Biên dịch : Đỗ Tư Nghĩa
PHẦN III:
CHƯƠNG XIX
PHẬT ZORBA:
(THE WHOLE HUMAN BEING)
Hăy nh́n đời bằng ánh mắt đùa vui – rồi bạn
có thể có cả hai thế giới một lượt. Bạn vừa có cái bánh cake, lại
vừa ăn nó. Và đó là một nghệ thuật thực thụ! Thế giới này và thế
giới kia, âm thanh và sự im lặng, t́nh yêu và thiền định, có mặt
(being) với mọi người, ở trong tương quan, và ở một ḿnh. Tất cả
những điều này phải được sống cùng nhau trong một loại đồng thời;
chỉ lúc đó, bạn mới sẽ biết cái chiều sâu nhất của bản thể bạn và
chiều cao tận cùng của bản thể bạn.
|
Một người luật sư đi tới bờ
mép của cái hầm mỏ, nơi mà một tốp đang làm việc và gọi tên của
Timothy O’ Toole. “Ai đang cần gặp tôi?” một giọng nói ồ ồ ḍ hỏi. “Ông Toole ạ,” người luật sư hỏi, “có phải ông đến từ Castlebar, quận Mayo?” “Đúng vậy.” “Và mẹ ông tên là Bridget và cha ông, Michael?” “Đúng.” “Vậy th́ nhiệm vụ của tôi,” người luật sư nói, “là thông báo cho ông, O’ Toole ạ, rằng bà cô Mary của ông đă mất tại Iowa, để lại cho ông một bất động sản trị giá hai trăm ngàn Mỹ kim.” Có một khoảng im lặng ngắn bên dưới, và rồi một sự rung chuyển náo loạn. “Ông đến chưa vậy, hả ông O’ Toole ?” người luật sư gọi xuống. “Đợi một phút,” một giọng trả lời rống lên. “Tôi vừa mới ngừng lại để cho đo ván gă đốc công.” Chỉ cần sáu tháng ăn chơi phóng đăng, cũng đủ để O’ Toole xài hết hai trăm ngàn Mỹ kim. Nỗ lực chủ yếu của anh ta là, thỏa măn một cơn khát to lớn, cơn khát thừa kế. Rồi anh ta trở lại công việc của ḿnh. Và ở đó, chẳng bao lâu sau, người luật sư lại t́m kiếm anh ta. “Lần này là Bác Patric của ông, O’ Toole ạ,” người luật sư giải thích. “Ông ta đă chết tại Texas và để lại cho ông bốn trăm ngàn Mỹ kim.” O’ Toole tựa một cách nặng nề lên cái cuốc chim của anh ta và lắc đầu một cách chán nản.
“Tôi không nghĩ rằng tôi có
thể nhận nó,” anh ta tuyên bố. “Tôi không c̣n khỏe như trước đây, và
tôi không tin rằng tôi có thể xài hết món tiền ấy mà vẫn c̣n sống.”
Đó là cái đă xảy ra tại
phương Tây. Con người tại phương Tây đă thành công trong việc đạt
tới tất cả cái sự giàu có mà toàn nhân loại đă từng khao khát qua
nhiều nhiều thời đại. Phương Tây đă thành công về mặt vật chất, đă
trở nên giàu có và bây giờ nó đang quá chán chường, quá mệt mỏi.
Cuộc hành tŕnh đă tước mất tất cả linh hồn nó. Cuộc hành tŕnh đă
“kết thúc” (finish) con người phương Tây. Bề ngoài, mọi thứ đều có
thể đạt được, nhưng sự tiếp xúc với cái bên trong (the inner) bị
đánh mất.[1] Bây giờ mọi thứ mà con người cần đều có thể đạt được,
nhưng chính con người th́ không c̣n ở đó. Những vật sở hữu th́ ở đó,
nhưng con người không đang cảm thấy giàu có chút nào; trái lại, con
người đang cảm thấy bị bần cùng hoá, rất nghèo nàn.
Hăy nghĩ về sự nghịch lư
này: Khi bạn giàu có bên ngoài, th́ chỉ lúc đó bạn mới trở nên nhận
biết về sự nghèo nàn bên trong – qua sự tương phản (in contrast).
Khi bạn nghèo bên ngoài, bạn không bao giờ trở nên nhận biết về sự
nghèo nàn bên trong bởi v́ không có sự tương phản nào. Bạn viết với
phấn trắng trên bảng đen, không phải trên tấm bảng trắng. Tại sao?
Bởi v́ chỉ trên bảng đen nó mới hiện ra rơ ràng. Sự tương phải được
cần đến.
Khi bạn giàu có bên ngoài,
th́ bỗng nhiên một sự nhận biết sâu sắc xảy ra, rằng: “Bên trong tôi
nghèo, tôi là một kẻ ăn xin.” Và bây giờ, một trạng thái vô hy vọng
đến như một cái bóng: “Mọi cái mà chúng ta nghĩ về đều đă được đạt
tới – mọi tưởng tượng và “mơ tưởng” (fantasies) đều được thực hiện –
và không có ǵ xảy ra từ nó, không có sự hài ḷng, không có phúc lạc
nào cả.”
Phương Tây hoang mang. Từ
sự hoang mang này, một ước vọng lớn khởi lên: làm thế nào để một lần
nữa tiếp xúc với bản ngă của ḿnh. Thiền định không là ǵ khác hơn ngoài việc cắm rễ một lần nữa vào trong đời sống nội tâm, vào trong tính nội tại của bạn. Do vậy, phương Tây đang trở nên rất quan tâm đến thiền định và rất quan tâm đến những kho báu của phương Đông.
[1] Như Việt Nam chúng ta, vẫn c̣n nghèo – vẫn đang trên đường “hiện đại hóa – mà ở một số người, sự “tiếp xúc với cái bên trong” đă bị đánh mất rồi. Có dịp đọc Nguyễn Huy Thiệp, và Cơ Hội Của Chúa (Nguyễn Việt Hà), và… vân vân, bạn đọc sẽ thấy thấm thía điều ấy. Có lần, tôi “gồng ḿnh” nói với bạn bè: “ Khi Việt Nam ḿnh càng giàu lên, sẽ càng thêm nhiều người BỊ HẤP DẪN BỞI OSHO.” Câu nói này, cũng chỉ dựa trên “định đề” của Osho: “ Khi người ta giàu có bên ngoài, họ mới dễ nhận ra SỰ NGHÈO NÀN BÊN TRONG.” Khi tôi dám nói như vậy, th́ không phải là tôi nghĩ rằng Osho không có sai lầm, mà chỉ muốn nói, quả thật Osho có nhiều cái “hấp dẫn” đối với con người hiện đại, thế thôi. Dĩ nhiên, phải “cảnh giác” khi đọc ông, th́ mới có lợi; ngược lại, th́ có thể là … phản tác dụng!
|
Phương Đông cũng quan tâm đến
thiền định khi phương Đông giàu có; điều này phải được hiểu. Đó là
lư do tại sao tôi không chống lại của cải (riches) và tôi không nghĩ
rằng sự nghèo nàn có một chút tính tâm linh nào trong nó. Tôi hoàn
toàn chống lại sự nghèo nàn, bởi v́ bất cứ khi nào một đất nước trở
nên nghèo, nó đánh mất tất cả thiền định, tất cả những nỗ lực tâm
linh. Bất cứ khi nào một đất nước trở nên nghèo bên ngoài, nó không
thể nhận biết về sự nghèo nàn bên trong.
Đó là lư do tại sao trên những
khuôn mặt Ấn độ bạn có thể thấy một loại măn nguyện mà không được
t́m thấy tại phương Tây. Nó không phải là sự măn nguyện thực thụ; nó
chỉ là trạng thái bất thức về sự nghèo nàn nội tâm. Những người Ấn
độ nghĩ, “Hăy nh́n vào sự lo âu, sự thống khổ (anguish), và sự căng
thẳng trên những khuôn mặt phương Tây. Mặc dù chúng ta nghèo, chúng
ta rất măn nguyện bên trong.” Đó là sự ngây ngô, vớ vẩn cực kỳ; thực
ra, họ không măn nguyện. Tôi đă từng quan sát hằng ngàn người – họ
không măn nguyện. Một điều chắc chắn đúng, là họ không nhận biết về
sự bất măn, bởi v́ để nhận biết sự bất măn, th́ phải cần đến sự giàu
có bên ngoài. Không có sự giàu có bên ngoài, th́ không ai trở nên
nhận biết sự bất măn bên trong của họ – và có thừa những chứng cớ về
điều đó.
Tất cả những avatar của những
người Hindu đều là vua hay là con trai của vua. Tất cả những
tirtankara của đạo Jaina, những đạo sư Jaina, đều là vua; Đức Phật
cũng vậy. Tất cả ba truyền thống lớn của Ấn độ đă cung cấp đầy đủ
chứng cứ. Tại sao Đức Phật trở nên bất măn, tại sao Ngài bắt đầu một
cuộc t́m kiếm thiền định? Bởi v́ Ngài giàu có. Ngài sống trong xa
hoa; Ngài sống với tất cả mọi tiện nghi vật chất. Bỗng nhiên Ngài
trở nên nhận biết. Và Ngài c̣n khá trẻ khi nó xảy ra; Ngài chỉ mới
29 tuổi khi Ngài trở nên nhận biết rằng có một lỗ hổng đen bên trong.
Ánh sáng ở bên ngoài; do vậy, nó cho thấy bóng tối bên trong của bạn.
Chỉ một chút bẩn trên một sơ mi trắng, và nó hiện rơ. Đó là cái đă
xảy ra. Ngài trốn thoát khỏi cung điện.
Đó là cái đă xảy ra cho Mahavira;
Ngài cũng trốn khỏi một cung điện. Nó không đang xảy ra cho một kẻ
hành khất. Cũng có những kẻ hành khất trong thời của Đức Phật. Thật
ra, theo truyền thuyết, Đức Phật từ bỏ thế gian khi Ngài thấy một kẻ
hành khất lần đầu tiên, và một ông già, một tử thi, và một sannyasin.
Những người ăn xin có mặt ở đó. Đức Phật (lúc ấy là thái tử Siddharta. ND) sắp tham dự vào một lễ festival dành cho giới trẻ, chàng phải khánh thành nó. Từ chiếc kim xa (golden chariot) của ḿnh, chàng thấy một kẻ hành khất – lần đầu tiên, bởi v́ phụ vương chàng đă xoay xở (manage) suốt đời ông, sao cho Thái tử sẽ không bao giờ thấy một kẻ hành khất, hay một người bệnh, hay một người chết. Bởi v́ khi Ngài đản sanh, những nhà chiêm tinh đă nói với vua cha: “Nếu thái tử thấy những người này, ngay lập tức thái tử sẽ từ bỏ thế gian, cho nên, đừng cho phép thái tử thấy họ.” Do vậy, bất cứ nơi nào Thái tử thường đi tới, những kẻ hành khất được di chuyển đi nơi khác. Những người già sẽ bị di chuyển, hay bị buộc phải ở trong nhà họ, không được ra ngoài. Ngay trong khu vườn của Thái tử, không chiếc lá chết nào được cho phép. Mọi lá chết đều được thu dọn trong đêm, do vậy, vào buổi sáng khi Thái tử đi ra vườn, chàng chỉ có thể thấy sự trẻ trung, những chiếc lá non, những bông hoa mơn mởn. Chàng chưa bao giờ thấy một bông hoa héo tàn.
Khi chàng thấy một kẻ hành khất
lần đầu tiên … Và câu chuyện ngụ ngôn này thật đẹp; nó nói rằng, chư
thiên trở nên lo lắng; “Vua cha đang quá thành công. 29 năm đă trôi
qua và Thái tử có năng lực trở nên một trong những kẻ chứng ngộ nhất
trên thế gian.” Chư thiên trở nên lo lắng: “Phụ vương chàng xoay xở
quá thành công, đến mức có thể chàng sẽ không bao giờ gặp một kẻ
hành khất hay một người già; chàng có thể bỏ lỡ.” Do vậy, một vị
thần hoá thành một kẻ hành khất, một vị khác, một ông già, một vị
khác, một người chết, và một vị khác, một sannyasin.
Do vậy, trong thời của Đức Phật,
những người hành khất có mặt ở đó – nhưng họ không từ bỏ thế gian.
Họ không có ǵ để từ bỏ; họ măn nguyện. Nhưng Thái tử Siddharta trở
nên bất măn.
Xưa kia, khi Ấn độ giàu có, nhiều
người quan tâm đến thiền định; thật vậy, tất cả mọi người đều quan
tâm đến thiền định. Chẳng sớm th́ muộn, họ buộc phải bắt đầu nghĩ về
mặt trăng, về cái “bên kia” (beyond), về cái bên trong. Bây giờ đất
nước nghèo, quá nghèo đến mức không có sự tương phản nào giữa cái
bên trong và cái bên ngoài. Cái bên trong nghèo, cái bên ngoài cũng
nghèo. Cái bên trong và cái bên ngoài ở trong sự ḥa điệu hoàn hảo –
cả hai đều nghèo! Đó là lư do tại sao bạn thấy một loại măn nguyện
trên khuôn mặt người Ấn, đó không phải là sự măn nguyện thực thụ. Và
do vậy, người ta đă trở nên quen với việc nghĩ rằng sự nghèo nàn có
cái ǵ tâm linh trong nó.
Sự nghèo nàn được thờ phụng tại
Ấn độ. Đó là một trong những lư do tại sao tôi bị kết án một cách
liên tục, bởi v́ tôi không ủng hộ bất cứ sự nghèo nàn nào. Sự nghèo
nàn không phải là tính tâm linh, sự nghèo nàn là nguyên nhân gây ra
sự biến mất của tính tâm linh.
Tôi muốn toàn thế giới trở nên
giàu có càng nhiều càng tốt. Người ta càng giàu có, họ càng trở nên
tâm linh. Họ sẽ phải (trở nên tâm linh), họ sẽ không thể tránh nó.
Và chỉ khi đó sự măn nguyện thực thụ mới có thể khởi lên.
Khi bạn có thể tạo ra sự giàu có
bên trong, th́ sựï ḥa điệu lại xuất hiện – sự giàu có bên ngoài gặp
sự giàu có bên trong – rồi, có sự măn nguyện thực thụ. Khi sự nghèo
nàn bên ngoài gặp sự nghèo nàn bên trong, th́ có sự măn nguyện giả
dối. Sự ḥa điệu là khả dĩ trong hai cách này. Cái bên ngoài và cái
bên trong ḥa điệu, và người ta cảm thấy măn nguyện. Ấn độ có vẻ măn
nguyện bởi v́ có sự nghèo nàn ở hai phía của hàng rào ((the fence).
Có sự ḥa điệu hoàn hảo, cái bên trong ḥa điệu với cái bên ngoài;
nhưng đây là sự măn nguyện xấu xa, nó thực sự thiếu sự sống, thiếu
sinh khí. Đây là một loại măn nguyện nhạt phèo, chán ngắt.
Phương Tây bắt buộc phải trở nên
quan tâm đến thiền định, không có cách nào để tránh nó. Đó là lư do
tại sao Kytô giáo đang đánh mất ảnh hưởng của nó trên tâm trí phương
Tây, bởi v́ Kytô giáo chưa phát triển khoa học thiền định trên bất
cứ phương diện nào. Nó vẫn c̣n là một tôn giáo rất tầm thường
(mediocre); Do Thái giáo cũng vậy.
Phương Tây nghèo nàn khi những
tôn giáo này được sinh ra, đó là lư do. Cho tới lúc đó, phương Tây
đă sống trong nghèo nàn. Khi phương Đông giàu có, th́ phương Tây
nghèo nàn. Do Thái giáo, Kytô giáo, và Hồi giáo – tất cả ba tôn giáo
phi Ấn độ này, đều được sinh ra trong sự nghèo nàn. Chúng không thể
phát triển những kỹ thuật thiền định, không có nhu cầu. Chúng vẫn
c̣n là những tôn giáo của người nghèo.
Bây giờ phương Tây đă trở nên
giàu và có một chênh lệch, cách biệt (disparity).
Những tôn giáo phương Tây đều
được sinh ra trong sự nghèo khó; chúng không có ǵ để tặng cho những
người giàu. Đối với những người giàu, chúng nom có vẻ trẻ con, chúng
không mang lại thỏa măn. Chúng không thể làm thỏa măn. Những tôn
giáo phương Đông được sinh ra trong sự giàu có; đó là lư do tại sao
tâm trí phương Tây đang trở nên ngày càng quan tâm đến những tôn
giáo phương Đông. Vâng, tôn giáo của Đức Phật đang có ảnh hưởng lớn;
Zen đang lan tràn như lửa cháy rừng (wildfire). Tại sao? Nó được
sinh ra từ sự giàu có.
Có một sự tương đồng to lớn giữa
tâm lư học phương Tây của con người hiện đại và tâm lư học của Phật
giáo. Phương Tây ở trong trạng thái tương tự như (của) Đức Phật khi
Ngài trở nên quan tâm đến thiền định. Đó là cuộc t́m kiếm của một
người giàu. Và cũng là trường hợp của Ấn độ giáo, cũng là trường hợp
của Jaina giáo. Ba tôn giáo lớn này của Ấn độ đều được sinh ra từ sự
giàu có; do vậy, phương Tây nhất thiết phải bị hấp dẫn bởi những tôn
giáo phương Đông này.
Phương Đông đang mất liên hệ với
những tôn giáo của chính ḿnh.[2] Ấn độ không thể nào hiểu được Đức
Phật – nó là một đất nước nghèo. Thực ra, những người Ấn nghèo đang
cải đạo sang Kytô giáo. Những người Mỹ giàu đang cải đạo sang Phật
giáo, Ấn độ giáo, Vedanta – và những người “tiện dân” (untouchable),
những người nghèo nhất của Ấn độ, đang trở thành những người Kytô.
Bạn có thấy cái điểm then chốt này không? Những tôn giáo này có một
hấp dẫn nào đó đối với người nghèo. Nhưng chúng không có tương lai
nào cả, bởi v́ không sớm th́ muộn, toàn thế giới sẽ trở nên giàu có.
Tôi không ca ngợi sự nghèo nàn,
tôi không kính trọng sự nghèo nàn. Con người phải được hưởng cả hai
loại giàu có. Tại sao không cả hai? Khoa học đă phát triển kỹ thuật
làm cho bạn giàu có bên trong: đó là Yoga, Mật tông, Lăo giáo, đạo
Sufi, đạo Hassidi – có những kỹ thuật về cái bên trong.
Sau đây là một câu chuyện: Nhân vật trung tâm của câu chuyện này là một trong những người chấp nhận mọi sự xảy ra như là sự biểu hiện của quyền lực thiêng liêng. Ông ta nói, việc tra vấn những hành động của “thiên ư” (divine providence) không phải là việc của ông. Suốt đời ḿnh, ông gặp toàn bất hạnh, nhưng ông chưa một lần than van. Ông kết hôn, và vợ ông chạy theo người làm mướn. Ông có một con gái, và đứa con gái bị một tên vô lại lường gạt. Ông có một đứa con trai, và nó bị hành h́nh. Một trận hỏa hoạn thiêu cháy vựa lúa của ông, một trận cuồng phong thổi bay ngôi nhà của ông, một trận băo tuyết hủy hoại mùa màng của ông, và người chủ ngân hàng tịch biên mọi tài sản cầm cố của ông, lấy đi nông trại của ông. Thế nhưng, cứ mỗi cú đánh của bất hạnh, ông quỳ xuống và tạ ơn “Thượng đế Toàn Năng về ḷng xót thương vô hạn của Ngài.” Sau một thời gian, không đồng xu dính túi, nhưng vẫn tuân phục những “sắc lệnh” (decree) từ trên cao, ông vào tá túc trong một trại tế bần vùng quê. Một hôm người giám thị (overseer) phái ông ra ngoài để cày một cánh đồng khoai tây. Một cơn băo sấm nổi lên, nhưng khi nó đi ngang qua ông, th́, không báo trước, một lưỡi sét bổ xuống từ bầu trời. Nó làm chảy cái lưỡi cày, lột hết quần áo của ông, làm râu ông cháy xém, và khắc vào tấm lưng trần của ông với những chữ đầu tên (initials) của một người chăn ḅ (cowman) vùng lân cận, và ném ông xuyên qua một hàng rào kẽm gai. Khi ông tỉnh lại, ông từ từ quỳ gối, chắp tay lại và ngước mắt nh́n lên bầu trời. Rồi, lần đầu tiên, ông tự ḿnh khẳng định: “ Lạy Chúa,” ông nói, “ điều này đang trở nên hoàn toàn lố bịch!”
___________________________
[2] H́nh như khái quát này của Osho cũng rất “có lư” , phải không? C̣n ở phương Tây, th́ “giới tinh hoa” của họ đang quay mặt về phương Đông. Có thể tham khảo cuốn “ Tôn giáo & xă hội hiện đại" của Cao Huy Thuần, NXB Thuận Hóa,2006). Được viết bằng một giọng văn rất tự nhiên và rất … vui!
|
Đây là t́nh huống của
phương Đông: “ Điều này đang đi tới chỗ hoàn toàn lố bịch!” Nhưng
phương Đông vẫn tiếp tục cám ơn Thượng đế, tiếp tục cảm thấy biết ơn.
Không có ǵ để cảm thấy biết ơn nữa! Phương Đông đang cực kỳ nghèo
nàn, bệnh hoạn, đói khát; không có ǵ để biết ơn. Nhưng phương Đông
đă quên cái cách để đ̣i hỏi quyền lợi của ḿnh, phương Đông đă quên
cái cách để làm bất cứ cái ǵ để cải thiện t́nh trạng của nó.
Do vậy, phương Đông không
thể thiền định. Phương Đông hầu như đang sống trong một loại “vô ư
thức” (unconsciousness). Nó quá đói để mà thiền định, quá nghèo để
mà cầu nguyện. Mối quan tâm duy nhất của nó là bánh ḿ, chỗ ở, y
phục; cho nên, khi nhà truyền giáo Kytô đến và mở một bệnh viện hay
một trường học, th́ những người Ấn độ rất cảm kích – đây là “tính
tâm linh.” Khi tôi khởi sự dạy về thiền định, họ không quan tâm –
không những không quan tâm, mà họ c̣n chống lại nó: “Đây là loại tâm
linh tính ǵ thế?” Và tôi hiểu – họ cần bánh ḿ, họ cần chỗ ở, họ
cần y phục. Nhưng họ đang khổ bởi v́ tâm trí họ. Một mặt, họ cần
bánh ḿ, chỗ ở, y phục, những ngôi nhà tốt hơn, đường sá tốt hơn; và
mặt khác, họ tiếp tục thờ phụng sự nghèo nàn. Họ ở trong cái t́nh
trạng “một cổ hai tṛng.”
Phương Đông chưa thể thiền
định.[3] Trước hết, nó cần khoa học kỹ thuật để làm cho nó khá hơn
một chút về vật chất. Y như phương Tây cần kỹ thuật về tôn giáo,
phương Đông cần kỹ thuật về khoa học.
Và tôi hoàn toàn ủng hộ một
thế giới, nơi mà phương Tây có thể thỏa măn những nhu cầu của phương
Đông, và phương Đông có thể thỏa măn những nhu cầu của phương Tây.
Phương Đông và phương Tây đă sống tách biệt khá lâu; không c̣n cần
như vậy nữa. Phương Đông không c̣n nên là phương Đông, và phương Tây
không c̣n nên là phương Tây nữa. Chúng ta đă đi tới cái khoảnh khắc
“sinh tử” (critical) khi mà mà toàn bộ trái đất có thể trở thành một
– nên trở thành một – bởi v́ nó chỉ có thể sống sót nếu nó trở thành
một.
Những tháng ngày khi mà thế
giới phân chia ra thành những dân tộc đă qua, những ngày của sự phân
chia đă qua, những ngày của những nhà chính trị đă qua. Chúng ta
đang di chuyển trong một thế giới hết sức mới, một “pha” (phase) mới
của nhân loại – trong cái “pha” mới này, chỉ có một thế giới độc
nhất, chỉ có một nhân loại độc nhất. Và rồi, sẽ có một sự phóng
thích năng lượng cực kỳ lớn. Phương Đông có những kho báu, những kỹ thuật tôn giáo, và phương Tây có những kho báu, những kỹ thuật khoa học. Và nếu chúng có thể gặp gỡ, th́ chính thế giới này sẽ có thể trở thành một thiên đường. Bây giờ không cần cầu xin một thế giới khác; chúng ta có khả năng tạo ra thiên đường trên trái đất này, lần đầu tiên. Và nếu chúng ta không tạo ra nó, th́ ngoài chúng ta, không ai khác chịu trách nhiệm.
Tôi ủng hộ một thế giới độc nhất,
một nhân loại độc nhất, và cuối cùng, một khoa học độc nhất mà sẽ
chăm sóc cái bên ngoài và cái bên trong, cả hai.[4] Đó là cái mà tôi đang cố làm ở đây. Nó là một cuộc gặp gỡ giữa Đông và Tây; nó là cái tử cung (the womb) nơi mà một nhân loại mới (new humanity) có thể được thai nghén, được sinh ra đời.
Đây là những “đối cực”
(polarities) trong cuộc sống, thiền định và t́nh yêu – đây là cái
“đối cực” tối hậu.
Cái toàn bộ của cuộc sống gồm có
những đối cực: cái tích cực và cái tiêu cực, sự ra đời và sự chết,
đàn ông và đàn bà, ngày và đêm, mùa hạ và mùa đông. Cái toàn bộ của
cuộc sống bao gồm những đối cực. Nhưng những đối cực đó không chỉ là
những đối cực, chúng c̣n là những cái bổ sung cho nhau. Chúng đang
giúp nhau, chúng đang hỗ trợ nhau.
Chúng giống như những viên gạch
của một cổng ṿm cung (arch). Trong một ṿm cung, những viên gạch
phải được sắp xếp dựa vào nhau. Chúng nom có vẻ chống lại nhau,
nhưng nhờ đối nghịch với nhau mà cái ṿm cung được xây lên, đứng
vững được. Sức mạnh của cái ṿm cung tùy thuộc vào cái đối cực của
những viên gạch được xếp đối nghịch nhau.
Đây là cái đối cực tối hậu: thiền
định có nghĩa là nghệ thuật ở một ḿnh, và t́nh yêu có nghĩa là nghệ
thuật ở cùng nhau. Con người toàn bộ là người có khả năng di chuyển
từ cái này sang cái kia càng dễ dàng càng tốt. Nó hệt như việc thở
vào và thở ra – không có khó khăn nào. Chúng đối nghịch nhau – khi
bạn thở vào có một tiến tŕnh, và khi bạn thở ra, cái tiến tŕnh th́
ngược lại. Nhưng việc thở vào và thở ra làm thành một hơi thở hoàn
chỉnh.
[3] Dĩ nhiên, Osho chỉ muốn nói về “quần chúng đại trà” mà thôi, chứ ông không “vơ đũa cả nắm” đâu! Bằng chứng, là phương Đông có rất nhiều vị Thiền sư đạt đạo.
[4] Hoài băo của ông cực kỳ lớn! Tiếc rằng, không sống được như Bành Tổ, để chứng kiến “giấc mơ” của Osho trở thành hiện thực!
|
Trong nhiều thế kỷ, những tôn
giáo đă cố đạt tới một cực, loại trừ cực kia. Có những tôn giáo của
thiền định, thí dụ, Jaina giáo, Phật giáo – chúng là những tôn giáo
thiền định, chúng có gốc rễ trong thiền định. Và có những tôn giáo
bhakti, những tôn giáo của sùng kính: đạo Sufi, Hassidi – chúng có
gốc rễ trong t́nh yêu. Một tôn giáo có gốc rễ trong t́nh yêu cần
Thượng đế như là “ tha thể” (the other) để yêu, để cầu nguyện. Không
có một Thượng Đế, một tôn giáo của t́nh yêu không thể tồn tại, nó là
không thể quan niệm được – bạn cần một đối tượng của t́nh yêu. Nhưng
một tôn giáo của thiền định th́ có thể tồn tại mà không có khái niệm
về Thượng đế; cái giả thiết đó có thể được bỏ đi. Do vậy, Phật giáo
và Jaina giáo không tin vào bất cứ Thượng đế nào. Không cần một “tha
thể”. Bạn chỉ cần biết cách ở một ḿnh, biết cách im lặng, tĩnh lặng,
hoàn toàn b́nh thản, và lặng lẽ bên trong chính bạn. “Tha thể” phải
hoàn toàn được bỏ đi, quên đi. Do vậy, đây là những tôn giáo không
Thượng đế.
Khi lần đầu tiên những nhà thần
học phương Tây (t́nh cờ) gặp văn học Phật giáo và Jaina giáo, họ hết
sức thắc mắc: làm thế nào gọi những triết học phi Thượng đế này là
những tôn giáo? Chúng có thể được gọi là những triết học, nhưng làm
sao gọi chúng là tôn giáo được? Thật khó quan niệm được với họ, bởi
v́ truyền thống Do Thái giáo và Kytô giáo nghĩ rằng muốn có tính tôn
giáo, th́ Thượng đế là giả thiết cốt yếu nhất. Con người tôn giáo là
người “sợ-Thượng đế,” và những người này nói rằng không có Thượng đế,
do vậy, không có vấn đề sợ Thượng đế.
Tại phương Tây, trong hằng ngàn
năm, người ta vẫn nghĩ rằng, người nào không tin vào Thượng đế, là
một kẻ vô thần, y không phải là một người tôn giáo. Nhưng Đức Phật
th́ vô thần và tôn giáo. Điều đó rất kỳ lạ đối với những người
phương Tây, bởi v́ họ không hề nhận biết rằng, có những tôn giáo có
gốc rễ trong thiền định.
Và điều tương tự cũng đúng về
những người theo Phật và Mahavira. Họ cười nhạo sự ngu xuẩn của
những tôn giáo khác mà tin vào Thượng đế, bởi v́ toàn bộ ư tưởng đó
là phi lư. Nó chỉ là sự hăo huyền (fantasy), tưởng tượng, không có
ǵ khác; nó là một sự phóng chiếu. Nhưng đối với tôi, cả hai đều
cùng đúng.
Sự hiểu biết của tôi th́ không có
gốc rễ trong một cực; sự hiểu biết của tôi th́ lỏng, uyển chuyển
(fluid). Tôi đă nếm chân lư từ cả hai phía: tôi đă yêu một cách toàn
bộ và tôi đă thiền định một cách toàn bộ. Và đây là kinh nghiệm của
tôi: rằng một người chỉ toàn bộ khi y đă biết cả hai. Nếu không thế,
y vẫn c̣n một nửa, một cái ǵ đó c̣n thiếu bên trong y.
Đức Phật là một nửa – Jesus cũng
vậy.[5] Jesus biết t́nh yêu là ǵ, Phật biết thiền định là ǵ, nhưng
nếu họ gặp nhau, họ sẽ không thể nào truyền thông với nhau. Họ sẽ
không hiểu ngôn ngữ của nhau. Jesus sẽ nói về vương quốc của Thượng
đế, và Đức Phật sẽ bắt đầu cười: “ Bạn đang nói về cái vớ vẩn ǵ thế?
Vương quốc của Thượng đế?” Đức Phật sẽ chỉ nói, “ Sự chấm dứt của
cái tôi, sự biến mất của cái tôi.” Và Jesus sẽ nói, “ Sự biến mất
của cái tôi? Sự chấm dứt của cái tôi? Cái đó là tự vẫn, sự tự vẫn
tối hậu. Đây là loại tôn giáo ǵ vậy? Hăy nói về cái tôi tối cao!”
Họ sẽ không hiểu những lời nói
của nhau. Nếu họ từng gặp nhau, họ sẽ cần một người giống như tôi để
thông dịch; nếu không thế, không thể có sự truyền thông nào giữa họ.
Và tôi sẽ phải thông dịch sao cho tôi sẽ “không trung thực” (untrue)
với cả hai! Jesus sẽ nói, “vương quốc của Thượng đế” và tôi sẽ dịch
nó như là “niết bàn” – rồi Đức Phật sẽ hiểu. Phật sẽ nói “ niết bàn”,
và tôi sẽ dịch cho Jesus là “vương quốc của Thượng đế” – rồi th́
Ngài sẽ hiểu. Bây giờ nhân loại cần một cái nh́n toàn bộ. Chúng ta đă sống với tầm nh́n một nửa quá lâu. Nó là một sự cần thiết (tất yếu) của quá khứ, nhưng bây giờ con người đă tới tuổi thành niên. Những sannyasin của tôi phải chứng minh rằng, họ có thể thiền định và cầu nguyện cùng một lúc, rằng họ có thể thiền định và yêu cùng một lúc, rằng họ có thể im lặng như có thể và họ có thể nhảy múa và lễ hội (celebrating) nhiều như có thể. Sự im lặng của họ phải trở thành lễ hội của họ, và lễ hội của họ phải trở thành sự im lặng của họ. Tôi đang giao cho họ nhiệm vụ khó khăn nhất đă từng được giao cho bất cứ đệ tử nào, bởi v́ đây là cuộc gặp gỡ của những đối nghịch.
Và trong cuộc gặp gỡ đó, tất cả
mọi đối nghịch khác sẽ chảy tan và trở thành một: Đông và Tây, đàn
ông và đàn bà, vật chất và ư thức, thế giới này và thế giới kia,
cuộc sống và cái chết. Mọi đối nghịch sẽ gặp gỡ và hợp nhất (merge)
thông qua cuộc gặp gỡ này, bởi v́ đây là đối cực tối hậu; nó chứa
đựng tất cả mọi đối nghịch.
Cuộc gặp gỡ này sẽ tạo ra một hữu
thể người mới – Phật Zorba. Đó là cái tên mà tôi dành cho con người
mới. Và mỗi trong số những sannyasin của tôi phải làm mọi nỗ lực có
thể được, để trở thành một “chất lỏng” (liquidity) như thế, một sự
tuôn chảy, để cho cả hai cực đều thuộc về bạn. Rồi bạn sẽ phải nếm được “hương vị” (taste) của sự toàn bộ. Và biết sự toàn bộ là cách duy nhất để biết cái ǵ là “linh thánh” (holy). Không có cách nào khác.
[5] Đây chỉ là ư kiến riêng của Osho. Chắc chắn là vấn đề này cần được thảo luận nhiều.
|
Thông điệp của tôi rất đơn giản. Thông điệp của tôi là một con người mới, Homo Novus.[6] Khái niệm cũ về con người là hoặc là/ hoặc là: duy vật hoặc duy tâm, đạo đức hoặc vô đạo đức, kẻ tội lỗi hoặc vị thánh. Nó được đặt nền trên sự chia chẻ, chia cắt. Nó tạo ra một nhân loại phân lập. Toàn bộ quá khứ của nhân loại vẫn bệnh hoạn, không mạnh khỏe, “điên rồ” (insane)… Trong ba ngàn năm, năm ngàn năm, những cuộc chiến tranh đă được tiến hành. Cái này là cực kỳ điên khùng; nó là không thể tin được. Nó ngu xuẩn, phi nhân, không thông minh.
Một khi bạn chia con người thành
hai, bạn tạo ra sự khốn khổ và địa ngục cho y. Y không bao giờ có
thể mạnh khỏe, và không bao giờ có thể toàn bộ; nửa kia - đă bị phủ
nhận - sẽ tiếp tục t́m những cách thức và phương tiện để “vượt lên”
(overcome) cái phần mà bạn đă áp đặt lên chính ḿnh. Bạn sẽ trở
thành một băi chiến trường, một nội chiến. Đó là trường hợp đă xảy
ra trong quá khứ.
Trong quá khứ, chúng ta đă không
có khả năng tạo ra những hữu thể người thực thụ, mà chỉ là những
humanoids. Một humanoid là một kẻ trông giống như một hữu thể người,
nhưng hoàn toàn tàn phế, tê liệt. Y đă không được phép nở hoa trong
tính toàn thể của ḿnh. Y là một nửa, và bởi v́ y là một nửa, y luôn
ở trong sự thống khổ (anguish), và căng thẳng; y không thể “ vui
chơi,” lễ hội (celebrate). Chỉ một con người toàn bộ mới có thể vui
chơi. Sự vui chơi là hương thơm của trạng thái toàn bộ, không bị
phân mảnh.
Chỉ cái cây nào mà đă sống toàn
bộ th́ mới nở hoa. Con người chưa nở hoa.
Quá khứ vẫn luôn tối tăm và ảm
đạm. Nó vẫn luôn là một đêm đen của linh hồn. Và bởi v́ nó có tính
đè nén (repressive), nó buộc phải trở nên gây hấn. Nếu một cái ǵ đó
bị đè nén, th́ nó trở nên gây hấn, nó đánh mất tất cả những phẩm
chất mềm mại của nó. Cho tới nay, nó vẫn luôn luôn là như vậy. Chúng
ta đă tới một điểm mà ở đó cái cũ phải được bỏ đi, và cái mới phải
được báo hiệu (heralded).
Con người mới sẽ không hoặc là/hoặc
là – y sẽ là vừa… vừa … Con người mới sẽ vừa trần thế vừa “thiêng
liêng” (divine), vừa “thế tục” vừa “siêu thế” (otherworldly). Con
người mới sẽ chấp nhận tính toàn thể (totality) của ḿnh, và y sẽ
sống với nó mà không có bất cứ sự chia chẻ nội tâm nào, y sẽ không
bị chia chẻ. Vị Thượng đế của y sẽ không chống đối với quỷ sứ
(devil), đạo đức tính của y sẽ không nghịch lại với vô đạo đức tính;
y sẽ không biết đến sự chống nghịch nào. Y sẽ siêu việt nhị nguyên
tính, y sẽ không bị tâm thần phân lập. Với con người mới, sẽ đến một
thế giới mới, bởi v́ con người mới sẽ tri giác trong một cách khác,
khác về chất lượng. Y sẽ sống một cuộc sống hoàn toàn khác, mà trước
đây chưa từng được sống. Y sẽ là một nhà thần bí (mystic), một nhà
thơ, một nhà khoa học, tất cả gộp lại. Y sẽ không chọn lựa: Y sẽ là
chính ḿnh một cách không chọn lựa.
Đó là cái mà tôi dạy: Homo Novus,
một con người mới, không phải là một humanoid. Một humanoid không
phải là một hiện tượng tự nhiên. Humanoid được tạo ra bởi xă hội –
bởi người tăng sĩ, nhà chính trị, nhà mô phạm (pedagogue). Humanoid
được tạo ra, được sản xuất ra. Mỗi đứa trẻ chào đời như một hữu thể
người – toàn vẹn, toàn bộ, sống động, không có sự chia chẻ nào. Ngay
lập tức, xă hội bắt đầu bóp nghẹt nó, làm nó ngộp thở, cắt nó thành
nhiều mảnh vụn. Bảo nó phải làm ǵ, và không làm ǵ, phải là ǵ và
không là ǵ. Tính toàn bộ của nó chẳng bao lâu bị đánh mất. Nó trở
nên (cảm thấy) tội lỗi về bản thể toàn bộ của ḿnh. Nó phủ định
nhiều cái tự nhiên, và ngay trong sự phủ nhận đó, nó trở nên không
sáng tạo. Bây giờ nó sẽ chỉ là một mảnh, và một mảnh không thể nhảy
múa, một mảnh không thể ca hát. Và một mảnh th́ luôn có tính tự vẫn,
bởi v́ một mảnh không thể biết cuộc sống là cái ǵ. Humanoid không
thể tự quyết định. Những người khác đă và đang quyết định thay cho y
– cha mẹ, thầy cô giáo, những lănh tụ, giới tăng sĩ; tất cả họ nắm
lấy quyền quyết định của y. Họ quyết định, họ ra lệnh; y chỉ đơn
giản đi theo. Humanoid là một tên nô lệ.[7] Tôi dạy sự tự do. Bây giờ, con người phải tiêu diệt mọi loại trói buộc (bondage) và y phải ra khỏi tất cả mọi nhà tù – không c̣n nô lệ nữa. Con người phải trở nên cá thể. Y phải trở nên nổi loạn (rebellious). Và bất cứ khi nào một người đă trở nên nổi loạn … Thỉnh thoảng một ít người đă thoát khỏi sự độc đoán của quá khứ, nhưng chỉ thỉnh thoảng – một Jesus đó đây, một Đức Phật đó đây. Họ là những ngoại lệ. Và ngay cả những người này, Jesus và Phật, cũng không thể sống một cách toàn bộ. Họ cố, nhưng toàn xă hội chống lại điều đó.
[6] Trong quá khứ, đă có nhiều “mô h́nh về con người mới” được đề xuất. Chẳng hạn, F. Nietzche cũng đă “đề xuất” một mô h́nh con người mới, đó là “Siêu Nhân” (Superman). Nhưng lịch sử đă cho thấy, mô h́nh Siêu Nhân của ông đă thất bại. Ba chặng đường của Siêu Nhân: Lạc đà, Sư tử, Hài nhi. Theo Kim Định, th́ “hài nhi” của Nietzche “ có những cú đấm ngàn cân, đập phá như đô vật” ! (Nhân Bản, 1965). C̣n “con người mới” của Osho? Có lẽ, vị này sẽ bớt nguy hiểm như “hài nhi” của Nietzche, nhưng dường như … “ hơi bị hoang tưởng” ?
[7] Theo Osho, nh́n chung, “chủng lọai người” mới chỉ là một “Humanoid” – nghĩa là, chưa trở thành “người.” Bi quan quá chăng? Nietzsche và nhiều bậc “tầm cỡ” khác, cũng nghĩ như vậy. Nhưng suy nghĩ kỹ, th́ h́nh như Osho không phải là không có lư. Và, mấy ai dám nghĩ ḿnh đă trở thành “con người” ?
|
Khái niệm của tôi về con người
mới, là y sẽ trở thành Zorba người Hy Lạp và cũng sẽ là Phật
Gautama. Con người mới sẽ là Phật Zorba. Người ấy vừa “nhục cảm”
(sensuous) vừa tâm linh – nhục cảm, cực kỳ nhục cảm (physical),
trong thân thể, trong cảm quan, thưởng thức thân thể và tất cả những
ǵ thân thể làm cho có thể, và vẫn là một ư thức vĩ đại, một sự
chứng kiến vĩ đại sẽ ở đó. Người ấy sẽ là một Christ và Epicurus [8]
một cách đồng thời.
Lư tưởng của con người cũ là sự
từ bỏ, lư tưởng của con người mới sẽ là vui hưởng. Và con người mới
này đang đến hằng ngày, y đang đến hằng ngày. Thế nhưng người ta vẫn
cứ chưa trở nên nhận biết y. Thật ra, y đă đă bắt đầu ló dạng
(dawned) rồi. Cái cũ đang chết, cái cũ đang nằm trên giường chết của
nó. Tôi không than khóc nó, và tôi nói nó chết là tốt, bởi v́ từ cái
chết của nó, cái mới sẽ tự khẳng định chính ḿnh. Cái chết của cái
cũ sẽ là sự khởi đầu của cái mới. Cái mới chỉ có thể đến khi cái cũ
đă hoàn toàn chết đi. Hăy giúp con người cũ chết đi và con người mới ra đời – và hăy nhớ, con người cũ có mọi sự khả kính, và toàn bộ quá khứ sẽ ủng hộ y và con người mới sẽ là một hiện tượng rất kỳ lạ. Con người mới sẽ quá mới, đến nỗi y sẽ không được kính trọng. Mọi nỗ lực sẽ được làm để tiêu diệt con người mới. Con người mới không thể khả kính, nhưng cùng với con người mới là tương lai của toàn bộ nhân loại. Con người mới phải được tŕnh diện.
Công tŕnh của tôi gồm có việc
tạo ra một Phật trường, một trường năng lượng, nơi mà cái mới có thể
được sinh ra. Tôi chỉ là một bà đỡ giúp cái mới đi vào trong một thế
giới mà sẽ không đang chấp nhận nó. Cái mới sẽ cần nhiều hỗ trợ từ
những ai có trí tuệ và thức thời, từ những ai muốn cuộc cách mạng
nào đó xảy ra. Và thời gian đă chín muồi, và nó chưa bao giờ chín
muồi như thế. Đây là thời điểm thích hợp, nó chưa bao giờ thích hợp
như thế. Cái mới có thể tự khẳng định ḿnh, sự đột phá đă trở nên có
thể được. Cái cũ (the old) th́ quá thối nát, đến mức ngay cả với tất cả sự ủng hộ, nó không thể sống sót; nó phải đến ngày tận số! Chúng ta có thể tŕ hoăn, chúng ta có thể tiếp tục thờ phụng cái cũ; đó chỉ là tŕ hoăn cái tiến tŕnh. Cái mới th́ đang trên đường đi của nó. Tối đa, chúng ta có thể giúp nó đến sớm hơn, hoặc chúng ta có thể ngăn trở (ḱm hăm) nó và tŕ hoăn sự xuất hiện của nó. Trợ giúp nó là tốt. Nếu nó đến sớm hơn, th́ nhân loại sẽ vẫn c̣n có một tương lai, một tương lai lớn – một tương lai của tự do, một tương lai của t́nh yêu, một tương lai của niềm vui.
[8] Epicurus (341 – 270, trước cơng nguyên). Triết gia cổ đại Hy Lạp, vốn được xem là người lập ra thuyết “duy khối lạc.” Theo ơng, cứu cánh của cuộc sống là đạt tới “khối lạc.” Tuy nhiên, nhiều người hiểu lầm ơng: cĩ 2 loại khối lạc, thể xác và tinh thần, và Epicurus ưu tiên cho loại “khối lạc tinh thần”. Karl Marx xưa kia cũng rất “thích” Epicurus, nhưng có lẽ chỉ v́ Epicurus có nhăn quan “duy vật” và cho rằng “thần thánh” không can thiệp vào cuộc sống con người.
|
Tôi dạy một tôn giáo mới. Tôn
giáo này sẽ không là Kytô giáo, không là Do thái giáo, và sẽ không
là Hindu giáo. Tôn giáo này sẽ không có bất cứ tính từ nào thêm vào
nó. “Tôn giáo” này không phải là tôn giáo thông thường, nó chỉ là
“tính tôn giáo” - là việc “trở nên toàn bộ.” [9] Người của tôi sẽ phải trở thành những tia nắng đầu tiên mà sắp hiện lên bầu trời. Nó là một nhiệm vụ to lớn, nó là một nhiệm vụ hầu như bất khả, nhưng bởi v́ nó là bất khả, nó sẽ khuyến dụ (seduce) tất cả những ai có một chút linh hồn nào c̣n sót lại trong họ. Nó sắp tạo ra một hoài vọng lớn trong tất cả những người mà có sự mạo hiểm ẩn giấu trong bản thể của họ, người dũng cảm, gan dạ, bởi v́ nó thực sự sẽ tạo ra một thế giới dũng cảm mới.
Tôi nói về Đức Phật, tôi nói về
Christ, tôi nói về Krishna, tôi nói về Zarathustra, để cho tất cả
những ǵ tốt nhất và tất cả những ǵ tốt lành trong quá khứ có thể
được bảo quản. Nhưng đây chỉ là một ít ngoại lệ. Toàn bộ nhân loại
đă sống trong sự nô lệ to lớn, bị xiềng xích, bị chia chẻ, bị điên
loạn (insane).
Thông điệp của tôi th́ đơn giản
nhưng sẽ rất khó khăn, rất gay go để làm cho nó xảy ra. Nhưng nó
càng khó khăn, nó càng bất khả, th́ thách thức càng lớn. Và thời
điểm đă đến, bởi v́ tôn giáo đă thất bại, khoa học đă thất bại.[10]
Thời điểm đă đến, bởi v́ phương Đông đă thất bại, phương Tây đă thất
bại. Một cái ǵ đó của một tổng hợp cao hơn được cần đến, trong đó
Đông và Tây có thể có một cuộc gặp gỡ, trong đó tôn giáo và khoa học
có thể có một cuộc gặp gỡ.
Tôn giáo thất bại bởi v́ nó thuộc
về thế giới bên kia, và nó bỏ bê thế giới này. Và bạn không thể bỏ
bê thế giới này; bỏ bê thế giới này là bỏ bê chính những gốc rễ của
bạn. Khoa học đă thất bại bởi v́ nó bỏ bê thế giới kia (the other
wold), thế giới bên trong, và bạn không thể bỏ bê những bông hoa.
Một khi bạn bỏ bê những bông hoa, cái cốt lơi nội tại nhất của tồn
tại, th́ cuộc sống mất hết ư nghĩa. Y như cái cây cần những gốc rễ,
con người cũng cần gốc rễ, và những gốc rễ chỉ có thể ở trong đất.
Cái cây cần một bầu trời rộng mở để phát triển, để đi tới chỗ trổ ra
những tán lá (foliage), và có hằng ngàn bông hoa. Lúc đó, và chỉ lúc
đó, cái cây mới hoàn thiện, chỉ lúc đó, cái cây mới cảm nhận tầm
quan trọng và ư nghĩa ( meaning), và sự sống trở nên thiết thân
(relevant). Con người cũng ví như một cái cây. Tôn giáo đă thất bại bởi v́ nó chỉ đang nói về những bông hoa. Những bông hoa đó vẫn c̣n mang tính triết học, trừu tượng; chúng không bao giờ hiện thực hoá (meterialize). Chúng không thể trở thành hiện thực, bởi v́ chúng không được hỗ trợ bởi đất. Và khoa học đă thất bại, bởi v́ nó chỉ lưu tâm đến những gốc rễ. Những gốc rễ th́ xấu xí, và có vẻ như không có sự nở hoa nào.
Phương Tây đang đau khổ v́ quá
nhiều khoa học; phương Đông đă đau khổ v́ quá nhiều tôn giáo. Bây
giờ, chúng ta cần một nhân loại mới mà trong đó tôn giáo và khoa học
trở thành hai mặt của một hữu thể người. Và cây cầu sẽ là nghệ thuật.
Đó là lư do tại sao tôi nói rằng con người mới sẽ là một nhà thần bí
(mystic), một nhà thơ và nhà khoa học. Giữa khoa học và tôn giáo, chỉ nghệ thuật [11] mới có thể là cây cầu – thi ca, âm nhạc, điêu khắc. Một khi chúng ta đă đưa con người mới này ra đời, th́ trái đất có thể, lần đầu tiên, trở thành cái mà nó phải (is meant to) trở thành. Nó có thể trở thành một thiên đường: chính cái thân thể này là Phật, chính trái đất này là thiên đường.
~~000~~
______________________
[9] Nguyên tác: “This religion will be purely a religious quality of being whole.” Câu này Osho diễn đạt chưa rơ ư lắm. Tôi chỉ dựa vào văn mạch và bối cảnh tư tưởng của ông để dịch thốt ư..
[10] “Tôn giáo” thất bại ở chỗ nào? Khoa học thất bại ở chỗ nào? Có thể xem thêm “ Cái vô hạn trong ḷng bàn tay.” (Trịnh Xuân Thuận, Matthieu Ricard, NXB Trẻ, Phạm văn Thiều, Ngô Vũ dịch. 2005).
[11] Trong cuốn “Dhammapada” ( bản dịch, Con đường của Phật, không ghi người dịch), Osho nói, con đường của ông là một tổng hợp của 3 chữ M : Meditation (M1- thiền định) + Music ( M2 - Aâm nhạc, Nghệ Thuật) + Math (M3 – Toán học, Khoa học). Ông “chê” Phật Gautama, Jesus … là chỉ có M1 ((Meditation) mà thiếu 2 “em” (M) kia. Trong mắt ông, th́ tôn giáo nào cũng chỉ có một “em” (M), và thiếu mất 2 “em” (M) ! Ông nói: “ … Và chỉ có 3 loại tôn giáo đă tồn tại trên thế giới: tôn giáo của toán học, đại diện bởi Jaina giáo; tôn giáo của âm nhạc, đại diện bởi Hồi giáo, Kytô giáo, Do thái giáo, Hindu giáo; và tôn giáo của thiền định, đại diện bởi Phật giáo, Đạo giáo.” Chỉ có ông – Osho – là có đủ cả 3 “em” (M)! Không rơ ông nói đúng hay sai, nhưng quả thật, Osho có một tầm nh́n bao quát rất … “đáng nể.”
|