Biên dịch : Đỗ Tư Nghĩa
PHẦN I: CHƯƠNG V
Ngay từ thời thơ ấu, tôi đă ưa thích kể những câu chuyện, thật và bịa.
Tôi không hề ư thức rằng, việc kể chuyện này sẽ cho tôi một khả năng
diễn đạt khúc chiết (articulateness) và cái đó sẽ là một trợ giúp rất
lớn cho tôi sau khi chứng ngộ.
Nhiều người trở nên chứng ngộ, nhưng không phải tất cả họ đều trở thành
đạo sư – v́ lư do đơn giản, là họ không có “biện tài” (articulate), họ
không thể diễn đạt cái mà họ cảm thấy, không thể truyền đạt cái mà họ đă
thể nghiệm. Bây giờ, với tôi, chỉ là sự t́nh cờ ngẫu nhiên mà tôi trở
thành đạo sư, và tôi nghĩ, với một số ít người mà đă trở thành đạo sư
th́ hẳn là cũng vậy - bởi v́ không hề có một khoá huấn luyện nào dành
cho việc đó. Và chỉ tôi dám chắc chắn về chính ḿnh.
Khi sự chứng ngộ đến, trong bảy ngày đầu tiên tôi không thể nói ra lời;
sự im lặng th́ quá sâu xa, đến nỗi ngay cả ư tưởng nói một cái ǵ về nó
đă không khởi lên. Nhưng sau bảy ngày, một cách chậm răi, khi tôi trở
nên quen với sự im lặng, quen với niềm phúc lạc to lớn, th́ ước vọng
muốn chia sẻ nó – một khao khát lớn lao, muốn chia sẻ nó với những người
mà tôi mến yêu – là rất tự nhiên. Tôi bắt đầu nói với những người mà tôi có quan hệ trong một cách nào đó, những bạn hữu. Trước đây, tôi vẫn thường nói chuyện với những người này trong nhiều năm, nói về đủ thứ chuyện. Tôi đă chỉ ưa thích một loại “bài tập”, và do trau dồi kỹ năng nói chuyện, cho nên, không khó khăn mấy khi bắt đầu nói về sự chứng ngộ – mặc dù phải mất nhiều năm để “tinh luyện” (refine), đưa vào lời nói một cái ǵ đó về sự im lặng của tôi, một cái ǵ đó về niềm vui của tôi.
Những học giả th́ cực kỳ “sở trường” trong việc hủy diệt tất cả những ǵ
đẹp đẽ bằng những b́nh luận của họ, những thuyết minh của họ, cái mệnh
danh là sự học vấn (learning) của họ. Họ làm cho mọi thứ trở nên nặng nề,
đến nỗi với họ, ngay cả thi ca cũng trở nên phi thi ca (nonpoetic).
Chính tôi không bao giờ dự bất cứ giờ học thi ca nào tại trường đại học.
Tôi cứ thường xuyên bị ông khoa trưởng gọi lên, và ông nói, “ Anh dự
những giờ học khác, tại sao anh không đến dự những giờ học thi ca?”
Tôi nói, “ Bởi v́ em muốn giữ cho cái ḷng yêu thích của em đối với thi
ca được sống. Em yêu thi ca, đó là lư do tại sao. Và em biết một cách
hoàn toàn rơ, rằng những giáo sư của đại học này th́ tuyệt đối phi thi
ca (unpoetic); họ chưa bao giờ biết chút thi ca nào trong đời họ. Em
biết họ một cách hoàn toàn rơ. Sáng nào người đàn ông dạy thi ca tại
trường đại học cũng đi bộ với em Em chưa bao giờ thấy ông nh́n cây cỏ,
lắng nghe tiếng chim, ngắm b́nh minh đẹp.”
Và ở trường đại học mà tôi đang theo học, b́nh minh và hoàng hôn là một
cái ǵ đó vô cùng đẹp. Trường đại học nằm trên một ngọn đồi, vây quanh
bởi những cái g̣ (hillock) nhỏ xung quanh. Tôi đă du hành khắp
Ấn độ,
và tôi chưa bao giờ thấy ở đâu có b́nh minh và hoàng hôn đẹp như vậy. V́
lư do huyền bí và ẩn mật nào đó, đại học Sagar có một địa thế đặc biệt,
nơi mà những đám mây trở nên quá nhiều màu sắc vào buổi b́nh minh và
hoàng hôn, đến mức ngay cả một người mù cũng sẽ (trở nên) nhận biết,
rằng một cái ǵ đó hết sức đẹp đang xảy ra.
Nhưng tôi chưa bao giờ thấy ông giáo sư đang dạy thi ca tại trường đại
học nh́n hoàng hôn, hay dừng lại thậm chí trong một khoảnh khắc. Và bất
cứ khi nào ông thấy tôi ngắm b́nh minh hay hoàng hôn, hay cây cỏ, hay
chim chóc, ông thường hỏi tôi, “ Tại sao anh lại ngồi ở đây? Anh đến để
đi bộ buổi sáng cơ mà– hăy tập thể dục đi.”
Tôi nói, “ Đối với em, đây không phải là một bài tập thể dục. Thầy đang
tập thể dục; với em, nó là một chuyện t́nh.”
Và khi trời mưa, ông thường không bao giờ ra ngoài. Bất cứ khi nào trời
mưa, tôi thường đến gơ cửa pḥng ông và nói, “ Ta đi nào!”
Ông nói, “ Nhưng trời đang mưa mà!”
Tôi nói, “ Đây là thời điểm đẹp nhất để đi bộ, bởi v́ những đường phố
th́ tuyệt đối trống không. Và đi bộ mà không có ô trong khi trời mưa,
th́ quá đẹp, quá thơ mộng!”
Ông nghĩ là tôi điên – nhưng một người chưa bao giờ đi dưới mưa, dưới
cây, th́ không thể nào hiểu được thi ca. Tôi nói với ông trưởng khoa,
“Người đàn ông này không có hồn thơ (poetic), ông ta hủy diệt mọi thứ.
Ông ta quá “học giả” (scholarly) mà thi ca là một hiện tượng quá “phi
học giả” (unscholarly) đến nỗi không có cái mảnh đất chung nào giữa ông
ta và thi ca.” Những trường đại học hủy diệt cái mối quan tâm (interest) và ḷng yêu thi ca của người ta.[1] Chúng hủy diệt toàn bộ ư tưởng của bạn về ư nghĩa cuộc đời - sống thế nào cho ra sống; chúng càng ngày càng biến nó thành một thứ hàng hoá. Chúng dạy bạn làm thế nào để kiếm nhiều tiền hơn, nhưng chúng không dạy bạn làm thế nào để sống sâu sắc, làm thế nào để sống một cách toàn bộ – và đây là nơi mà bạn có thể có được những thoáng nh́n. Đây là nơi có những cánh cửa nhỏ mở vào cái (chân lư) tối hậu. Bạn được nói cho biết giá trị của tiền bạc, nhưng không được nói cho biết giá trị của một bông hồng. Bạn được dạy cho biết giá trị của một vị thủ tướng hay tổng thống, nhưng không được bảo cho biết giá trị của một nhà thơ, một họa sĩ, một ca sĩ, một vũ công. Người ta nghĩ rằng, những cái đó là dành cho những người điên. [2]
Sau khi
nhận bằng B.A, tôi rời Jabalpur, bởi v́ một trong các vị giáo sư tại đại
học Sagar, S. S Roy, khẩn khoản (persistently) yêu cầu tôi, viết thư,
gọi điện cho tôi để nói, “ Sau khi đỗ B.A, anh hăy vào đại học này, để
học chương tŕnh sau đại học.”
Từ đại học Jabalpur đến đại học Sagar, cũng không xa mấy – 100 dặm.
Nhưng đại học Sagar, trên nhiều phương diện, th́ rất độc đáo, có một
không hai (unique). Nó là một đại học nhỏ so với đại học Benares hay
Aligarh, là những đại học có 10 – 12 ngàn sinh viên. Chúng cũng giống y
như đại học Oxford hay Cambridge – những đại học lớn, những tên tuổi lớn.
Đại học Sagar chỉ có 1000 sinh viên, và gần 300 giáo sư, do vậy, cứ 3
sinh viên, th́ có 1 giáo sư. Nó là một nơi hiếm hoi; có lẽ không nơi nào
trên thế giới mà bạn có thể t́m thấy một đại học khác, nơi mà có 1 giáo
sư cho 3 sinh viên. Người đă sáng lập trường đại học này quen biết tất cả những giáo sư giỏi nhất khắp thế giới. Sagar là nơi sinh của ông; Tiến sĩ Harisingh Gaur là tên ông. Ông là một thẩm quyền nổi tiếng thế giới về luật học, và ông kiếm được quá nhiều tiền – và không bao giờ bố thí một đồng pisa nào cho hành khất, cho bất cứ tổ chức nào, cho hội từ thiện nào. Ông được biết đến như là người hà tiện nhất trong toàn bộ nước Ấn độ. Và rồi ông sáng lập trường đại học này, và hiến tặng toàn bộ tiền dành dụm suốt đời của ḿnh. Nó lên tới hằng triệu Mỹ kim.
______________________
[1] Theo tôi được biết, th́ đây là một
hiện tượng phổ biến, có tính ṭan cầu – nhất là trong thời đại mà chúng
ta đang sống. Chắc chắn Việt Nam không phải là ngoại lệ… H́nh như có
nhiều vị thầy dạy văn, họ “giết văn” mà không hề thấy lương tâm “cắn
rứt” ! Tuy chúng ta không nên “vơ đũa cả nắm”, nhưng câu nói này của
Osho thật đáng cho ta suy nghĩ. [2] Tôi chắc nhiều người sẽ tâm đắc với ư kiến này của Osho. H́nh như trong thời đại này, rất ít người biết được giá trị của một nhà thơ, một nhà nghệ sĩ. Dĩ nhiên, phải là nhà thơ, nghệ sĩ chân chính. Không có ǵ phải bàn căi, một xă hội chưa thể gọi là văn minh được, nếu nó không biết quư trọng những giá trị tinh thần. Nếu chỉ biết sống bằng kinh tế, vật chất, e rằng, con người cũng chưa “cao” hơn con vật bao nhiêu!
|
**********
Ông nói với tôi, “ Đó là lư do tại sao tôi là một người hà tiện; nếu
không thế, th́ không có cách nào khác – tôi là một người nghèo, tôi xuất
thân là một người nghèo. Nếu tôi làm việc từ thiện, và tài trợ cho bệnh
viện này hay người hành khất này, và kẻ mồ côi nọ, th́ trường đại học
này đă không thể nào hiện hữu.” Suốt đời ḿnh, ông chỉ cưu mang một ư
tưởng, rằng nơi sinh của ông phải có một trong những trường đại học tốt
nhất trên thế giới. Và chắc chắn là ông đă tạo ra một trong những trường
đại học tốt nhất. Trong thuở sinh thời, ông xoay xở thành công trong
việc đưa những giáo sư từ khắp thế giới về đó. Ông trả lương gấp đôi,
gấp ba, bao nhiêu tùy họ ở họ - và không có công việc (no work), bởi v́
chỉ có 1000 sinh viên. Và ông mở tất cả mọi phân khoa – không có sinh
viên, nhưng với một ban giảng huấn (staff) đầy đủ: trưởng khoa, giáo sư
phụ giảng, giảng viên. Ông thường nói, “ Đừng lo lắng. Trước hết, cứ tạo
ra trường đại học – và làm cho nó trở thành tốt nhất. Sinh viên sẽ đến,
sẽ phải đến.”
Do vậy, những vị giáo sư và những trưởng khoa đều đang t́m kiếm những
sinh viên giỏi nhất.
Và v́ lư do nào đó vị giáo sư này, S,S Roy, là trưởng khoa triết, đă để
mắt đến tôi.
Hằng năm, tôi thường đến đại học Sagar để dự cuộc thi hùng biện
(debating competition) liên đại học. Trong 4 năm, tôi đều đoạt giải, và
trong 4 năm, trên cương vị giám khảo, ông lắng nghe tôi nói – ông là một
trong những vị giám khảo. Năm thứ tư, ông mời tôi về nhà ông, và nói,
“Hăy nghe đây, tôi đợi anh suốt năm. Tôi biết rằng, sau một năm, khi
cuộc thi hùng biện liên đại học kế tiếp được tổ chức, thế nào anh cũng
sẽ có mặt ở đó.
“ Trong 4 năm, anh đă đoạt giải, v́ lư do đơn giản là cái luận cứ (của
anh) th́ độc đáo, và không có ai sẵn sàng trả lời nó. Thậm chí, họ chưa
hề nghĩ về nó, cho nên họ đơn giản bị sốc. Những đối thủ của anh – anh
làm cho họ bé lại một cách thê thảm, người ta cảm thấy thương hại họ,
nhưng chúng tôi có thể làm ǵ được? Và tôi vẫn cho anh 99 điểm trên 100.
Tôi muốn cho anh điểm trên 100, nhưng ngay cả 99… Người ta đă cho rằng
tôi thiên vị.. Họ nói rằng, số điểm này là quá nhiều, bởi v́ không có ai
vượt quá 50.
“ Tôi đă gọi anh tới nhà dùng bữa tối, để mời anh rời đại học Jabalpur
và đến đây. Bây giờ, đây là năm thứ tư của anh, anh sẽ hoàn tất chương
tŕnh cử nhân khi anh tốt nghiệp. Để học tiếp chương tŕnh sau đại học,
anh sẽ đến đây. Tôi không thể thiếu anh với tư cách là sinh viên của tôi;
nếu anh không đến đây, th́ tôi sẽ đến dạy tại đại học Jabalpur.”
Và ông là một thẩm quyền nổi tiếng; nếu ông muốn đến, trường đại học
Jabalpur hẳn đă vô cùng vui sướng tiếp nhận ông vào chức vụ trưởng khoa.
Tôi nói, “ Không, không cần phải rắc rối như thế. Em có thể đến đây, và
em yêu nơi này.” Nó có lẽ là trường đại học có địa thế đẹp nhất trên thế
giới, trên những ngọn đồi gần một cái hồ hết sức mênh mông. Nó quá yên
tĩnh – những cây rất cao, rất cổ xưa – đến nỗi chỉ cần đưa sinh viên đến
đó thôi, cũng đủ cho việc giáo dục rồi.
Và Tiến sĩ Harisingh Gaur hẳn là một người mê sách vĩ đại. Ông hiến tặng
toàn bộ thư viện của ḿnh, và ông xoay xở để kiếm được càng nhiều sách
càng tốt, từ mọi xó xỉnh của thế giới. Nỗ lực của một người đơn lẻ… thật
là hiếm hoi; ông tạo ra “Oxford,” hoàn toàn một ḿnh, đơn thương độc mă.
Oxford được tạo ra trong hơn một ngàn năm; hằng ngàn người đă từng làm
việc. Công tŕnh của người đàn ông này thực sự là một tác phẩm nghệ
thuật. Hoàn toàn đơn độc, với tiền túi của ḿnh, ông đem chính bản thân
ḿnh ra đặt cược.
Cho nên tôi yêu nơi này. Tôi nói, “ Thầy đừng lo lắng, em sẽ đến – nhưng
Thầy chỉ mới thấy em trong những cuộc thi. Thầy không biết nhiều về em;
em có thể gây rắc rối cho Thầy, em là một kẻ gây phiền hà. Em muốn Thầy
biết mọi thứ trước khi Thầy quyết định.”
Giáo sư S.S Roy nói, “ Tôi không muốn biết bất cứ cái ǵ về anh. Một
chút ít mà tôi đă biết, chỉ bằng cách nh́n thấy anh, đôi mắt anh, cách
nói của anh, cách anh tiếp cận thực tại, là đủ. Và đừng cố hù dọa tôi về
sự phiền hà rắc rối – anh có thể làm bất cứ cái ǵ mà anh muốn.”
Ngày đầu tiên tôi đến dự giờ học của ông, giáo sư Roy đang giảng về khái
niệm Cái Tuyệt Đối. Ông là một thẩm quyền về Bradley và Shankara.
[3] Cả
hai đều tin vào Cái Tuyệt Đối – đó là tên gọi mà họ dành cho Thượng đế.
Tôi hỏi ông một điều, mà đă khiến cho ông đối xử rất thâm t́nh với tôi,
và ông mở trọn vẹn trái tim ḿnh ra với tôi trong mọi cách có thể được.
Tôi chỉ hỏi, ”Cái Tuyệt Đối của Thầy có hoàn hảo không? Nó đă đến một
chỗ ngừng hoàn toàn, hay nó vẫn đang phát triển? Nếu nó c̣n đang phát
triển, th́ nó không tuyệt đối, nó bất toàn – chỉ khi đó nó mới phát
triển được. Nếu có thể thêm vào (nó) một cái ǵ đó - thêm một vài cành,
thêm một vài bông hoa – th́ nó sống. Nếu nó là hoàn chỉnh, vẹn toàn - đó
là nghĩa của từ tuyệt đối – th́, sẽ không có khả tính nào cho sự tăng
trưởng, th́ nó chết.” Cho nên tôi hỏi ông, “ Xin hăy rơ ràng, bởi v́ với
Bradley và Shankara, Cái Tuyệt Đối đại diện cho Thượng đế; đó là tên gọi
triết học của họ dành cho Thượng đế. Vậy Thượng đế của Thầy c̣n sống hay
đă chết? Thầy phải trả lời câu hỏi này.”
Ông thực sự là một người trung thực. Ông nói, “ Xin cho tôi thời gian để
suy nghĩ.” Ông có một học vị tiến sĩ về
Bradley [4] từ Oxford, một học vị
tiến sĩ nữa về Shankara từ Benares, và người ta nghĩ rằng ông là thẩm
quyền lớn nhất về hai triết gia này, bởi v́ ông đă cố chứng minh rằng
Bradley, từ phương Tây, và Shankara, từ phương Đông, đă đi tới cùng một
kết luận như nhau. Ông nói, “Xin cho tôi thời gian để suy nghĩ.”
[3] Shankara: (700?
-750?). Nhà triết học và luận sư nổi tiếng của Aán độ. Là đại biểu kiệt
xuất của phái Avaita Veda. [4] F.H.Bradley: (1846 – 1924). Triết gia Anh có ảnh hưởng lớn của phái “duy tâm tuyệt đối.”
|
Tôi nói, “ Suốt đời, Thầy đă viết về Bradley
và Shankara, và về Cái Tuyệt Đối – em đă đọc những cuốn sách của Thầy,
em đă đọc luận án chưa xuất bản của Thầy. Và Thầy đă giảng dạy suốt đời
ḿnh – thế mà chưa ai từng hỏi Thầy một câu hỏi đơn giản như thế hay sao?”
Ông nói, “ Chưa ai từng hỏi tôi; không chỉ thế, ngay cả chính tôi cũng
chưa bao giờ nghĩ về nó – nhưng chắc chắn, nếu một cái ǵ đó là hoàn hảo,
th́ nó phải chết. Bất cứ cái ǵ c̣n sống, th́ nó phải bất toàn. Ư tưởng
này chưa bao giờ xuất hiện ra với tôi. Do vậy, hăy cho tôi thời gian suy
nghĩ.”
Tôi nói, “Thầy có thể để ra bao nhiêu thời gian tùy ư. Hằng ngày em sẽ
đến và hỏi cùng một câu hỏi.” Và nó cứ tiếp tục trong 5 – 6 ngày. Mỗi
ngày, tôi sẽ bước vào lớp và ông thường đến, run rẩy, và tôi thường đứng
lên và nói, “Câu hỏi của em.”
Ông nói, “ Xin tha thứ cho tôi, tôi không thể quyết định được. Với cả
hai phía, đều có một khó khăn. Tôi không thể nói Thượng đế là bất toàn;
tôi cũng không thể nói rằng Thượng đế chết. Nhưng mà anh đă chinh phục
trái tim tôi.”
Ông dời những vật dụng của tôi từ nhà trọ đến nhà ông. Ông nói, “Anh
không thể sống tại nhà trọ lâu hơn nữa. Anh phải đến sống với tôi và gia
đ́nh tôi. Tôi có nhiều cái phải học từ anh – bởi v́ một câu hỏi đơn giản
như thế chưa từng hiện ra với tôi. Tất cả những học vị của tôi đă bị hủy
bỏ.” [5] Tôi sống với ông gần 6 tháng trước khi ông chuyển sang một đại học khác. Ông muốn tôi di chuyển với ông, nhưng ông phó viện trưởng (vice – chancelor) của tôi th́ không chịu. Ông ta nói, “ Giáo sư Roy, ông có thể đi. Các vị giáo sư có thể đến và đi, nhưng chúng tôi có thể sẽ không t́m thấy một sinh viên như thế một lần nữa. Cho nên, tôi sẽ không cấp chứng chỉ cho anh ta và tôi sẽ không cho phép anh ta rời trường đại học. Và tôi sẽ viết thư cho đại học của ông, bảo họ rằng không được nhận sinh viên của tôi vào học ở đó!”
Nhưng ông (giáo
sư Roy) tiếp tục yêu mến tôi. Đó là một hiện tượng hiếm hoi. Ông thường
đến hầu như hằng tháng, để thăm tôi, từ đại học của ông, cách xa gần 200
dặm. Nhưng ông thường đến ít nhất một lần một tháng, chỉ để thăm tôi,
chỉ để ngồi với tôi. Và ông nói, “ Bây giờ tôi đang kiếm được một số
lương khá hơn, và ở đó mọi sự thoải mái hơn, nhưng tôi nhớ (miss) anh.
Lớp học có vẻ như chết. Không ai hỏi những câu hỏi như anh, những câu
hỏi mà không thể nào trả lời.” Và tôi đă nói với ông, “ Đây là một thỏa thuận giữa em và Thầy, rằng em gọi một câu hỏi là câu hỏi, chỉ khi nào nó không thể được trả lời. Nếu nó có thể được trả lời, th́ nó là loại câu hỏi ǵ chứ?”
____________________
[5] Sinh viên kiểu chàng trai này, c̣n ai dám … “dạy” nữa!
|
* * * * * * * * * * * *
Tôi thường đi bộ, mang sandal
Ấn làm bằng gỗ.
Nó đă được dùng bởi những sannyasin trong nhiều thế kỷ, hầu như 10 ngàn
năm, hay có lẽ lâu hơn. Một đôi sandal gỗ… bởi v́ nó tránh bất cứ loại
da thuộc nào, phải đến từ một con vật mà có thể đă bị giết, và bị giết
cho một mục đích duy nhất này – và da thuộc tốt nhất đến từ những con
vật c̣n rất non. Do vậy, những sannyasin đă tránh điều đó và họ dùng
sandal gỗ. Nhưng nó gây ra quá nhiều tiếng ồn khi bước đi, bạn có thể
nghe âm thanh của nó – dù cách xa một dặm. Và khi đi bộ trên một con
đường bằng xi-măng, hay trên veranda của đại học… th́ cả đại học đều
biết. Toàn thể trường đại học thường biết là tôi đang đến hay đang đi;
không cần phải thấy tôi, chỉ cần nghe tiếng sandal là đủ.
Vào ngày đầu tiên khi tôi bước vào lớp triết của trường đại học, tôi gặp
Tiến sĩ Saxena lần đầu tiên. Tôi thực sự dành ḷng yêu mến và kính trọng
đặc biệt cho một vài vị giáo sư. Đây là hai vị giáo sư mà tôi yêu mến
nhất – giáo sư S.K. Saxena và giáo sư S.S. Roy – và v́ lư do đơn giản,
là họ không đối xử với tôi như là một sinh viên.
Khi tôi bước vào lớp của tiến sĩ Saxena ngày đầu tiên, với đôi sandal gỗ,
ông nom có vẻ hơi bối rối một chút. Ông nh́n vào đôi sandal của tôi và
hỏi tôi, “Tại sao anh dùng sandal gỗ? Nó gây quá nhiều tiếng ồn.”
Tôi nói, “ Chỉ để làm cho ư thức của em được tỉnh giác (alert).”
Ông nói, “ Ư thức? Có phải là anh đang cố giữ cho ư thức anh tỉnh giác
trong nhiều cách khác nữa?”
Tôi nói, “ 24 giờ một ngày em đang cố làm cái đó, trong mọi cách có thể
được: đi, ngồi, ăn, và ngay cả ngủ. Và Thầy có thể tin hay không, rằng
chỉ mới gần đây, em đă thành công trong việc nhận biết (aware) và tỉnh
giác ngay cả trong giấc ngủ.”
Ông nói, “ Giờ học được băi bỏ – anh hăy đi với tôi đến văn pḥng.” Cả
lớp nghĩ rằng tôi đă gây rắc rối cho chính ḿnh vào ngày đầu tiên. Ông
đưa tôi vào pḥng làm việc của ḿnh và lấy từ kệ sách cái luận án tiến
sĩ của ông, mà ông đă viết cách đó ba năm. Nó nói về ư thức. Ông nói,
“Cầm lấy nó. Nó đă được xuất bản bằng tiếng Anh, và rất nhiều người tại
Ấn đă xin phép dịch sang tiếng Hindi – những học giả lớn, rất thông thạo
tiếng Anh và tiếng Hindi. Nhưng tôi đă không cho phép một ai, bởi v́ vấn
đề không phải là việc bạn có tinh thông về ngôn ngữ hay không; tôi đang
t́m một người biết ư thức là cái ǵ – và tôi có thể thấy trong mắt anh,
trên khuôn mặt anh, qua cách mà anh trả lời … anh phải dịch cuốn sách
này.” Tôi nói, “ Đây là điều khó, bởi v́ em không thạo tiếng Anh, em cũng không thạo tiếng Hindi. Hindi là tiếng mẹ đẻ của em, nhưng em chỉ biết ở mức độ như mọi người biết tiếng mẹ đẻ của ḿnh. Em tin vào định nghĩa của “tiếng mẹ đẻ.” Tại sao mọi ngôn ngữ được gọi là “tiếng mẹ đẻ?” Bởi v́ người mẹ nói và người cha lắng nghe – và đó là cách mà con cái học. Đó là cách mà em đă học.” [6]
[6] Cách định nghĩa “tiếng mẹ đẻ” của Osho thật là độc đáo!
|
“ Cha em là một người ít nói; mẹ em nói và ông
lắng nghe – và em học thứ ngôn ngữ đó. Nó chỉ đơn giản là tiếng mẹ đẻ,
em không biết nhiều. Hindi chưa bao giờ là môn học của em. Tiếng Anh,
th́ em chỉ biết chút ít, và cái đó chỉ vừa đủ cho những cái mệnh danh là
những kỳ thi của quư vị, nhưng để dịch môt cuốn sách mà nó lại là một
luận án tiến sĩ … Thế mà, Thầy lại giao nhiệm vụ ấy cho một sinh viên
à?”
Ông nói, “ Đừng lo lắng – tôi biết anh có khả năng làm việc đó.”
Tôi nói, “ Nếu Thầy tin cậy em, em sẽ cố hết sức. Nhưng có một điều em
phải nói với Thầy, rằng nếu em phát hiện ra một cái ǵ sai trong đó, th́
em sẽ ghi chú bên dưới, và nó nên được sửa lại như thế nào. Nếu em thấy
một cái ǵ đó thiếu sót, th́ em sẽ sẽ làm một
footnote [7] rằng một cái ǵ
đó bị thiếu, và đây là cái phần bị thiếu.”
Ông nói, “ Tôi đồng ư. Tôi biết có nhiều cái bị thiếu trong nó. Nhưng mà
anh làm tôi ngạc nhiên: anh thậm chí chưa thấy cuốn sách, anh thậm chí
chưa mở nó ra. Làm thế nào mà anh biết rằng sẽ có nhiều cái bị thiếu sót
trong nó?”
Tôi nói, “ Bằng cách nh́n Thầy. Chỉ cần nh́n em, Thầy có thể thấy rằng
rằng em là người thích hợp để dịch nó - qua sự kiện đó, em có thể thấy
một cách hoàn toàn, Tiến sĩ Saxena ạ, rằng Thầy không phải là người
thích hợp để viết nó!” Và ông quá ưa thích cuộc đối thoại đó, đến nỗi ông kể lại với mọi người! Cả trường đại học đều biết về cuộc đối thoại đă diễn ra giữa ông và tôi. Trong kỳ nghỉ hè hai tháng kế đó, tôi đă dịch cuốn sách, và làm những ghi chú. Khi tôi đưa ông xem, có những giọt nước mắt vui sướng trong mắt ông. Ông nói, “ Tôi biết chắc chắn rằng có một cái ǵ đó bị thiếu ở đây, nhưng tôi không thể phát hiện ra, bởi v́ tôi chưa bao giờ thực tập nó. Tôi chỉ đơn thuần đang sưu tầm tất cả thông tin về “ư thức,” từ những kinh điển phương Đông. Tôi đă thu thập nhiều, và rồi, từ đó tôi bắt đầu sắp xếp và phân loại. Tôi phải mất gần 7 năm để hoàn tất luận án của ḿnh.” Ông đă làm một công tŕnh có tính hàn lâm rất lớn – nhưng chỉ có tính hàn lâm thôi. Tôi nói, “ Nó có tính hàn lâm, nhưng nó không phải là công tŕnh của một thiền giả. Và em đă làm những ghi chú này – rằng luận án này chỉ có thể được viết bởi một học giả, chứ không phải là một thiền giả.”
[7] Footnote: chú thích ở cuối trang
|
Ông nh́n vào tất cả những trang đó, và nói với
tôi, “ Nếu anh là một trong những giám khảo của luận án này, chắc hẳn là
tôi đă không có được học vị tiến sĩ! Anh đă phát hiện chính xác những
chỗ mà tôi đă thấy nghi nghi, nhưng mà những gă khùng đă chấm nó th́
thậm chí không nghi hoặc ǵ cả. Nó đă được khen ngợi rất nhiều.”
Ông là một giáo sư tại Mỹ trong nhiều năm, và cuốn sách của ông thực sự
là một tác phẩm hàn lâm bất hủ (monumental); nhưng không ai phê b́nh ông,
không ai chỉ ra những điều đó. Cho nên tôi hỏi ông, “ Bây giờ Thầy định
làm ǵ với bản dịch này?”
Ông nói, “ Tôi không thể xuất bản nó. Sau cùng tôi đă t́m thấy một dịch
giả – nhưng mà anh là một giám khảo nhiều hơn là dịch giả! Tôi sẽ cất
giữ nó nhưng tôi không thể xuất bản nó. Với những ghi chú của anh, và
với lời b́nh luận của anh, nó sẽ hủy hoại toàn bộ uy tín của tôi – nhưng
tôi đồng ư với anh.” Thật ra, ông nói, “ Nếu tôi có quyền hạn, tôi sẽ
tặng anh một học vị tiến sĩ, chỉ dành cho những ghi chú biên tập và
những ghi chú cuối trang, bởi v́ anh đă phát hiện một cách chính xác
những chỗ mà chỉ một thiền giả mới có thể phát hiện; một phi thiền giả (nonmeditator)
không có cách nào phát hiện ra chúng.”
Tôi nhớ lại một trong những phó viện trưởng của tôi. Ông là một nhà sử
học nổi tiếng thế giới. Ông đă là một giáo sư sử học tại Oxford gần 20
năm, và sau khi về hưu khỏi Oxford, ông trở về Ấn độ. Ông nổi danh thế
giới, và ông được bầu làm phó viện trưởng của trường đại học mà tôi đang
theo học. Ông là một người dễ mến, một nhân cách đẹp, có uy tín lớn, với
một kiến thức bao la, uyên thâm – đă xuất bản rất nhiều cuốn sách mang
lại uy tín cho ông.
Do t́nh cờ, ngày ông nhậm chức phó viện trưởng, lại đúng vào ngày Phật
đản. Và ngày sinh nhật của Đức Phật Gautama th́ quan trọng hơn sinh nhật
của bất cứ ai khác, bởi v́ ngày sinh nhật của Phật cũng là ngày thành
đạo (chứng ngộ) của Ngài, và cũng là ngày Ngài rời bỏ thân thể. Cùng
ngày đó Ngài sinh ra, cùng ngày đó Ngài chứng ngộ, và cùng ngày đó Ngài
nhập diệt.
Toàn thể trường đại học tụ họp lại để nghe người đàn ông này nói chuyện
về Đức Phật Gautama. Và ông là một nhà sử học lớn, ông đă viết về Phật
Gutama; và ông nói với cảm xúc dâng trào. Với những giọt lệ trong mắt,
ông nói, “Tôi vẫn luôn cảm thấy rằng, nếu tôi được sinh ra trong thời
của Phật Gautama, có lẽ tôi đă không bao giờ rời hai bàn chân Ngài.”
Theo thói quen của ḿnh, tôi đứng lên, và tôi nói, “ Xin làm ơn rút lại
lời nói của Thầy.”
Ông nói, “ Nhưng tại sao?”
Tôi nói, “ Bởi v́ đó là những lời giả dối. Thầy đă từng sống trong thời
của Raman Maharshi. [8] Ngài cũng là cùng một loại người, có cùng một sự
chứng ngộ tương tự – và em biết rằng Thầy chưa hề viếng thăm Ngài. Do
vậy, Thầy định lừa gạt (befool) ai? Có lẽ Thầy cũng đă không viếng thăm
Phật Gautama. Hăy lau những giọt nước mắt của Thầy đi, đó là những giọt
nước mắt cá sấu. Thầy chỉ là một học giả và Thầy không biết ǵ về sự
chứng ngộ hay những người như Phật Gautama.” Thính đường bỗng im phăng phắc. Các vị giáo sư của tôi sợ rằng tôi có thể bị đuổi học; họ luôn luôn sợ rằng tôi có thể bị đuổi bất cứ lúc nào. Họ yêu mến tôi và muốn tôi ở đó. Nhưng tạo ra một t́nh huống như thế, một t́nh huống oái oăm (awkward) như thế… và không ai biết phải làm ǵ, làm thế nào để phá vỡ tảng băng. Trong vài giây đó, cơ hồ như nhiều giờ đă trôi qua. Vị phó viện trưởng đang đứng ở đó - ông chắc chắn là người có phẩm chất ưu việt. Ông lau nước mắt, và xin được tha thứ – có lẽ ông đă sai. Và ông mời tôi đến nhà để ông có thể thảo luận một cách chi tiết hơn.
____________________
[8] Raman Maharshi: (1879 – 1950). Nhà
yogi của Hindu giáo. Ông được gọi là “Vị Đạo Sư Vĩ đại” (Great Master).
|
Nhưng ông nói, trước toàn thể trường đại học,
“ Anh nói đúng. Có lẽ tôi đă không đến thăm đức Phật Gautama, tôi biết
như vậy. Tôi đă không có ư thức khi tôi nói ra điều đó; tôi chỉ đơn giản
là đang xúc động, tôi bị lôi kéo đi. Vâng, tôi không bao giờ viếng thăm
Raman Maharshi khi Ngài c̣n sinh tiền, mặc dù tôi đă có mặt gần chỗ của
Ngài nhiều lần. Tôi thường diễn thuyết tại Đại học Madras, từ đó chỉ mất
vài giờ để tới chỗ Ngài tại Arunachal. Nhiều người bạn đă bảo tôi, ‘Anh
nên đi thăm vị này’ – và tôi luôn tiếp tục tŕ hoăn cho đến khi Ngài mất.”
Toàn thể trường đại học đă không thể nào tin chuyện đó. Các vị giáo sư
của tôi đă không thể tin được. Sự kính nể dành cho ông tăng trưởng rất
lớn, và chúng tôi trở thành bạn của nhau. Ông khá già – gần 60 – c̣n tôi
th́ chỉ mới 24, nhưng chúng tôi trở thành bạn của nhau. Và ông không bao
giờ, dù chỉ trong một khoảnh khắc, cho phép tôi cảm thấy rằng ông là một
học giả lớn, rằng ông là phó viện trưởng, rằng ông ở tuổi ông tôi.
Trái lại, ông nói với tôi, “ Tôi không biết cái ǵ đă xảy ra ngày đó;
tôi không phải là một người khiêm cung. Là một giáo sư tại Oxford trong
20 năm, là một giáo sư thỉnh giảng tại nhiều trường đại học của thế giới,
tôi đă trở nên rất kiêu mạn (egoistic). Nhưng mà anh đă hủy diệt tất cả,
chỉ bằng một cú đánh. Tôi sẽ măi biết ơn anh suốt đời tôi: Nếu anh đă
không đứng lên, th́ có lẽ tôi vẫn tiếp tục tin rằng hẳn tôi đă viếng
thăm Ngài. Nhưng bây giờ, tôi muốn như vậy… nếu anh có thể t́m thấy một
ai đó (chứng ngộ), th́ tôi muốn ngồi bên cạnh bàn chân vị ấy và lắng
nghe vị ấy.”
Tôi nói, “ Vậy th́ Thầy hăy ngồi xuống và lắng nghe.”
[9]
Ông nói, “ Cái ǵ?”
Tôi nói, “ Chỉ đơn giản nh́n em. Đừng để tâm đến tuổi tác của em, hăy
ngồi xuống và lắng nghe em.” Và bạn sẽ không tin điều đó – cụ già đó
ngồi xuống và lắng nghe tôi, nghe bất cứ cái ǵ mà tôi muốn nói với ông.
Nhưng thật hiếm người có nhiều dũng cảm và quá nhiều sự cởi mở như vậy.
Sau ngày đó, ông thường đến nhà trọ để thăm tôi. Mọi người đều thắc mắc
– cái ǵ đă xảy ra vậy? Tôi đă tạo ra cho ông một t́nh huống bối rối như
thế! Ông thường đưa tôi về nhà ông và chúng tôi thường ngồi với nhau và
ông thường yêu cầu tôi, “ Hăy nói một cái ǵ đi – tôi muốn lắng nghe.
Suốt đời tôi, tôi chỉ biết nói; tôi đă quên lắng nghe. Và tôi đă từng
nói những điều mà tôi không biết.” Và ông lắng nghe theo cách mà một đệ
tử lắng nghe vị đạo sư của ḿnh.
Những vị giáo sư của tôi đều rất thắc mắc. Họ nói, “ Có phải anh đă ‘bỏ
bùa’ ông già đó? Hay là ông đă trở nên lẩm cẩm rồi? Hay là có chuyện ǵ
xảy ra? Để gặp ông, chúng tôi phải xin một cuộc hẹn và chúng tôi phải
đợi trên một danh sách dài. Khi đến lượt, chỉ lúc đó chúng tôi mới có
thể gặp ông. Thế mà ông lại đến thăm anh – không chỉ thế, ông c̣n lắng
nghe anh nói. Cái ǵ đă xảy ra vậy?” Tôi nói, “ Cái tương tự có thể xảy ra cho quư vị, nhưng quư vị không thông minh được như vậy, và không nhạy bén được như vậy, không hiểu biết được như vậy. Cụ già đó thực sự là hiếm hoi.”
__________________
[9] Bạn đọc cần nhớ, lúc này,
“sinh viên” này đă chứng ngộ rồi. Chàng đi “học” chỉ là để hiểu con
người hiện đại, để dễ bề “dạy” họ mà thôi. |
1957 – 1966
Tôi vui hưởng (enjoy) cuộc đời sinh viên của ḿnh vô cùng; bất luận
người ta chống lại tôi, ủng hộ tôi, thờ ơ với tôi, hay yêu mến tôi, th́
tất cả những kinh nghiệm đó đều đẹp. Tất cả mọi cái đó đă giúp tôi khi
chính tôi trở thành giáo sư, bởi v́ tôi có thể thấy quan điểm của sinh
viên một cách đồng thời khi tôi đang tŕnh bày quan điểm của tôi.
Và những giờ học của tôi trở thành những câu lạc bộ tranh luận. Mọi
người đều được phép nghi ngờ, tranh luận. Thỉnh thoảng một ai đó bắt đầu
lo lắng về cái ǵ sẽ xảy ra với khoá học, bởi v́ trên một điểm riêng lẻ,
có quá nhiều tranh căi (argument) . Tôi nói, “ Đừng lo lắng. Tất cả
những ǵ được cần đến là (việc) mài sắc trí thông minh của bạn. Giáo
tŕnh là một chuyện nhỏ – bạn có thể đọc nó trong một đêm. Nếu bạn có
một tâm trí sắc bén, th́ thậm chí không cần đọc giáo tŕnh, bạn cũng có
thể trả lời. Nhưng nếu bạn không có một tâm trí sắc bén, th́ ngay cả khi
có cuốn sách trong tay, bạn cũng sẽ không thể t́m ra câu trả lời nằm ở
đâu. Trong một cuốn sách 500 trang, câu trả lời hẳn phải ở đâu đó trong
một đoạn.”
Do vậy, những giờ học của tôi th́ hoàn toàn khác. Mọi sự phải được thảo
luận, mọi sự phải được xem xét, trong cách sâu nhất có thể được, từ mọi
góc, từ mọi khía cạnh – và chỉ được chấp nhận nếu trí tuệ của bạn cảm
thấy được thỏa măn. Bằng không, không cần phải chấp nhận nó; chúng tôi
có thể tiếp tục cuộc thảo luận vào ngày kế tiếp.
Và tôi kinh ngạc khi biết rằng, khi bạn thảo luận một cái ǵ đó và khám
phá ra cái “mô h́nh logic (logical pattern), toàn bộ cái “kết cấu”
(fabric), th́ bạn không cần phải nhớ nó. Nó là khám phá của bạn; nó lưu
lại với bạn. Bạn không thể quên nó.
Chắc hẳn là sinh viên của tôi yêu mến tôi, bởi v́ không ai khác sẽ cho
họ quá nhiều tự do, không ai khác sẽ dành cho họ quá nhiều sự tôn trọng
như thế. Không ai khác sẽ cho họ quá nhiều t́nh yêu thương, không ai
khác sẽ giúp họ mài sắc trí tuệ của họ.
Mọi giáo sư đều quan tâm về tiền lương của ḿnh. Chính tôi không bao giờ
đi nhận lương. Tôi thường chỉ đơn giản trao quyền lại cho một sinh viên
và nói, “ Bất cứ khi nào đến ngày đầu tháng, bạn nhận lương và bạn có
thể mang nó đến cho tôi. Và nếu bạn cần bất cứ phần nào của nó, bạn có
thể giữ nó.”
Suốt những năm tôi ở trường đại học, một người này hay người nọ sẽ mang
lương đến cho tôi. Người đàn ông phát lương một lần đến thăm tôi chỉ để
nói, “ Anh không bao giờ xuất hiện. Tôi vẫn cứ hy vọng rằng, có một lúc
nào đó, anh sẽ đến và tôi sẽ thấy anh. Nhưng thấy rằng có lẽ anh sẽ
không bao giờ đến văn pḥng, tôi đă đến nhà anh chỉ để xem anh thuộc
loại người nào – bởi v́, vào ngày đầu tháng, có những vị giáo sư, họ bắt
đầu xếp hàng từ sáng sớm để nhận lương. Anh luôn vắng mặt. Bất cứ sinh
viên nào sẽ xuất hiện với chữ kư và ủy quyền của anh, và tôi không biết
liệu tiền lương có đến tay anh hay không.”
Tôi nói, “ Ông không cần phải lo lắng, nó luôn luôn đến tay tôi.” Khi
bạn tin cậy ai, thật khó cho anh ta lừa dối bạn.
Suốt những năm tôi là giáo sư, không có một sinh viên nào – được ủy
quyền nhận lương – đă từng lấy bất cứ phần nào trong số đó, mặc dù tôi
đă bảo họ, “ Tùy ở bạn. Nếu bạn cảm thấy muốn lấy hết, th́ bạn có thể
lấy. Nếu bạn muốn giữ một phần của nó, bạn có thể giữ nó. Và nó không
phải là tiền cho vay, và phải hoàn lại, bởi v́ tôi không muốn bận tâm về
việc phải nhớ ai đă vay tôi bao nhiêu tiền. Nó chỉ đơn giản là của bạn;
không thành vấn đề. ” Nhưng không có một sinh viên nào từng lấy một phần
nào trong số lương đó.
Tất cả những giáo sư đều chỉ quan tâm đến tiền lương, đến việc bon chen
để giành những chức vụ cao hơn. Tôi chưa từng thấy ai thực sự quan tâm
đến sinh viên và tương lai của họ, và nhất là (quan tâm) đến sự phát
triển tâm linh của họ.
Nh́n thấy điều đó, tôi mở một trường thiền định nhỏ. Một trong những
người bạn của tôi hiến tặng cái bungalow (nhà gỗ một tầng) và khu vườn
đẹp của anh, và anh xây một thiền thất bằng đá cẩm thạch cho tôi, cho
những buổi thiền định, nên ít nhất 50 người có thể ngồi và thiền định
trong cái thất đó. Nhiều sinh viên, nhiều giáo sư – ngay cả những vị phó
viện trưởng – đến để hiểu thiền định là ǵ.
Tại Ấn độ, người Hồi giáo có một loại trang phục (dress) nhất định,
người Hindu, người Punjab, người Nam Ấn, người Bengal, cũng vậy. Chẳng
hạn, tại Nam Ấn, bạn có thể mặc một cái lungi ; chỉ một cái dhoti mà bạn
có thể trùm quanh người. Và không chỉ thế, người ta kéo nó lên và gấp nó
lại, để nó lên tới đầu gối. Ngay cả tại các trường đại học, những vị
giáo sư thường đi dạy trong cái trang phục đó.
Tôi ưa thích cái lungi, bởi v́ nó rất giản dị, giản dị nhất: không cần
thợ may, không cần thiết kế, không ǵ cả; chỉ cần bất cứ miếng vải nào
cũng có thể được làm thành một cái lungi rất dễ dàng. Nhưng mà tôi lại
không sống tại Nam Ấn, tôi sống tại Trung Ấn, nơi mà lungi chỉ được mặc
bởi những vagabond, những du thủ du thực (loafer), những phần tử “phi xă
hội” (unsocial). Nó là một biểu tượng rằng cá nhân đó “bất cần đời”,
rằng y không bận tâm về việc bạn nghĩ ǵ về y.
Khi tôi bắt đầu đi tới trường đại học trong cái lungi, mọi sự ngừng lại
trong một lát: những sinh viên đi ra khỏi lớp, những giáo sư đi ra khỏi
lớp. Trong khi tôi đi dọc theo hành lang, mọi người đang đứng ở đó quan
sát, và tôi vẫy tay chào mọi người – một sự tiếp đón tốt đẹp !
Vị phó viện trưởng đi ra ngoài: “ Có chuyện ǵ thế? Những giờ học ngừng
nửa chừng, các giáo sư ra ngoài, và có một sự im lặng…” Ông thấy tôi và
tôi vẫy tay chào ông, và ông thậm chí không có gan để đáp lại cái vẫy
tay của tôi.
Tôi nói, “ Ít ra Thầy nên vẫy tay chào tôi. Tất cả những người này đă
đến để xem cái lungi của tôi.” Tôi nghĩ rằng họ ưa thích nó, bởi v́ hằng
ngày các vị giáo sư đến trường với trang phục đẹp, trang phục đắt tiền.
Vị phó viện trưởng rất chăm chút về y phục của ông, và rất nổi tiếng ăn
mặc đẹp. Nếu bạn đă vào nhà ông, có lẽ bạn đă ngạc nhiên: không có ǵ
ngoài quần áo treo la liệt khắp nhà, ông, người giúp việc và y phục của
ông.
Tôi nói, “ Ngay cả khi Thầy đi vào, không ai ra khỏi lớp. Nhưng một cái
lungi nghèo nàn – những người nghèo nhất mặc nó – đă đưa họ ra ngoài! Và
tôi dự định sẽ đến trường hằng ngày trong cái lungi này.”
Ông nói, “ Một tṛ đùa th́ không sao cả, một ngày th́ không sao cả,
nhưng đừng đi quá xa.”
Tôi nói, “ Khi tôi làm một cái ǵ đó, tôi sẽ làm tới cùng.”
Ông nói, “ Anh muốn nói ǵ? Anh muốn nói, rằng anh thực sự định đến hằng
ngày trong một cái lungi à?”
Tôi nói, “ Ngay bây giờ, đó là cái mà tôi có ư định làm. Nếu tôi bị
can thiệp vào, tôi có thể đến thậm chí không có một cái lungi. Thầy có
thể tin lời tôi về chuyện đó. Nếu tôi bị can thiệp trong một cách nào đó,
nếu Thầy cố nói rằng nó không thích hợp cho một giáo sư, hay bất luận
Thầy nói cái ǵ, tôi không bận tâm … Nếu Thầy có thể giữ im lặng, tôi sẽ
vẫn mặc cái lungi; nhưng nếu Thầy bắt đầu làm một cái ǵ chống lại tôi,
th́ cái lungi sẽ biến đi. Tôi sẽ đến … và rồi, Thầy sẽ thấy cái cảnh
(scene) thực!” [10]
Và đó là một màn trào lộng (hilarious scene), bởi v́ tất cả sinh viên
bắt đầu vỗ tay khi họ nghe điều này và ông cảm thấy quá bối rối, đến nỗi
ông không biết làm ǵ hơn là đi trở lại pḥng ḿnh. Ông không bao giờ
nói một lời nào về cái lungi nữa. Tôi ḍ hỏi nhiều lần, “ Về cái lungi
của tôi th́ sao? Có hành động nào chống lại nó hay không?”
Ông nói, “ Anh chỉ cần để cho tôi yên – hăy làm bất cứ cái ǵ mà anh
muốn. Và tôi không muốn nói bất cứ điều ǵ, bởi v́ nói với anh bất cứ
điều ǵ đều nguy hiểm, người ta không bao giờ biết là anh sẽ xử lư nó ra
sao. Tôi không nói, ‘Hăy trút bỏ cái lungi’, tôi nói, ‘Hăy trở lại y
phục cũ của anh’.”
_____________________
[10] Ai chứ chàng “giáo sư” trẻ này chắc chắn sẽ làm đúng như chàng nói!
|
Do vậy, ban đầu tôi ra ngoài với một cái lungi,
với một cái robe (áo thụng) dài. Rồi một hôm, tôi bỏ cái robe và chỉ
dùng một cái khăn quàng. Một lần nữa, lại có một “tấn tuồng “ (drama)
lớn, nhưng ông giữ b́nh tĩnh. Mọi người đi ra ngoài, nhưng ông không đến
– có lẽ bởi v́ ông sợ rằng tôi đă trút bỏ cái lungi! Ông không ra khỏi
pḥng ḿnh. Tôi gơ cửa pḥng ông. Ông nói, “Anh đă làm chuyện đó?”
Tôi nói, “ Chưa. Thầy có thể đi ra ngoài.”
Ông mở cửa và chỉ nh́n ra ngoài để xem tôi có mặc y phục hay là tôi đă
trút bỏ mọi thứ. Ông nói, “ Vậy, bây giờ anh đă thay đổi – cái robe cũng
vậy?”
Tôi nói, “ Tôi cũng đă thay đổi cái đó. Thầy có điều ǵ để nói không?”
Ông nói, “ Tôi không muốn nói một lời nào. Tôi thậm chí không nói chuyện
với những người khác, về anh. Những nhà báo thường gọi điện và hỏi, ‘Tại
trường đại học, người ta được phép ăn mặc ra sao? Bởi v́ cái đó sẽ trở
thành một tiền lệ và sinh viên có thể bắt đầu đến trường trong cái lungi,
và những giáo sư khác cũng vậy.’
“ Tôi bảo họ, ‘ Bất cứ cái ǵ xảy ra, ngay cả khi mọi người bắt đầu mặc
lungi đến trường, nó ok với tôi. Tôi không định quấy rầy anh ta, bởi v́
anh ta dọa tôi rằng, nếu tôi quấy rầy anh ta, trong cách nào đó, th́ anh
ta có thể đến trường, trần truồng. Và anh ta nói, rằng sự trần truồng là
một lối sống tâm linh được chấp nhận tại
Ấn độ. Mahavira trần truồng,
24 tirthankara của đạo Jaina cũng trần truồng, hằng ngàn tu sĩ vẫn c̣n
trần truồng, và nếu một tirthankara có thể trần truồng, th́ tại sao một
giáo sư lại không thể? Tại Ấn độ, th́ sự trần truồng không thể bị đối xử
bất kính (disrespected) trên bất cứ phương diện nào’.”
Rồi ông nói tiếp: “ Tôi nói với mọi người, ‘ Nếu anh ta muốn thực sự tạo
ra sự hỗn loạn (chaos) … và anh ta có những môn đệ tại trường đại học;
có nhiều sinh viên sẵn sàng làm bất cứ điều ǵ mà anh ta bảo họ làm. Do
vậy, tốt nhất là cứ để anh ta yên’.”
Tôi đă phát hiện – suốt đời ḿnh – rằng, nếu bạn chỉ đơn giản sẵn sàng (chút
đỉnh) hy sinh cái sự “khả kính” (respectability), th́ bạn có thể làm
theo ư ḿnh một cách rất dễ dàng. Xă hội đă chơi một tṛ chơi với bạn.
Nó đă đặt cái sự “khả kính” lên một cái bệ quá cao trong tâm trí bạn, và
đối diện với nó, tất cả những điều mà nó muốn bạn đừng làm. Do vậy, nếu
bạn làm chúng, bạn đánh mất cái sự “khả kính”. Một khi bạn sẵn sàng nói,
“ Tôi không quan tâm đến sự khả kính,” th́ xă hội hoàn toàn bất lực
trong việc làm bất cứ cái ǵ chống lại ư muốn của bạn.
Khi tôi trở thành một giáo sư tại trường đại học, việc đầu tiên mà tôi
làm là … Khi tôi bước vào, tôi thấy những cô gái đang ngồi trong một góc.
Đằng trước mặt tôi là bốn, năm dăy ghế trống rỗng, c̣n những cậu trai
th́ đang ngồi ở một góc đằng kia. Tôi nói, “ Tôi sắp dạy ai, những cái
bàn và ghế này chắc? Và cái thứ vớ vẩn ǵ thế này? Ai đă bảo các bạn
ngồi như vậy? Hăy ngồi chung lại với nhau và xích lại gần trước mặt tôi.”
Họ lưỡng lự. Họ chưa bao giờ nghe một giáo sư bảo họ ngồi chung. Tôi nói,
“ Ngồi chung lại ngay lập tức; nếu không, tôi sẽ báo cáo lại với ông phó
viện trưởng rằng một cái ǵ đó hoàn toàn trái tự nhiên, phi tâm lư học,
đang diễn ra.” Họ di chuyển một cách chậm răi, một cách lưỡng lự… Tôi nói, “Đừng do dự! Chỉ đơn giản di chuyển, ngồi chung lại với nhau. Trong giờ học của tôi, các bạn không thể ngồi tách rời nhau. Và tôi không quan tâm nếu bạn chạm vào cô gái và cô gái kéo áo sơ mi của bạn; bất cứ cái ǵ tự nhiên, đều được chấp nhận. Cho nên, tôi không muốn bạn ngồi ở đó, đóng băng, co rúm. Cái đó sẽ không xảy ra trong giờ học của tôi. Hăy tận hưởng việc ở cùng nhau. Tôi biết các bạn đang ném những mảnh giấy nhỏ (slip), những ḥn đá, những lá thư. Không cần thiết. Chỉ đơn giản (đến) ngồi bên cạnh cô gái, trao lá thư cho cô ta, và bất cứ cái ǵ mà bạn muốn làm – bởi v́, thực ra th́ các bạn đă trưởng thành về giới tính; bạn nên làm một cái ǵ đó. Thế mà bạn lại đang học triết, bạn hoàn toàn điên rồ (insane) ! Phải chăng đây là thời gian để học triết ? Đây là thời gian để đi ra ngoài và làm t́nh (make love). [11] Triết học là dành cho tuổi già, khi bạn không thể làm bất cứ cái ǵ khác – lúc đó, bạn có thể học triết học.”
_______________________
[11] H́nh như ở đây Osho hơi “cương” một chút! Theo tôi, các bạn trẻ nên cẩn thận trước lời “xúi dại” này của ông – nhất là các bạn nữ!
|
Tất cả họ đều sợ. Một cách chậm răi, một cách
từ từ, họ trở nên thư giăn, nhưng những lớp khác bắt đầu cảm thấy ghen
tỵ với họ. Những giáo sư khác bắt đầu báo cáo với ông phó viện trưởng, “
Người đàn ông này thật nguy hiểm. Anh ta đang cho phép con trai và con
gái làm những điều mà tất cả chúng ta đều đă và đang cấm. Thay v́ ngăn
chận chúng giao tiếp với nhau, anh ta lại đang ‘vẽ đường cho hươu chạy’!
Anh ta nói, ‘Nếu bạn không biết cách viết thư t́nh, hăy đến với tôi. Tôi
sẽ dạy bạn. Triết học là thứ yếu – nó không nhiều. Chúng ta sẽ hoàn tất
khoá học 2 năm trong ṿng 6 tháng. Một năm và 6 tháng c̣n lại, hăy tận
hưởng, nhảy múa, ca hát. Đừng lo lắng.’”
Sau cùng, ông phó viện trưởng phải gọi tôi đến, và ông nói, “ Tôi đă
nghe mọi thứ này. Anh nói ǵ?”
Tôi nói, “ Hẳn Thầy đă từng là một sinh viên tại trường đại học.”
Ông nói, “ Vâng. Nếu không, làm thế nào tôi có thể là phó viện trưởng
được?”
Tôi nói, “ Vậy th́, hăy lùi lại một chút và nhớ lại những ngày đó, khi
mà những cô gái và Thầy đang ngồi cách xa nhau. Cái ǵ đang diễn ra
trong tâm trí Thầy lúc đó?”
Ông nói, “ Anh có vẻ là một gă kỳ lạ. Tôi đă yêu cầu anh đến để ḍ hỏi
về một cái ǵ đó.”
Tôi nói, “ Cái đó, sẽ tính sau. Trước hết, hăy trả lời câu hỏi của tôi.
Và hăy thành thật; nếu không, Thầy sẽ phải chịu cuộc thách thức công
khai ngày mai, trước toàn thể trường đại học, tất cả giáo sư, tất cả
sinh viên. Chúng ta có thể thảo luận vấn đề này và để cho họ bỏ phiếu.”
Ông nói, “ Xin đừng bị kích động. Có lẽ anh nói đúng. Quả thực, tôi c̣n
nhớ. Bây giờ tôi đă già, và tôi hy vọng rằng anh sẽ không nói chuyện này
với bất cứ ai – lúc đó tôi đang nghĩ về các cô gái. Tôi không đang nghe
giảng, và không ai lắng nghe vị giáo sư cả. Những cô gái th́ đang ném
những mẩu giấy nhỏ, chúng tôi đang ném những mẩu giấy nhỏ, những lá thư
đang được trao đổi.”
“Vậy,” tôi nói, “ tôi có thể đi rồi chứ?”
Ông nói, “ Dĩ nhiên. Anh chỉ đơn giản đi và làm bất cứ cái ǵ anh muốn.
Tôi không muốn một cuộc chạm trán công khai với anh, tôi biết anh sẽ
thắng. Anh có lư. Nhưng tôi là một gă đáng thương; tôi phải chăm lo cho
cái chức vụ của ḿnh. Nếu tôi bắt đầu làm một điều như thế, th́ chính
phủ sẽ ném tôi ra khỏi chức vụ phó viện trưởng.”
Tôi nói, “ Tôi không quan tâm đến cái chức phó viện trưởng của Thầy.
Thầy vẫn là phó viện trưởng, nhưng hăy nhớ: đừng bao giờ gọi tôi một lần
nữa. Nhiều lời phàn nàn sẽ đến, nhưng tôi làm rơ - ngay bây giờ - rằng,
mọi lúc tôi đều sẽ đúng.”
Ông nói, “ Tôi đă hiểu rồi.”
Những sinh viên – nam và nữ, họ không phải là sinh viên thuộc môn học
của tôi – bắt đầu hỏi tôi, “ Chúng em có thể đến dự học không?”
Tôi nói, “ Triết học chưa bao giờ quá hấp dẫn như vậy. Hăy đến! Bất cứ
ai đều được hoan nghênh. Tôi không bao giờ điểm danh. Hằng tháng, khi
cuốn sổ điểm danh trở lại, tôi chỉ đơn giản phết vào - vắng, có mặt,
vắng, có mặt. Tôi chỉ phải nhớ rằng mọi người có mặt trên 75% trong tổng
số buổi học, để họ có thể dự kỳ thi. Tôi không bận tâm. Do vậy, các bạn
có thể đến.”
Những lớp học của tôi th́ quá đông đúc. Sinh viên ngồi cả trên các cửa
sổ. Nhiều người trong số họ lẽ ra phải đang ngồi tại một lớp nào khác.
Rồi lại có những than phiền, và ông phó viện trưởng nói, “ Đừng bắt tôi
phải nghe những lời than phiền về người đàn ông đó. Đó là vấn đề của quư
vị nếu sinh viên không đến lớp quư vị. Tôi có thể làm ǵ nào? Anh ta có
thể làm ǵ, nếu họ ưa thích anh ta hơn? Và họ không phải là sinh viên
triết, nhưng họ không muốn đến lớp sử học, kinh tế học, chính trị học
của quư vị. Tôi có thể làm ǵ được nào? Và anh ta đă thách tôi, ‘Đừng
bao giờ gọi tôi đến một lần nữa, nếu không, Thầy sẽ phải đối mặt với một
cuộc chạm trán công khai.’”
Nhưng quá nhiều lời than phiền đến từ mọi khoa, đến nỗi sau cùng ông lại
phải đến. Ông biết rằng, tốt hơn là đừng triệu tôi đến; nhưng ông đă
phải đến lớp tôi. Ông đă không thể tin có chuyện đó.
Trong môn triết học, thường có rất ít sinh viên, bởi v́ triết học không
phải là một môn học kiếm nhiều tiền. Nhưng mà lớp triết (của tôi) th́
quá tải; không có chỗ thậm chí cho ông bước vào. Tôi thấy ông đang đứng
ở cửa lớn phía sau sinh viên. Tôi bảo họ, “ Hăy để Thầy phó viện trưởng
vào. Hăy để cho ông cùng thưởng thức (enjoy) toàn bộ cái “cảnh” (scene)
đang diễn ra ở đây.”
Ông đi vào. Ông không thể tin ở mắt ḿnh, rằng tất cả những cô gái và
những cậu trai đều đang ngồi chung với nhau và đang lắng nghe một cách
quá vui sướng. Không có một nhiễu loạn (disturbance) nào, bởi v́ tôi đă
ngăn cản mọi sự nhiễu loạn ngay từ gốc rễ. Bây giờ chàng trai đang ngồi
bên cạnh cô bạn gái của ḿnh; không cần phải ném đá, ném thư. Không cần
thiết.
Ông nói, “ Tôi không thể tin rằng một lớp đông đúc như thế, mà lại im
lặng như tờ.”
Tôi nói, “ Nhất thiết phải thế, bởi v́ không có sự trấn áp, đè nén
(repression) nào. Tôi đă bảo sinh viên rằng, khi họ muốn rời, họ không
cần xin phép tôi, họ chỉ đơn giản bỏ đi; khi họ muốn đến, họ cứ việc đến.
Họ không cần xin phép tôi. Họ có mặt ở đây hay không, đó không phải là
việc của tôi. Tôi yêu thích việc giảng dạy. Tôi sẽ tiếp tục dạy – nếu
bạn muốn ngồi ở đây, hăy cứ ngồi; nếu không, hăy ‘biến đi’ (get lost).
Nhưng không ai bỏ đi.” Vị phó viện trưởng nói, “ Việc này nên diễn ra cho mọi lớp học. Nhưng tôi không phải là một người mạnh mẽ như anh; tôi không thể nói với chính phủ rằng, đây là cách nên làm.”
|
Tôi được mời đến một seminar, nhiều phó viện
trưởng và viện trưởng đại học đă tụ họp ở đó. Họ rất lo lắng về sự thiếu
kỷ luật trong các trường phổ thông, cao đẳng, và đại học, và họ lo lắng
về thái độ bất kính của thế hệ trẻ đối với các thầy cô.
Tôi lắng nghe những quan điểm của họ, và tôi nói với họ, “ Tôi thấy rằng,
một nơi nào đó, cái cơ sở (nền tảng) bị thiếu mất. Một vị thầy là một
người được kính trọng một cách tự nhiên, cho nên một vị thầy không thể
đ̣i hỏi (demand) sự kính trọng. Nếu người thầy đ̣i hỏi sự kính trọng,
th́ ông ta chỉ đơn giản chứng tỏ rằng ông ta không phải là một vị thầy;
ông đă chọn sai nghề, nó không phải thiên chức của ông. Định nghĩa của
một ông thầy chính là : một người được kính trọng một cách tự nhiên –
không phải là bạn phải kính trọng ông. Nếu bạn phải kính trọng ông, th́
đây là loại kính trọng nào vậy? Hăy nh́n xem: ‘ phải kính trọng’ – toàn
bộ vẻ đẹp bị đánh mất, sự kính trọng không c̣n sống (động). Nếu nó bị
cưỡng bách, th́ nó không có mặt ở đó. Khi nó (sự kính trọng) có mặt ở đó,
không ai tự ư thức về nó. Nó chỉ đơn giản tuôn chảy. Bất cứ khi nào một
vị thầy có mặt ở đó, nó chỉ đơn giản tuôn chảy một cách tự nhiên.”
Cho nên, tôi hỏi seminar: “ Thay v́ yêu cầu sinh viên học sinh kính
trọng người thầy, xin quư vị hăy nh́n lại – hẳn quư vị đang chọn nhầm
những người thầy, họ không phải là vị thầy chút nào cả.” Những người thầy th́ cũng như những nhà thơ bẩm sinh, và nghề giáo là một nghệ thuật. Không phải ai cũng có thể là một người thầy, nhưng bởi v́ việc giáo dục phổ thông, hằng triệu “người thầy” được cần đến. Hăy thử nghĩ về một xă hội mà cho rằng mọi người đều phải được dạy thi ca và thi ca phải được dạy bởi những nhà thơ. Rồi th́ hằng triệu nhà thơ sẽ được cần đến. Dĩ nhiên, sẽ có những đại học đào tạo các nhà thơ. Những nhà thơ đó sẽ là nhà thơ “dổm” (bogus), và rồi họ sẽ yêu cầu, “ Hăy vỗ tay hoan nghênh chúng tôi! – bởi v́ chúng tôi là những nhà thơ. Tại sao các anh (chị) không chịu kính trọng chúng tôi?”
Điều này cũng đă xảy ra
với những “người thầy (teacher). Trong quá khứ, có rất ít “người thầy.” Người ta thường đi hằng ngàn dặm để t́m một người thầy, để được ở bên cạnh ông ta. Có sự kính trọng rất to lớn, nhưng sự kính trọng tùy thuộc vào phẩm chất của vị thầy. Môn đệ hay học tṛ không bị bắt buộc phải kính trọng thầy. Sự kính trọng khởi lên một cách hồn nhiên.
|