Nhưng ông
rất thân thiện với tôi; ông cho phép tôi quan sát và ông nói, “Hăy học,
đừng nương nhờ vào người khác. Chỉ có ḿnh mới biết được khẩu vị của
ḿnh. Ai khác có thể biết nó chứ?” Tôi nói, “ Cái đó th́ quá sức con; con quá lười biếng, nhưng con có thể quan sát. Nấu nướng suốt ngày ư? Con không thể làm chuyện đó.” Cho nên, tôi đă không học được cái ǵ, nhưng chỉ quan sát đă là một niềm vui – cái cách mà ông làm việc, hầu như là một nhà điêu khắc hay một nhạc sĩ hay họa sĩ. Nấu nướng không chỉ là nấu nướng, nó là nghệ thuật với ông. Và nếu một cái ǵ đó dưới tiêu chuẩn một chút, ông thường ném đi ngay. Ông thường nấu nó lại, mặc dù tôi thường nói, “ Nó hoàn toàn ngon mà.”
[12] Alexis Zorba : tên của nhân vật (nam) chính của tác phẩm Zorba the Greek của Nikos Kazantzakis. Zorba “tận hưởng” cuộc sống (thiên về nhục cảm), xem cuộc sống là thiêng liêng, chứ không ưa “lư luận” và tích lũy nhiều kiến thức sách vở. Tại VN, trước 1975, đă có bản dịch “Con Người Chịu Chơi” của Nguyễn Hữu Hiệu (Saigon). Sau 1975, có bản dịch “ Alexis Zorba, Con Người Hoan Lạc.” Dương Tường, NXB Trẻ, 1989.
|
Ông thường nói, “ Con biết rằng nó không
ngon một cách hoàn hảo, nó chỉ tàm tạm thôi; nhưng ta là người theo chủ
nghĩa hoàn hảo. Chừng nào nó chưa đạt tiêu chuẩn của ta, ta sẽ không mời
ai ăn. Ta yêu thực phẩm của ta.”
Ông thường làm nhiều loại thức uống … và bất cứ cái ǵ ông làm, cả gia
đ́nh đều chống lại ông: Họ nói rằng ông là một kẻ gây phiền hà. Ông
không cho phép bất cứ ai ở trong bếp, và vào buổi chiều tối, ông tụ họp
tất cả những kẻ vô thần của thị trấn. Và chỉ để thách thức đạo Jaina,
ông thường ngồi cho đến khi mặt trời lặn. Ông thường không ăn trước đó,
bởi v́ đạo Jaina nói: hăy ăn trước mặt trời lặn; sau mặt trời lặn, không
được phép ăn. Ông thường sai tôi đi xem là mặt trời đă lặn hay chưa.
Ông làm cho cả nhà bực ḿnh. Và họ không thể giận ông – ông là gia
trưởng, niên trưởng – nhưng họ giận tôi. Cái đó dễ hơn. Họ nói, “Tại sao
con cứ chốc chốc lại đi xem là mặt trời đă lặn hay chưa? Ông già đó đang
làm cho con cũng bị “mất linh hồn” (lost), hoàn toàn mất.”
Tôi rất buồn bởi v́ tôi t́nh cờ gặp một cuốn sách là Zorba người Hy lạp
ngay vào lúc ông tôi đang hấp hối. Điều duy nhất mà tôi cảm thấy tại lễ
hỏa táng của ông là, có lẽ ông đă yêu nó, nếu tôi dịch và đọc nó cho ông
nghe. Tôi đă đọc nhiều cuốn sách cho ông nghe. Ông không được học hành.
Ông chỉ có thể viết chữ kư của ḿnh, chỉ chừng đó. Ông không biết đọc,
biết viết – nhưng ông rất tự hào về điều đó.
Ông thường nói, “ Thật tốt là cha của ta không cưỡng bách ta đi học, nếu
không, có lẽ ông cụ ấy đă làm hỏng ta. Những cuốn sách này đă làm hỏng
người ta quá nhiều.” Ông thường nói với tôi, “ Hăy nhớ, cha của con đă
bị làm hỏng, chú con bị làm hỏng; họ đang liên tục đọc những cuốn sách
tôn giáo, kinh điển, và tất cả chúng đều là rác rưởi. Trong khi họ đang
đọc, th́ ta đang sống; và thật tốt khi biết thông qua kinh nghiệm sống.”
Ông thường bảo tôi, “ Họ sẽ gởi con đến trường đại học – họ sẽ không
chịu nghe ta. Và ta không thể giúp nhiều, bởi v́ nếu cha con và mẹ con
cứ khăng khăng, họ sẽ gởi con vào đại học. Nhưng hăy cẩn thận: Đừng để
bị lạc lối (lost) trong những cuốn sách.”
Ông khoái những vật nhỏ bé. Tôi hỏi ông. “ Mọi người tin vào Thượng đế,
tại sao ông không tin, Baba?” Tôi gọi ông là baba; tại
Ấn, ông nội được
gọi là baba.
Ông nói, “ Bởi v́ ta không sợ.”
Một câu trả lời rất đơn giản: “ Tại sao ta lại phải sợ? Không cần ǵ
phải sợ; ta không làm điều ǵ sai trái, ta không làm hại ai. Ta chỉ đơn
giản sống đời ta một cách vui sướng. Nếu có một Thượng đế, và ta gặp
Ngài một lúc nào đó, th́ Ngài không thể giận ta. Ta sẽ giận Ngài: ‘Tại
sao Ngài lại tạo ra cái loại thế giới này?’ Ta không sợ.”
Khi ông đang hấp hối, tôi lại hỏi ông, bởi v́ những bác sĩ nói rằng
ông chỉ c̣n sống thêm vài phút nữa thôi. Mạch của ông đang trở nên yếu
hơn, quả tim ông đang lụi dần, nhưng ông hoàn toàn minh mẫn. Tôi hỏi ông,
“ Baba, một câu hỏi …”
Ông mở mắt ra, và nói, “ Ta biết câu hỏi của con: ‘ Tại sao ông không
tin vào Thượng đế?’ Ta biết rằng con sắp hỏi ta câu hỏi đó khi ta đang
hấp hối. Có phải con nghĩ rằng cái chết khiến cho ta sợ? Ta đă sống quá
vui sướng và quá hoàn toàn, ta chết mà không có ǵ phải nuối tiếc. “ Ngày mai ta sẽ làm cái ǵ khác? Ta đă làm hết mọi thứ, và không c̣n sót lại ǵ. Và nếu mạch của ta đang chậm lại và tiếng đập quả tim ta đang chậm lại, ta nghĩ mọi sự sẽ hoàn toàn tốt đẹp, bởi v́ ta đang cảm thấy rất b́nh an, rất trầm tĩnh, rất im lặng. Bất luận ta chết một cách vĩnh viễn hay tiếp tục sống (ở một thế giới khác.ND), ta không thể nói ngay bây giờ. Nhưng một điều mà con nên nhớ: Ta không sợ.”
|
Khi tôi đỗ kỳ thi tuyển sinh vào đại học, cả
gia đ́nh tôi nháo nhào cả lên, bởi v́ tất cả đều muốn một cái ǵ đó. Một
ai đó muốn tôi trở thành bác sĩ, một ai đó muốn tôi là nhà khoa học, một
ai đó muốn tôi là kỹ sư – bởi v́ tại
Ấn, đây là những công việc được
trọng vọng, lương cao. Bạn trở nên giàu có, bạn trở nên nổi tiếng, bạn
được tôn vinh. Nhưng tôi nói, “ Con sẽ học triết học.”
Tất cả họ đều nói, “ Chỉ vớ vẩn! Không người nào có tâm lư b́nh thường
mà lại đi học triết. Con sẽ làm ǵ sau đó? Sáu năm lăng phí ở đại học,
học những thứ chả có ích lợi ǵ. Chúng không có giá trị ǵ, con thậm chí
sẽ không có được một chỗ làm nho nhỏ.”
Và họ có lư. Tại Ấn độ, nếu bạn nộp đơn xin công việc nhỏ nhất, giống
như một thư kư tại bưu điện, th́ chỉ cần chứng chỉ trúng tuyển đại học
là đủ. Nhưng, nếu bạn có bằng M.A triết học, bạn xếp hạng ưu ở đại học,
bạn có một huy chương vàng – th́ bạn sẽ bị từ chối. Chỉ v́ bạn đă có
những cái đó! Đây là những cái “phản tác dụng”, cho thấy bạn là một con
người “khó tính” (difficult)! Một thư kư không nên là một triết gia; nếu
không, tất yếu phải có những khó khăn.
Cho nên họ nói, “ Con sẽ chịu khổ suốt đời. Hăy suy nghĩ kỹ lại.”
Tôi nói, “ Con không bao giờ suy nghĩ, các vị biết điều đó. Con chỉ đơn
giản nh́n thấy. Và không có vấn đề lựa chọn, con biết con sẽ học cái ǵ.
Đó không phải là vấn đề cân nhắc là công việc nào sẽ có nhiều lợi nhuận
hơn. Cho dẫu con trở thành một kẻ hành khất, con cũng sẽ học triết.”
Họ bối rối. Tất cả đều hỏi tôi, “ Nhưng tại sao con lại muốn học triết?”
Tôi nói, “ Lư do là, suốt đời con, con sẽ chiến đấu chống lại những
triết gia. Con phải biết mọi thứ về họ.”
Họ nói, “ Trời ơi! Đây là ư tưởng của con? Chúng ta chưa bao giờ tưởng
tượng rằng một người học triết bởi v́ anh ta sẽ chiến đấu chống lại
những triết gia suốt đời ḿnh.” Nhưng họ biết rằng tôi ‘điên điên.’ Họ
nói, “Chúng ta cũng đă đoán trước một cái ǵ như thế này.” Tuy nhiên, họ
vớt vát: “Vẫn c̣n thời gian, con có thể suy lại nghĩ về chuyện đó. Những
trường đại học sẽ khai giảng trong ṿng một tháng nữa; con vẫn c̣n có
thể thay đổi ư định của ḿnh.”
Tôi nói, “ Một tháng, một năm, một đời cũng thế thôi, bởi v́ con không
có bất cứ sự lựa chọn nào. Nó là trách nhiệm tất yếu của con – không có
lựa chọn nào khác.”
Một trong những ông chú tôi, đă tốt nghiệp đại học, nói, “Thật không thể
nào nói chuyện với nó – nó dùng những từ có vẻ như không mang ư nghĩa ǵ.
Trách nhiệm… tất yếu, không có lựa chọn nào khác… những thứ này có dính
dáng ǵ tới cuộc sống? Người ta sẽ cần tiền bạc, sẽ cần một cái nhà, sẽ
cần phải chu cấp cho một gia đ́nh.”
Tôi nói, “ Cháu sẽ không có một gia d́nh. Cháu sẽ không có một cái nhà,
và cháu sẽ không chu cấp cho một ai cả!” Và quả thực, tôi đă không chu
cấp cho bất cứ ai, không xây bất cứ cái nhà nào. Tôi là người nghèo nhất
thế giới!
Họ không thành công trong việc cưỡng bách tôi trở thành bác sĩ, kỹ sư,
nhà khoa học, nhưng tất cả họ đều tức giận. Và khi tôi trở thành một “du
sư” (wandering teacher) ṿng quanh đất nước - làm cái công việc mà v́ nó
tôi đă nghiên cứu logic và triết học bởi v́ tôi muốn hoàn toàn quen
thuộc với kẻ thù - chẳng bao lâu không có lấy một người sẵn sàng chấp
nhận sự thách thức của tôi. Rồi gia đ́nh tôi bắt đầu cảm thấy tội lỗi,
cảm thấy rằng, thật tốt là họ đă không thể buộc tôi trở thành bác sĩ, kỹ
sư, nhà khoa học. Tôi đă chứng minh rằng, họ đă sai lầm. Họ bắt đầu yêu
cầu tôi, “Hăy tha thứ cho chúng ta.” Tôi nói, “ Không có vấn đề ǵ, bởi v́ con không bao giờ xem trọng tất cả lời khuyên của các vị. Con không bao giờ bận tâm! Bất cứ cái ǵ mà con muốn làm, th́ con sẽ làm, mặc dù mọi sự đi ngược lại con. Cho nên, đừng cảm thấy tội lỗi. Con chưa bao giờ xem trọng lời khuyên của các vị; con nghe các vị nói, nhưng không nghe theo. Con đă có một quyết định riêng, không lay chuyển.”
|