Biên dịch : Đỗ Tư Nghĩa
APPENDIX (Phần 2)
CUỘC MỞ RỘNG TOÀN CẦU
Vào cuối năm 1980 và đầu năm 1981, một trung tâm được thiết lập tại
Mỹ để phát hành những cuốn sách, băng ghi âm, băng ghi h́nh của Osho.
Những sannyasin ở hải ngoại được động viên hỗ trợ những trung tâm
thiền và công xă địa phương (local). Có những chương tŕnh để huấn
luyện những tân trưởng nhóm. Tại London vào mùa xuân năm 1981, một
cuộc “thí điểm” (sampling) gồm 2 ngày thiền định và những “ nhóm
nghiên cứu”(group workshops) gọi là “Biến cố tháng 3”, được tổ chức
và lôi cuốn khoảng 100 tham dự viên thông qua sự quảng cáo, bao gồm
những tấm biển trên những xe buưt và tàu điện ngầm London. Tiếp đó
là những “biến cố” tương tự tại những thủ đô khác trên thế giới. Nỗ lực của tôi không phải chỉ là để tạo ra một Phật trường ở đây, mà là tạo ra những ốc đảo (oases) nhỏ khắp thế giới. Tôi không muốn chỉ bó hẹp khả tính to lớn này vào trong cái công xă nhỏ bé này. Công xă này sẽ là suối nguồn (source), nhưng nó sẽ có những chi nhánh khắp thế giới. Nó sẽ là cái gốc rễ, nhưng nó sắp trở thành một cây to. Nó sẽ vươn tới mọi đất nước, nó sẽ vươn tới mọi con người tiềm năng. Chúng ta sẽ tạo ra những công xă nhỏ, những trung tâm nhỏ khắp thế giới.
Hăy ở trong thế giới, nhưng đừng thuộc về nó.[9] Hăy sống trong thế giới, nhưng đừng cho phép thế giới sống trong bạn. Đó là thông điệp của tôi.
Có một Thiền ngữ: “Những con ngỗng trời không có ư định ném cái ánh phản chiếu của chúng. Nước không chủ ư muốn nhận h́nh ảnh của chúng.”
Con ngỗng trời không có ước vọng ném cái phản chiếu của nó trên mặt nước, và nước không có ước vọng hay chủ ư muốn nhận h́nh ảnh của nó – mặc dù điều đó xảy ra! Khi con ngỗng trời bay, nước phản chiếu nó. Sự phản chiếu là ở đó, h́nh ảnh là ở đó, nhưng nước không chủ ư phản chiếu và con ngỗng trời cũng không ao ước được phản chiếu.
Đây nên là cái phương cách của những sannyasin của tôi. Hăy ở trong thế gian, hăy sống trong thế gian, hăy sống một cách toàn bộ, không tham vọng, không dục vọng – bởi v́ mọi ham muốn đều làm bạn xao lăng khỏi việc sống, mọi tham vọng đều hy sinh hiện tại. Đừng tham lam, bởi v́ sự tham lam đưa bạn vào tương lai; đừng chiếm hữu, bởi v́ sự chiếm hữu luôn khiến bạn níu vào quá khứ. Một người muốn sống trong hiện tại phải thoát khỏi sự tham lam, tính chiếm hữu, tham vọng, dục vọng.
Và đó là cái mà tôi gọi là toàn bộ nghệ thuật của thiền định. Hăy nhận biết (aware), hăy cảnh giác, sao cho mọi tên trộm này không có khả tính nào để bước vào và làm ô nhiễm bạn. Hăy giữ cái tâm “thiền” (meditative), nhưng hăy ở trong thế gian. Và đây là kinh nghiệm của tôi: thế gian giúp đỡ rất to lớn (immensely) – nó giúp hết sức nhiều, để bạn đạt tới cái tâm “thiền”. Nó cho bạn tất cả cơ hội để bị xao lăng, nhưng nếu bạn không bị xao lăng, th́ mỗi thành công trở thành một niềm vui lớn lao. Bạn vẫn “qui trung tâm” (centered), bạn trở thành trung tâm của cơn lốc. Cơn lốc tiếp tục gầm rú xung quanh bạn, nhưng trung tâm của bạn vẫn không bị hề hấn ǵ.
Đó là cách của một sannyasin thực thụ: ở trong thế gian, nhưng vẫn không bị đụng chạm, không bị ảnh hưởng bởi nó.
____________________________
[9] Đây là một
trong những “giáo huấn” căn bản của Osho. Nói th́ dễ, nhưng làm th́
vô cùng khó!
|
TRONG IM LẶNG
Vào 10/4/1981,Osho gởi một thông điệp rằng, ông đang bước vào giai đoạn tối hậu của công tŕnh của ḿnh, và rằng, từ nhật kỳ đó, ông sẽ chỉ nói thông qua sự im lặng. Ông tiếp tục gặp gỡ với thư kư riêng của ông, nhưng không xuất hiện cho đến 3 tuần về sau, khi mà những satsang được tiếp tục lại, và Osho xuất hiện trong thiền pḥng để ngồi im lặng, với các đệ tử và những khách viếng thăm. Một bài thánh ca (chant) Phật giáo cổ xưa được hát ở đầu của những cuộc họp mặt, và chúng kết thúc với âm nhạc, ca hát, nhảy múa.
Trong khi đó, sức khỏe của Osho đă trở nên ngày càng mỏng manh. Thêm vào bệnh dị ứng (allergies), bây giờ ông bị những cơn đau lưng nghiêm trọng, và những bác sĩ quan ngại rằng, ông có thể cần phẫu thuật ở một thời điểm nào đó. Mối quan ngại của họ gia tăng, khi một bộ phận h́nh đĩa (prolapsed disk) bị sa xuống, và có nguy cơ tiềm năng gây hư tổn thần kinh nếu nó bị trầm trọng thêm. Người trợ tá cho Ma Anand Sheela, thư kư riêng của Osho, sắp xếp để ông tới Mỹ nơi mà ông có thể được điều trị nếu một khủng hoảng khác nẩy sinh. Vào 1/6/1981, ông bay từ Bombay tới New York với “bộ tham mưu” và ban y tế của ông.
1981 – 1985 : ĐẠI NÔNG TRẠI “BÙN LẦY"
Một vài tuần sau khi Osho tới Mỹ, Sheela hoàn tất việc mua một khu
đất mà trước đây là trại đại gia-súc (cattle) – 126 dặm vuông –
trong vùng sa mạc cao của phía đông Oregon. Cách Antelope, thị trấn
gần nhất, 20 dặm, Đại Nông Trại Bùn Lầy, như nó được gọi, là một khu
đất mà cỏ ở đó chỉ c̣n rất ít, v́ đă bị gia súc gặm quá nhiều; nó
quay mặt về phía sông John Day River, và nằm dạng ra giữa hai quận
của Oregon. Nó chỉ bao gồm một nông trang (farmhouse) nhỏ và vài nhà
phụ trong một thung lũng ở cuối một con đường dốc đứng, bụi bặm,
chưa trải nhựa. Cuối tháng 8, một số nhà tiền chế đă được dựng lên
trên vùng đất đó, bao gồm một cái làm nơi cư trú của Osho. Ông và
“bộ tham mưu” (household staff) của ông được đưa tới Đại Nông Trại
Bùn Lầy vào 29/8. Buddha (đức Phật) phạm những sai lầm, Mahavira phạm những sai lầm; và tôi đang ngồi trước các bạn – trong việc đến Oregon, bạn có nghĩ rằng tôi đă không phạm một sai lầm? Tôi là một bằng chứng đủ rằng, việc chứng ngộ không có nghĩa là bạn không thể sai lầm. [10] Bạn có thể rơi vào trong Đại Nông Trại Bùn Lầy! Và bây giờ, thật khó mà ra khỏi nó. Bạn càng cố đi ra khỏi nó, bạn càng đi vào trong bùn lầy.
Điều này quá rơ ràng, đến nỗi tôi không cần phải kể ra những sai lầm nào mà Buddha đă phạm, những sai lầm nào mà Mahavira đă phạm, và tôi tiếp tục phạm phải chúng; nhưng cái đó không tác hại đến sự chứng ngộ của tôi. Nó không dính dáng ǵ đến sự chứng ngộ.
Tôi tận dụng những sai lầm của tôi một cách tốt nhất có thể. Đó là cái mà chúng ta đang làm tại “Đại Nông Trại Bùn Lầy”– đang cố – đó là lư do tại sao tôi nói, cố gắng, trong một thể cách chứng ngộ, làm một cái ǵ tốt từ nó. Nếu chúng ta đă rơi vào trong nó, nó có thể là sai lầm của chúng ta – nhưng nó lại may mắn cho Đại Nông Trại Bùn Lầy, cho nên chúng ta hăy tận dụng nó một cách tốt nhất. Và chúng ta đang cố gắng hết sức để tận dụng nó.
Nhưng tất cả những “kẻ nọ” [11] (all these other people) đă và đang tự cho là ḿnh không thể sai lầm. Trên nhiều phương diện, tôi là một “kẻ dở hơi” (crackpot). Lẽ ra, tôi không nên nói những điều như thế, rằng tôi phạm những sai lầm. Cái này không ăn nhịp với “nghề nghiệp” (profession) của tôi; cái này chống lại nó. Đó là lư do tại sao những người thuộc “nghề nghiệp” của tôi ghét tôi, bởi v́ họ nói, “ Những điều này ông không nên nói. Ngay cả nếu ông đi tới chỗ biết rằng ông đă phạm một sai lầm, hăy cố che giấu nó. Hăy cố làm cho nó xuất hiện như thể nó không phải là một sai lầm.” Đó là cái mà họ đă và đang làm trong nhiều thế kỷ. Nhưng tôi không thể làm thế. Tôi chỉ đơn giản không cam tâm, tôi không thể lừa gạt (deceive).
RAJNEESHPURAM, THÀNH PHỐ BẤT HỢP PHÁP
Trong ṿng một vài tháng, sự thể trở thành rơ ràng rằng, những sannyasin của Osho đang hy vọng tạo ra một cọng đồng (community) tự túc, với những phương tiện nhằm tạo chỗ ở cho gần năm ngàn cư dân, tổ chức một festival lớn bốn lần một năm, và xuất bản những cuốn sách của Osho. Dân số tăng nhanh chóng qua mùa xuân và mùa hạ. Trong khi tạm trú trong những lều bạt, những người mới đến tạo ra một nông trại rau xanh [12] và xưởng chế tạo ḅ sữa (dairy operation) lớn, bắt đầu đặt hệ thống điện nước cho hạ tầng cơ sở, bắt tay vào việc cải thiện đường sá, phục hồi những con lạch, và phủ xanh những sườn đồi trọc. Sự thù địch địa phương đối với công xă nhanh chóng trở thành công khai (vocal) và gây hấn. Những giấy phép xây dựng bị từ chối, những đe dọa bạo động chống lại Osho và những thành viên của cọng đồng được thực hiện, và một khách sạn được mua bởi những sannyasin tại Portland bị đánh bom. Thống đốc của Oregon phát biểu rằng, theo ư ông, nếu những cư dân mới không được hoan nghênh bởi cọng đồng lân cận, th́ họ nên rời bỏ.
Vào năm 1982, những cư dân của trang trại bỏ phiếu để tự sáp nhập (incorporate) công xă của họ – mà họ gọi là Thành phố Rajneeshpuram - vào quận Wasco . Sự sáp nhập này được chấp thuận bởi những ủy viên hội đồng của quận (county commissioner), chỉ để bị khiếu kiện trước ṭa án bởi một nhóm “chó săn” tự gọi ḿnh là “1000 người bạn của Oregon.” Họ cáo buộc công xă về tội vi phạm luật sử dụng đất. Về sau, vị Chưởng Lư (attorney general) của bang này chống lại việc sáp nhập của “thành phố”; ông ta cho rằng, theo hiến pháp, nó vi phạm luật về sự tách bạch giữa nhà thờ và nhà nước. Những vị linh mục của phái Kytô Chính Thống gợi ư rằng, Osho là kẻ chống Christ, và những trại chủ địa phương dùng những tấm biển chỉ đường tới “thành phố Rajneeshpuram” cho mục tiêu tấn công của họ. Những cái mũ baseball và những chiếc áo thể thao vẽ một khẩu súng trường đang nhắm vào Osho, được bán tại những cuộc biểu t́nh “chống Rajneesh.”
Osho nộp đơn xin một giấy phép cư trú với tư cách là một đạo sư,
nhưng nó bị từ chối với lư do rằng, ông đang “tịnh khẩu”, và do vậy,
không thể giảng đạo được – một quyết định mà sau này bị bác bỏ nhờ
kháng cáo. Vào năm 1984, ban tư pháp của “thành phố Rajneeshpuram”
có hơn 200 người, tham dự vào hằng tá vụ kiện. Những tư liệu thu
được dưới Đạo Luật Về Quyền Tự Do Thông Tin (Freedom Information
Act) tiết lộ rằng, những cấp cao nhất của chính phủ Reagan có dính
líu vào việc gây áp lực buộc những cơ quan an ninh liên bang và tiểu
bang phải t́m ra một cách để giải tán cọng đồng và trục xuất Osho
khỏi nước Mỹ. Họ muốn thành phố này bị phá bỏ, viện cớ là nó vi phạm luật sử dụng đất của họ. Và không ai trong những tên ngu xuẩn đó đă đến để xem là chúng ta đang sử dụng đất ra sao. Họ có thể sử dụng nó một cách sáng tạo hơn chúng ta đang sử dụng nó không? Và trong 50 năm, không ai dùng mảnh đất đó; họ vui sướng, v́ đất được sử dụng quá tốt. Bây giờ chúng ta đang sáng tạo từ nó. Chúng ta là một công xă tự túc. Chúng ta đang sản xuất thực phẩm, rau, trái cây của ḿnh; chúng ta đang dốc hết sức ḿnh để làm cho nó tự túc.
Cái sa mạc này… v́ lư do nào đó, có vẻ như đây là số phận (destiny) của những người như tôi. Moses đă kết thúc (end up) trong một sa mạc. Tôi đă kết thúc trong một sa mạc, và chúng ta đang cố làm cho nó xanh lên. Nếu bạn đi xung quanh nhà tôi, bạn không thể nghĩ nó là Oregon; bạn sẽ nghĩ nó là Kashmir. Không có một cây nào khi tôi đến. Không có màu xanh cỏ cây. Tôi chỉ đơn giản bị sốc khi Sheela đưa tôi tới đây; cái nhà đang đứng trần trụi. Và tôi đă luôn luôn sống trong những khu vườn đẹp; bất cứ nơi nào tôi đă sống, tôi đều tạo ra một khu vườn đẹp.
Với nỗ lực lớn, chúng ta đă cố biến nơi này thành ra màu mỡ. Những người của chúng ta đang làm việc 12 – 14 giờ một ngày; và họ không đến để xem cái ǵ đă xảy ra ở đây. Chỉ ngồi trong ṭa nhà quốc hội Mỹ, họ quyết định rằng nó chống lại những luật sử dụng đất. Nếu nó chống lại những luật sử dụng đất, th́ những luật sử dụng đất của quư vị là “dổm” (bogus) và nên được đốt đi. Nhưng trước hết hăy đến và xem, và hăy chứng minh rằng cái này là chống lại những luật sử dụng đất.[13] Nhưng họ sợ phải đến đây.
Tôi vẫn luôn tôn trọng nước Mỹ như là một đất nước của dân chủ. Tôi
vẫn luôn đánh giá cao sự tôn trọng dành cho cá nhân, cho tự do, tự
do ngôn luận. Tôi vẫn luôn yêu Hiến pháp Mỹ. Và bây giờ tôi cảm thấy
có lẽ sẽ tốt hơn, nếu tôi đă không đến đây, bởi v́ bây giờ tôi đang
cảm thấy tuyệt đối thất vọng. Cái Hiến pháp đó là “dổm”. Những từ
này – cá nhân, tự do, chủ nghĩa tư bản, tự do ngôn luận – tất cả đều
chỉ là những từ ngữ. Đằng sau cái b́nh phong (screen), là chính trị
gia tương tự, bộ mặt xấu xa tương tự, tâm trí đê hèn (mean) tương tự
– bởi v́, theo ư tôi, chỉ có những người đê hèn nhất trên thế giới
mới bị lôi cuốn vào chính trị. Những người đê hèn, thấp kém nhất,
bởi v́ họ biết họ có thể làm cái ǵ đó chỉ nếu họ có quyền lực. Bạn
cần quyền lực chỉ để làm cái ǵ đó có hại; nếu không, t́nh yêu là đủ,
ḷng từ bi là đủ. Thành phố của bạn thực sự là độc nhất vô nhị (unique) trong toàn bộ lịch sử nhân loại. Đă từng có những thành phố và đă từng không có những thành phố; nhưng một thành phố bất hợp pháp ư? Chưa bao giờ nghe nói đến trước đây. Nó là một thành phố, nhưng bất hợp pháp. Người ta không công nhận bạn có mặt. Bị phớt lờ đi, tôi không hiện hữu.
Tôi ở đây, và tôi sẽ ở đây. Không có cách trả tôi về Ấn độ - bởi v́ tôi có những thu xếp của riêng tôi. Tôi đă thuyết phục chính phủ Ấn độ khước từ tôi, nên người ta sẽ đưa tôi đi đâu chứ ? Người ta có thể trục xuất tôi về Ấn độ. Ấn độ, tôi đă thuyết phục họ trước rồi; họ sẽ không chấp nhận tôi chút nào. Bây giờ tôi kẹt cứng ở đây, tại Đại Nông Trại Bùn Lầy. Không có cách nào, không có cái cần cẩu nào để kéo tôi ra.
Nhưng những gă khùng này th́ đang có quyền lực. Họ đă loại bỏ thậm chí cái tên Rajneeshpuram ra khỏi cái bản qui hoạch gốc (master plan) của quận Wasco. Trong những hồ sơ của quận Wasco, “thành phố“ Rajneeshpuram không tồn tại. Nếu 5 ngàn người bỗng nhiên biến mất, th́ chính quyền Oregon sẽ không thể nói rằng họ đă biến mất, bởi v́ rồi th́, người ta sẽ phải trước hết chấp nhận rằng chúng ta (đă) ở đây – và chúng ta lại không ở đây!
Nhưng trên một phương diện, th́ cái đó hoàn toàn tốt. Nếu chúng ta
không ở Oregon, th́ dĩ nhiên chúng ta không ở tại Mỹ. Cái này có vẻ
như là một sự ra đời mới của một dân tộc mới. Chẳng bao lâu, chúng
ta sẽ phải làm hiến pháp của riêng ḿnh, và tuyên bố sự độc lập của
riêng ḿnh. Phải làm ǵ khác nữa ?
_________________________________
[10] Bạn đọc thấy chưa,
sự “chứng ngộ” ở một chiều kích khác. C̣n lănh vực h́nh tướng – thế
giới của thực tại tương đối – là một b́nh diện khác. Osho có một số
“sai lầm” trên b́nh diện h́nh tướng – chính ông cũng phải công nhận
đó thôi! [12] Truck farm: nông trại rau xanh. ( Từ điển Webster : A farm where vegetables are grown to be marketed) [13] Nguyên tác: “ If this is against land – use laws, then your land – use laws are bogus and should be burned…” – có vẻ như câu này của Osho muốn “đối thoại trực tiếp” với quốc hội Mỹ.
|
GIÁO HỘI & NHÀ NƯỚC Chỉ mới hôm kia, thông tin nào đó đến với tôi: vị chưởng lư của Oregon đă tuyên bố thành phố Rajneeshpuram là bất hợp pháp. Cái lư do mà ông ta đưa ra, là ở đây, tại Rajneeshpuram, tôn giáo và nhà nước bị trộn lẫn.
Bây giờ, trước hết, tôn giáo của chúng ta không dính líu ǵ tới bất cứ tôn giáo nào mà đă từng tồn tại trên trái đất. Chỉ do một sự bắt buộc về pháp lư, nên chúng ta phải tuyên bố rằng chúng ta là một tôn giáo; nếu không, bạn không thể t́m thấy một công xă phi tôn giáo như thế trên toàn bộ thế giới. Tôn giáo nào đang ở đó ? Không Thượng đế, không Chúa Thánh Thần, không Jesus Christ, không giáo hoàng, không cầu nguyện. Mọi người quá bị dính líu với cuộc sống, không ai quan tâm chút nào về cái chết. Mọi người quá dính líu với cuộc sống, ai có thời gian chứ?
Thật ra, cho dù Tử thần đến với những người của tôi, Nàng cũng sẽ phải đợi. Những người của tôi th́ quá dính líu đến việc sống, đến nỗi ngay cả Tử thần cũng sẽ phải cân nhắc (consider…) Nàng [14] (she) có thể mang đi một cách dễ dàng những ai mà đă chết từ 30, 40, hay 50 năm. Nó không phải là một vấn đề đối với Tử thần, không cần ǵ phải quan tâm; họ chỉ đơn giản phải bị mang đi. Họ đă “chết” đủ lâu trước khi “chết thực.”
Có lẽ, Tử thần quá bận rộn – phải bận rộn. Hành tinh này và 50 ngàn hành tinh khác có sự sống; và không có tôn giáo nào đă từng nói rằng, có thậm chí những cọng sự, những đại biểu của Tử thần. Tử thần ḥan ṭan cô độc (alone). Tử thần đáng thương cần một bộ máy thư lại (bureaucracy) lớn, thế mà Nàng lại đang làm toàn bộ công việc hoàn toàn một ḿnh. Cho nên, dĩ nhiên nhiều người chết khi họ gần khoảng 30 tuổi, khi con số của họ tới hạn. Tử thần có thể làm ǵ? Nàng chưa thanh toán dứt điểm những hồ sơ tồn đọng cũ, và bạn tiếp tục chết.
Nhưng với những người của tôi, Tử thần sẽ bị ngạc nhiên.
Đây là những người đang sống, quá dính líu với cuộc sống đến nỗi họ thậm chí chưa bận tâm về sự chết. Nàng sẽ suy nghĩ lần thứ hai trước khi nàng có thể mang bạn đi. Nàng có thể nghĩ, “Tốt hơn, là trước hết nên để cho tôi hoàn tất cái công việc đang tồn đọng, mà nó là vô tận. Những người này có thể được mang đi về sau; hăy để cho họ sống thêm một ít nữa.”
Đây là loại tôn giáo nào vậy? Tôi đă gọi nó là một tôn giáo phi tôn giáo. Tôi đă gọi nó là tính tôn giáo.
Ở đây không có bài giảng đạo nào. Chắc chắn những buổi nói chuyện của tôi không thể được gọi là những bài giảng đạo. Bạn có thể gọi chúng là bài “phản giảng đạo”. Họ nghĩ tôn giáo nào đang ở đó, mà nó đang can thiệp vào với nhà nước? Và nhà nước nào vậy ? Trước hết, “tôn giáo” của chúng ta không phải là một tôn giáo được định nghĩa bởi bất cứ cuốn từ điển nào trên toàn bộ thế giới. Chúng ta sẽ phải tạo ra từ điển của riêng ḿnh, những định nghĩa của riêng ḿnh.
Và “nhà nước” ǵ ở đó? Chỉ là một hội đồng thành phố, mà phải chăm sóc đường sá, vệ sinh môi trường, nhà cửa, bệnh viện. Tôn giáo sẽ can thiệp vào chuyện đường sá như thế nào? Tôi đă cố gắng nhiều, nhưng tôi không thể nghĩ ra: làm thế nào để trộn lẫn tôn giáo với đường sá? Làm thế nào để trộn lẫn tôn giáo với nhà cửa? Làm thế nào để trộn lẫn tôn giáo với bệnh viện, thuốc men, với việc chích thuốc? Người ta phải cho chúng ta một đầu mối nào đó để làm cái đó như thế nào. Bởi v́ ở đây, không có một giáo sĩ nào thậm chí đến bệnh viện của chúng ta để “làm chán tai” (bore) những bệnh nhân.
Những người đó viết trên tờ đô la của họ: “Chúng con tin cậy vào Thượng đế.” [15] Trên đồng đô la! Ai đang trộn lẫn tôn giáo với nhà nước? Người ta đang trộn lẫn tôn giáo với ngay cả đồng đô la bẩn thỉu! Trước Ṭa Án Tối Cao họ viết: “ Chúng con trông cậy vào Thượng đế.” Nếu một ngày nào đó tôi t́nh cờ ở trong Tối Cao Pháp Viện – rất có thể được, có thể tôi sẽ xoay xở việc đó – rồi th́ tôi sẽ hỏi họ, “Thượng đế ở đâu? Và dựa vào thẩm quyền nào mà quư vị đă viết câu này? Và nếu tại chính cánh cổng đă có một sự lừa dối, th́ bạn không thể yêu cầu tôi thề sẽ nói sự thật. Tốt hơn, hăy yêu cầu tôi thề chỉ nói những lời dối trá và không phải là sự thật” – bởi v́ sự dối trá lớn nhất có mặt ở đó, ngay tại cổng của Ṭa Aùn Tối Cao. Trên mọi tờ đô la, là sự dối trá lớn nhất: “Chúng con trông cậy vào Thượng đế.”
Những người này tiếp tục trộn lẫn tôn giáo trong mọi cách, nhưng họ hợp pháp. Tôi không có bất cứ cách nào để trộn lẫn tôn giáo của tôi với bất cứ cái ǵ, nó là không thể trộn lẫn được. Đây là thành phố hợp pháp duy nhất trên toàn bộ thế giới . Nếu việc trộn lẫn tôn giáo làm cho một thành phố trở thành bất hợp pháp, th́ tất cả mọi thành phố của thế giới đều là bất hợp pháp, bởi v́ khắp nơi tôn giáo đều bị trộn lẫn. Đây là nơi duy nhất mà ở đó tôn giáo không bị trộn lẫn chút nào.
Thực ra, tôn giáo không tồn tại ở đây chút nào. Sau dăm bảy kháng cáo, sau cùng tính hợp pháp của thành phố Rajneeshpuram được chấp thuận bởi Ṭa Án Tối Cao vào tháng 5/1988, sau khi Osho đă trở về Ấn gần được 2 năm.
________________________________
[14] Osho dùng “she” ( cơ ấy) để chỉ Tử thần. Dĩ nhiên, có thể dịch là “bà ấy”, “mụ ấy.” Nhưng tôi hy vọng, nếu “Nàng” xinh đẹp một chút, th́ khi gặp “Nàng”, ḿnh cũng thấy… vui vui!
[15] Trên đồng đô la Mỹ,
luôn có ḍng chữ: “ IN GOD WE TRUST” (chúng con tin cậy vào Thượng
đế). Lư luận của Osho thật là sắc bén.
|
1983. VIỆC XÉT NGHIỆM HIV TOÀN THÀNH PHỐ
Osho vẫn “tịnh khẩu” và biệt cư (seclusion), nhưng khi những bác sĩ
của ông thông báo cho ông về sự lan tràn của trận dịch AIDS, ông gợi
ư rằng, thành phố Rajneeshpuram khởi đầu (initiate) việc xét nghiệm
phổ cập cho mọi cư dân và khách viếng thăm. Ông đề nghị thêm, là
người ta nên pḥng ngừa để tránh bị nhiễm virus, bao gồm cả việc
dùng bao cao su, dùng bao tay cao su trong giai đoạn kích thích tiền
giao hợp (foreplay), dính líu đến việc tiếp xúc với những chất lỏng
cơ thể, và tránh việc hôn môi. Vào thời điểm đó, những biện pháp này
được xem như là cực đoan và thậm chí buồn cười (absurb), và khơi dậy
sự chế giễu của giới truyền thông. Những thành viên nào của cọng
đồng được phát hiện có virus HIV dương tính, sẽ được cách ly trong
một khu vực riêng, và được cung cấp công việc để làm, phương tiện
giải trí, và chăm sóc y học. Có lẽ đây là nơi duy nhất trên thế giới mà ở đó mọi dự pḥng đă được thực hiện chống lại AIDS. Sáu ngàn người đă kinh qua xét nghiệm – không có nơi nào khác đủ can đảm để đặt toàn bộ thành phố dưới sự xét nghiệm. Họ sợ rằng, có thể họ sẽ phát hiện ra những người bị nhiễm AIDS. Và những người mà cảm thấy bản thân họ có thể bị nhiễm nó, th́ cũng không đang kinh qua sự xét nghiệm, v́ lư do đơn giản: nếu họ bị phát hiện có virus dương tính, th́ ngay cả vợ, con , bố mẹ họ sẽ từ khước, bỏ rơi họ. Họ sẽ không có nơi nào để nương thân trong ngôi nhà của chính ḿnh. Họ sẽ không được phép vào bất cứ nhà hàng nào. Những bạn bè của chính họ sẽ trở thành những kẻ thù của họ.
Do vậy, họ không muốn được xét nghiệm; chính quyền không muốn điều đó, bệnh viện không muốn điều đó. Và cơn hỏa hoạn đang lan ra; không ai muốn công nhận nó, nh́n thấy nó. Đây không phải là sự thông minh. Chỉ việc nhắm mắt lại không có nghĩa là kẻ thù đă biến mất.
Chúng ta [16] đă phát hiện ra một ít người nhiễm AIDS, 2 người. Chúng ta đă dành một nơi biệt lập đẹp đẽ cho họ; cái nơi tốt nhất mà đă từng được dành cho họ. Họ có tất cả sự tôn trọng và t́nh yêu thương của chúng ta.
________________________________
[16] Đại từ nhân xưng “we” trong tiếng Anh để chỉ ngôi
thứ nhất, số nhiều. Nó có 2 nghĩa chính: 1. Chúng ta. 2. Chúng
tôi. Khi Osho nói với “đệ tử” của ông, tôi dịch là “chúng ta.”
Nếu Osho nói với những người khác, tôi dịch là “chúng tôi.”
Những văn bản trong TỰ TRUYỆN này được rút ra từ nhiều cuốn
sách của Osho, nên có nhiều lúc không rơ là ông đang nói với
ai. Tôi chỉ dựa vào suy luận để “phỏng đoán” là ông đang nói với
ai. Nếu có chỗ nào bị nhầm, xin bạn đọc điều chỉnh lại giùm.
Xin cám ơn.
|
1984. MỘT CHÚT MÙI VỊ CỦA CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT
Vào tháng 10/1984, Osho quyết định chấm dứt một giai đoạn “tịnh khẩu” và cách ly, và tiếp tục lại những buổi nói chuyện hằng ngày của ḿnh. Thật kỳ lạ, thư kư riêng của ông, Sheela, chống lại quyết định này và cố thuyết phục ông đừng nói chuyện, đưa ra những quan ngại về sức khỏe của ông. Sau cùng, người ta dàn xếp rằng, ông sẽ bắt đầu nói chuyện với những nhóm người nhỏ trong pḥng khách nhà ông.
Ban đầu, những cuộn băng video ghi lại những buổi nói chuyện của ông được chiếu cho toàn thể cọng đồng vào ngày hôm sau, trong thiền pḥng rộng lớn. Khi Sheela đề nghị rằng, những buổi chiếu này sẽ được đ́nh chỉ bởi v́ có quá nhiều việc phải làm, cọng đồng phản đối, và sau cùng một thỏa hiệp được dàn xếp, rằng những băng video có thể được chiếu vào lúc khá khuya, sau khi côngviệc của ngày đă hoàn tất.
Sau cùng, vào 14/9/1985, Sheela và một ê-kíp gắn bó gồm những người ủng hộ cô khăn gói ra đi với tất cả vật sở hữu của ḿnh, và họ đi sang Đức. Ngay khi cô ta đi, dồn dập nổi lên một loạt những bằng chứng về những hoạt động tội phạm, mà vài trong số những người theo cô đă từng can dự vào, bao gồm cả việc mưu sát (bằng cách đầu độc) y sĩ và thị giả (caretaker) của Osho, đánh bom một văn pḥng kế hoạch của quận, và đặt thiết bị nghe lén căn pḥng của Osho, những điện thoại, và văn pḥng của Osho bên trong cọng đồng.
Osho công khai hoá mọi thông tin mà ông đă nhận được, và t́nh nguyện
cọng tác đầy đủ với những điều tra viên của bang và liên bang. Những
phóng viên lũ lượt kéo đến để phỏng vấn Osho và tra vấn ông làm thế
nào mà những biến cố như thế đă có thể xảy ra.
Hỏi: Trong cuộc gặp của tôi với Sheela, người ta có thể thấy sự
thông minh của cô ta, ít ra là trong những vấn đề thực tiễn, trong
sự khéo léo của cô ta trong cách xử lư t́nh huống, nhưng cũng có thể
thấy cái khía cạnh rất “áp chế”, khía cạnh rất hèn hạ nữa. Chắc hẳn
ông đă thấy điều đó, khi tiếp xúc với cô ta hằng ngày?
Đáp: Tôi biết! Nhưng cái đó th́ được cần đến cho tất cả những chính
trị gia hèn hạ (đó) khắp mọi nơi. Tôi không thể đặt công xă vào tay
những người ngây thơ – những chính trị gia nọ có lẽ đă hủy diệt nó.
Hỏi: Nhưng ông không thấy cái mà cô ta đang làm trên chính cái trang
trại hay sao?
Đáp: Không, bởi v́ tôi không bao giờ đi ra ngoài và không bao giờ
gặp bất cứ ai …
Hỏi: Nhưng nếu ông đang tạo ra một cuộc thí nghiệm lớn như thế (như
công xă tại Oregon), th́ lẽ nào ông không nghĩ rằng, việc có ít nhất
một người khác đến nói chuyện với ông, có thể là hữu ích? Đáp: Không. Cuộc thí nghiệm không có ư nghĩa ǵ so với sự im lặng của tôi. Tôi đang dạy mọi người trở thành một cá thể và nương tựa vào cái thị kiến (insight) của riêng ḿnh. Và nếu anh ta cảm thấy rằng, anh ta đang bị cưỡng bách phải làm cái ǵ đó mà anh ta không muốn làm, th́ anh ta hoàn toàn có khả năng khản kháng chống lại nó. Không cần phải phục ṭng (submit) – và nhiều người đă bỏ đi.
Bây giờ sẽ có một bầu khí hoàn toàn khác – nhưng nh́n vào thế giới,
bất cứ cái ǵ xảy ra, mặc dù nó không tốt, th́ chỉ có những người
xấu mới có thể xoay xở nó thành công (managed it). Những người tốt
không thể.
Hỏi: Suốt năm qua, tôi đă nghĩ thầm: “ Bao giờ th́ ông ta sẽ hoặc
“truất phế” (get rid of) Sheela, hoặc xoay ngược t́nh thế?” Và có
cảm giác rằng, có lẽ ông chỉ đang để cho cô ta tự do hành động.
Đáp: Tôi sẽ chỉ làm cái ǵ đó khi tôi cảm thấy đúng thời điểm. Khi
tôi thấy rằng, thời điểm đă đến để làm cái ǵ đó, th́ tôi làm nó.
Hỏi: Làm thế nào ông biết rằng, thời điểm đă đến để làm một cái ǵ
đó?
Đáp: Khi nhóm của cô ta đầu độc y sĩ của tôi. Đó là cái thời điểm
khi tôi bắt đầu hỏi y sĩ và thị giả của tôi về những sự việc, và tôi
tuyên bố rằng, tôi dự định nói chuyện và gặp gỡ với mọi người. Rồi,
chẳng bao lâu, thông tin bắt đầu đến, và tôi khởi sự phanh phui
Sheela và nhóm của cô ta. Rồi tôi thông báo với chính phủ, cảnh sát,
FBI – tất cả họ đều có mặt ở đây, nhưng hầu như họ không làm ǵ cả.
Chúng tôi đă cho họ mọi chứng cứ – và họ tiếp tục nói, “Chúng tôi
không có chứng cứ nào vững chắc cả.” Tôi không hiểu họ muốn chứng cứ
vững chắc nào – có phải họ muốn bắt hung thủ một cách quả tang?
Hỏi: Tại sao ông đă đợi 9 tháng hay khoảng đó?
Đáp: Điều đó là cần thiết, bởi v́ cô ta đang đấu tranh chống lại quá
nhiều vụ kiện – tôi không muốn làm khuấy động những sự việc ở giữa
chừng. Tôi muốn sự thể đi tới một kết luận, mà từ đó một nhóm mới có
thể khởi sự. Và đây là thời điểm, khi nhiều vụ kiện kết thúc và
những vụ mới sẽ bắt đầu khoảng 8 tháng sau đó, cho nên những người
mới này, trong ṿng 8 tháng, sẽ hoàn toàn được chuẩn bị để kế tục.
Và họ sẽ có thể tiếp tục tranh đấu (fight) – không có vấn đề nào.
Hỏi: Ông chơi một tṛ chơi bấp bênh.
Đáp: Chắc chắn rồi! Tôi là một kẻ liều mạng. Và nó là một tṛ chơi –
tôi biết chọn thời điểm thích hợp để thổi c̣i. Tôi chỉ là một trọng
tài, không ǵ hơn.
• Từ một cuộc phỏng vấn với James Gordon, The New Yorker.
Càng ngày càng có thêm những tiết lộ về những hoạt động tội phạm của
nhóm Sheela, tạo ra một trạng thái sốc và hỗn loạn (disarray) trong
cọng đồng. Mỗi lúc người ta càng hiểu thêm về cái “ sách lược nền
tảng” (underlying) đằng sau những t́nh huống và biến cố mà trước đây
không thể giải thích được. Khi người ta bắt đầu tranh đấu với những
vấn đề trách nhiệm cá nhân và qui trách nhiệm, Osho đă phân tích
những vấn đề này với sự sắc bén ngày càng tăng trong những bài nói
hằng ngày của ông. Chúng ta đang cố sống một loại cuộc sống khác biệt với (cuộc sống của) thế giới bên ngoài. Cho nên, chỉ có hai cách: hoặc là cách của Sheela, hoặc là cách của tôi. Tôi đă chọn Sheela làm thư kư của tôi để cho bạn nếm một chút “mùi vị” của chủ nghĩa phát xít, để bạn biết nó là như thế nào. Bây giờ, hăy sống theo cách của tôi. Hăy có trách nhiệm, để không cần ai phải ra lệnh cho bạn …
Nếu bạn muốn Sheela trở lại, tôi có thể gọi cô ta và toàn bộ băng đảng của cô ta, và trao công xă cho cô ta. Nếu bạn không muốn bất cứ ai độc tài với bạn, th́ hăy nhận lấy trách nhiệm.
Và các bạn là một nhóm những người rất thông minh, nhưng đây là cái rắc rối của những người thông minh. Họ luôn sử dụng tự do một cách sai lầm.
Tôi muốn nhắc nhở bạn rằng, nước Đức là một trong những nước trí thức nhất trên thế giới. Nó đă tặng cho thế giới những người như Kant, Hegel, Feuerbach, Karl Marx, Sigmund Freud, Martin Heidegger – những triết gia vĩ đại, những nhà tâm lư học vĩ đại. Thế nhưng, một tên điên khùng (crackpot) hạng ba, Adolf Hitler, đă xoay xở thành công để lôi kéo giới trí thức của đất nước đi theo ông ta.
Và tôi không nghĩ rằng nhân loại đă học được cái ǵ từ sự kiện đó. Nếu bạn không học được, th́ lịch sử sẽ lặp lại. Nếu bạn học được, th́ bạn có thể ngăn chận lịch sử khỏi lặp lại một lần nữa.
Martin Heidegger có lẽ là một trong những triết gia có ư nghĩa nhất của thế kỷ, và ông là một người đồng thời của Adolf Hitler. Ông ủng hộ Hitler – không thể quan niệm được! Toàn bộ giới trẻ, là cái “tinh hoa” của xă hội, trí tuệ của nó, tất cả những phó viện trưởng, những giáo sư của những đại học – tất cả đều ủng hộ Hitler, một người không được giáo dục, một người bị trượt trường mỹ thuật, bị trượt trường kiến trúc, bởi v́ ông ta không có trí thông minh. Người đàn ông này đă trở thành lănh tụ của đất nước thông minh nhất trên thế giới, và ông ta đă tạo ra cái chế độ phát xít nhất. Ông ta đă giết gần 10 triệu người, và người ta vẫn cứ đang ủng hộ ông ta.
Nó phải được giải thích bằng phân tâm học. Đâu là lư do? Lư do là, nước Đức bị bại trận trong Thế chiến I. Và những trí thức có khuynh hướng “đấu đá” nhau (fight) lẫn nhau. Họ tranh căi, hợp lư hoá, triết lư hoá (philosophize); họ không phải là những người năng động về mặt thể chất. Và họ là những kẻ “vị ngă” (egoist). Họ nghĩ rằng, họ đă t́m ra bí mật của cuộc đời, mọi người trong số họ.
Sau thất bại trong Thế Chiến I, nước Đức bị rơi vào trong hỗn loạn. Những hỗn loạn đă tạo ra Hitler, bởi v́ ông ta hứa, và thực hiện lời hứa, “Tôi có thể làm cho đất nước này phục hồi sự đoàn kết và sức mạnh, quá mạnh đến mức nó có thể thống trị toàn thế giới.”
Nó là cái ǵ đó hết sức được cần đến. Người ta không đang làm việc, họ đă mất đi tính sáng tạo. Cần có một ai đó để làm cho đất nước khôi phục tính sáng tạo, kỷ cương, và Hitler lấp đầy khoảng trống đó. Trong ṿng 10 năm, nước Đức lấy lại vị thế của một cường quốc.
Thật kỳ lạ – nếu bạn cho người ta tự do, th́ họ trở nên lười biếng, và họ không muốn làm việc. Nhưng nếu bạn cho họ một trật tự phát xít, họ làm việc hết tiềm năng của ḿnh; họ sáng tạo, họ được hiệp nhất, họ trở nên mạnh mẽ. Nước Đức tiếp tục chiến thắng trong 5 năm. Cái đó chứng tỏ rằng những người Đức đă chọn đúng người – toàn thế giới ở một phe, và phe kia, một ḿnh ông ta (Hitler) là đủ.
Ông ta cho giới trí thức cái ego của họ, mà chưa ai từng cho họ trước đây. Ông ta bảo họ rằng, chủng tộc Nordic Đức là chủng tộc Aryan thuần túy nhất, và vận mệnh (destiny) của nó là thống trị thế giới, bởi v́ tất cả những chủng tộc khác đều là hạ nhân. Điều đó là hết sức phấn khích (gratifying.) Cái ego trí thức rất được thỏa măn, và ngay cả một người như Martin Heidegger [17] cũng rơi vào trong cái bẫy.
Chỉ sau khi Hitler bị đánh bại và nước Đức hầu như bị hủy diệt (destroyed), th́ người ta mới bắt đầu nh́n vào cái mà họ đă làm, loại người nào mà họ đă và đang ủng hộ: một quái vật, một kẻ sát nhân mà đă giết hằng triệu người – có lẽ là kẻ sát nhân vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử.
Cho nên, hăy nhớ một điều: tự do không phải là một tấm môn bài (license). Tự do là trách nhiệm. Và nếu bạn không thể tự ḿnh nhận lấy trách nhiệm của bạn, th́ ai đó sẽ chịu trách nhiệm thay bạn. Và rồi, bạn bị nô lệ hoá.
Người ta đă và đang hỏi tôi, làm thế nào mà, năm ngàn người, hầu như tất cả đều là những người tốt nghiệp đại học, có chuyên môn tốt nhất từ những trường đại học tốt nhất của thế giới, mà suốt bốn năm lại không thể thấy cái ǵ đang xảy ra.
Lư do là, Sheela không chỉ đang làm cái ǵ đó xấu xa và phát xít, mà cô ta c̣n đang tạo ra công xă. Cô ta cũng đang làm cho sa mạc trở thành một ốc đảo (oasis). Cô ta đang làm cho công xă trở nên tiện nghi trong mọi cách. Mọi đồng xu đều có hai mặt, nhưng bạn chỉ nh́n cái mặt sáng. Và bạn bị vây quanh bởi sự thù nghịch tại Oregon, là cái mà Sheela và nhóm cô ta đă tạo ra. Cái đó là một sách lược chính trị đơn giản.
Adolf Hitler, trong tự truyện của ông, Mein Kampf (cuộc chiến đấu của tơi), nói rằng, nếu bạn muốn cho một dân tộc trở nên mạnh mẽ, th́ hăy tạo ra những kẻ thù khắp xung quanh nó; nếu không, người ta (sẽ) thư giăn. Hăy liên tục giữ họ trong sợ hăi, sợ rằng có nguy hiểm khắp xung quanh. Và Sheela đă tạo ra cái đó. Cô ta đă tạo ra sự thù nghịch của chính quyền Oregon. Cô ta tạo ra sự thù nghịch của những người Mỹ nói chung. Cái đó làm cho bạn đến gần nhau hơn, trở nên mạnh mẽ : “Hăy sẵn sàng, để không ai có thể hăm hại bạn.”
Do vậy, nếu bạn không nắm lấy trách nhiệm, cái ǵ đó như thế bắt
buộc phải lại xảy ra. Lịch sử chắc chắn sẽ lặp lại, bởi v́ con người
không chịu học tập.
_______________________________
[17] Có thể đây chỉ là ư kiến của một số người – trong đó có Osho. H́nh như đang có nhiều tranh căi xung quanh vấn đề này. Nhưng, nếu quả thật M.H bị “mắc bẫy”, th́ thật là đáng buồn – v́ ông đuợc xem là một trong những triết gia vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Đáng buồn, v́ nó chứng minh một “chân lư cay đắng”: kẻ thông minh, minh triết nhất, có khi cũng bị một tên điên khùng và ngu dốt “xỏ mũi” !
|
BẮT GIỮ
Osho đă hứa cọng tác với những viên chức thi hành pháp luật để điều tra một cách đầy đủ những tội phạm của Sheela, nhưng thay vào đó, những điều tra viên lại xoay hướng phần lớn sự chú ư của họ về phía khác: t́m ra những lư do để truy tố Osho và những cư dân c̣n lại của “thành phố Rajneeshpuram.” Có những lời đồn đại dai dẳng về một cuộc truy tố lớn sắp tới, cáo buộc Osho và dăm bảy sannyasins về tội vi phạm luật nhập cư. Nhưng những nỗ lực của luật sư của Osho - để thương thảo một sự “đầu hàng” ḥa b́nh (peaceful surrender) – đă bị Chưởng lư Mỹ Charles Turner bác bỏ, với lư do rằng có một cuộc thảo luận như vậy là “quá sớm.”
Trong khi chờ đợi, đội Vệ Binh Quốc Gia (National Guard) được huy động vào vị trí cho một cuộc xâm lăng “thành phố” Rajneeshpuram. Quan ngại rằng họ có ư định tiến hành một cuộc càn quét vũ trang nhắm vào cọng đồng, người của Osho quyết định đưa Osho băng qua nước Mỹ - bằng máy bay - đến Charlotte, North Carolina. Ở đó, người ta lư luận, ông có thể tránh xa khỏi sự hăm hại trong khi những luật sư của ông tiếp tục cố làm sáng tỏ t́nh huống. Khi Osho và “bộ tham mưu” của ông đáp xuống Charlotte, họ được “chào đón” bởi những nhân viên hải quan và những cảnh sát trưởng liên bang Mỹ ( U.S marshals), được vũ trang tận răng, những người này đă được lệnh chờ đợi những kẻ khủng bố nguy hiểm. Không có án lệnh (warrant) nào, những viên chức này chỉ đọc lên một danh sách những kẻ bị t́nh nghi mà đă được fax cho họ từ Oregon. Không ai trong những người này có mặt trên máy bay; tuy vậy, tất cả đều bị bắt giữ cùng với Osho, và bị đưa tới những xà lim của ṭa nhà liên bang tại Charlotte.
Trong một phiên ṭa (hearing) [18] bắt đầu ba ngày sau đó, những sannyasin hộ tống Osho được phóng thích, nhưng vị thẩm phán ra lệnh phải đưa Osho trở về Oregon cho một phiên ṭa riêng biệt, để nộp tiền bảo lănh tại ngọai. Nhà chức trách nhấn mạnh rằng, ông sẽ được đưa đi trên một máy bay chở tù nhân, chứ không phải là trên một máy bay thương mại, hay một chiếc phản lực tư nhân. Máy bay chở tù nhân phải mất 6 ngày để hoàn tất chuyến đi băng qua đất nước, và suốt trong những ngày đó, chính quyền từ chối tiết lộ nơi có mặt của Osho, ngay cả với những luật sư của ông. Sau cùng, người ta được biết rằng, trong suốt thời gian này, ông đang bị giữ trong một nhà tù tại Oklahoma, dưới một cái tên giả, viện cớ là để bảo vệ cho ông.
Sau cùng, Osho được phóng thích sau khi nộp tiền bảo lănh tại Oregon, bị cáo buộc về tội vi phạm một loạt những luật nhập cư : tham gia vào việc sắp xếp những cuộc hôn nhân giữa những đệ tử của ông, và “man khai” (misstated) ư định của ḿnh trên đơn xin cấp visa du lịch gốc. Sau những cuộc điều đ́nh với những quan chức Oregon, những luật sư của Osho vẫn rất quan ngại cho sự an toàn của ông, nếu vụ kiện cứ tiếp tục. Một cách miễn cưỡng, Osho đồng ư “không tranh tụng” (no contest) trước 2 trong số 34 cáo buộc chống lại ông và (đồng ư) rời nước Mỹ.
Sức khỏe của ông sút giảm một cách kịch tính như là hậu quả của việc
bị giam tù, mặc dù hơn 2 năm sau, những bác sĩ của ông mới bắt đầu
nghi ngờ rằng, Osho bị đầu độc trong khi ông ở trong nhà tù của
chính phủ Mỹ. Khi họ trục xuất tôi, Chưởng lư Mỹ Charles Turner thừa nhận trong một cuộc họp báo, rằng tôi đă không phạm bất cứ tội danh nào. Cái lư do mà ông đưa ra cho việc trục xuất tôi, là: “Chúng tôi muốn hủy diệt cái công xă. Đó là quyền ưu tiên của chúng tôi.” Và nếu không trục xuất tôi, th́ không thể nào hủy diệt được cái công xă.
Họ bắt giam tôi mà không có lệnh bắt giữ nào và không cho tôi thấy lư do tại sao bắt giữ tôi. Chỉ có một mảnh giấy mà trên đó có một ít cái tên – “ Chúng tôi được lệnh phải bắt giữ những người này ngay lập tức.”
Tôi nói, “ Nhưng mà các ông nên nh́n vào passport của tôi! Tên của tôi không có trên tờ giấy này; 6 người đi cùng tôi cũng không có tên trên tờ giấy này. Các ông hoàn toàn vô lư. Hăy nh́n vào passport của chúng tôi và so sánh với những cái tên của các ông; các ông đang bắt giữ nhầm người.” Thế nhưng, chúng tôi đều bị bắt giữ.
Thực ra, họ đă không có bằng chứng nào để bắt giữ tôi. Nhưng trong 12 ngày, họ không cho tôi được bảo lănh tại ngoại. Họ bắt giữ tôi tại North Carolina, và chuyến bay từ North Carolina tới Oregon, nơi mà công xă tọa lạc, chỉ mất 5 tiếng đồng hồ. Nhưng phải mất 12 ngày tôi mới đến được Portland, và họ lôi xệch tôi từ nhà tù này sang nhà tù khác; trong 12 ngày, tôi bị lôi tới 6 nhà tù.
Chỉ về sau tôi mới biết chuyện đó, khi những chuyên gia về hiện tượng đầu độc của Anh quốc xem xét kỹ những triệu chứng và đưa ra nhận định, rằng tôi đă được cho uống một loại độc dược nào đó, thallium. Nó không được phát hiện hoặc từ máu hay nước tiểu; nó chỉ đơn giản biến mất. Tôi đă có tất cả mọi triệu chứng – khi chất độc biến đi, nó để lại những loại bệnh nhất định nơi cơ thể. Loại độc dược này đă được dùng chống lại những tù nhân chính trị. Nhưng nếu bạn cho đương sự uống một liều lượng lớn, th́ y sẽ chết ngay lập tức. Đó là lư do tại sao họ muốn 12 ngày, để mỗi ngày cho tôi uống một liều lượng nhỏ, để tôi sẽ không chết trong nhà tù của họ – nếu tôi chết, họ sẽ bị toàn thế giới lên án.
Và khi họ phóng thích tôi, tôi được ra lệnh rời nước Mỹ ngay lập tức, trong ṿng 15 phút. Xe hơi của tôi đậu sẵn trước ṭa án, và phi cơ phản lực của tôi đă nổ máy sẵn sàng tại phi trường; tôi phải rời ngay lập tức. Họ sợ rằng, nếu tôi lưu lại thêm một ngày nữa, tôi có thể kháng cáo lên Ṭa Án Tối Cao. Và có mọi lư do cho tôi thắng kiện, bởi v́ tôi không phạm bất cứ tội danh nào trong số những cáo buộc của họ… 34 tội danh chống lại một người đàn ông “tịnh khẩu”, chưa bao giờ ra khỏi ngôi nhà của ḿnh. Làm thế nào anh ta có thể phạm 34 tội danh chứ? Và họ không có chứng cớ nào về bất cứ tội danh nào.
Khi tôi thấy dân chủ kiểu Mỹ vận hành …[19] thật là hoàn toàn vớ vẩn để nói về dân chủ. Hiến pháp của họ chỉ là một màn tŕnh diễn cho thế giới. Đất nước (đó) gồm có những tên tội phạm đang nói về tự do.
_____________________________________
[18] Hearing: Phiên ṭa để nghe các nhân chứng.
[19] Chúng ta thấy,
Osho cũng “đả kích” Mỹ không kém ai! Osho vậy, ông không theo
“phe phái” nào cả. Cái ǵ “phi nhân bản”, là ông chống! Tính
“nhân bản” của ông nằm ở chỗ đó.
|
1985 – 1986: CHUYẾN DU HÀNH
V̉NG QUANH THẾ GIỚI. KULU MANALI
Vào 14/11/1985, ngay sau phiên ṭa của ông, Osho bay từ sân bay
Portland tới Delhi – đi qua Cyprus. Ông đáp xuống vào 17 /11 và được
chào đón bởi hằng ngàn những sannyasin Ấn độ. Tại đó, ông mở một
cuộc họp báo, và đi tiếp tới Kulu Manali, nơi ông xếp thời biểu cho
những buổi phỏng vấn đều đặn với báo giới bắt đầu từ 19/11. Những
sannyasin của ông, trong khi chờ đợi, bắt đầu t́m kiếm một nơi để
ông có thể tái định cư và tiếp tục công tŕnh của ḿnh. Chính phủ Ấn
từ chối gia hạn visa cho thị giả của Osho, y sĩ của ông, và “bộ tham
mưu” của ông, đe doạ tịch thu passport của ông, trừ khi ông ngừng mở
những cuộc phỏng vấn cho báo giới và gặp gỡ với những đệ tử của ḿnh.
Vào tháng 1/1986, ông bay tới Kathmandu tại Nepal. Vua của Nepal sẵn sàng cho tôi và công xă của tôi cư trú ở đó, nhưng với điều kiện là, tôi không nên nói chống lại Hindu giáo. Nepal là một vương quốc Hindu giáo, vương quốc Hindu giáo duy nhất trên thế giới.
Tôi từ chối. Tôi nói, “Tôi không bao giờ lập kế hoạch là phải nói
ǵ và không nói ǵ. Tôi không thể hứa. Và nếu tôi thấy bất cứ cái ǵ
sai trái, th́ tôi nói chống lại nó, bất kể nó thuộc về Hindu giáo,
Kytô giáo, hay Hồi giáo.”
Vào 21/1, Osho thông báo: Tôi sắp làm một chuyến du hành ṿng quanh thế giới – bởi v́ tôi không tin vào những biên giới chính trị, và tôi quan niệm toàn bộ trái đất như là của tôi. Và tôi có người của tôi khắp thế giới, nhiều người trong số họ tôi chưa gặp trong nhiều năm – những người của tôi mà đă đi bước đi thứ nhất; họ đă tự chia cách ḿnh khỏi đám đông. Họ không c̣n là những người Kytô giáo, không c̣n là những người Do thái (giáo), không c̣n là những người Hindu giáo. Họ đă làm một công tŕnh vĩ đại, một cái ǵ đó hiếm hoi, một cái ǵ đó độc nhất vô nhị mà trước đó chưa bao giờ được làm bởi một số lượng người to lớn như thế.
Bây giờ, chỉ có hai cách: hoặc là họ sẽ đến với tôi, hoặc là tôi sẽ đến với họ. Cách thứ hai ngày càng khó khăn do lăi suất đầu tư. Thêm vào đó, người ta muốn cô lập tôi khỏi những người của tôi – họ đă bắt đầu làm cái đó. Nhưng tôi có cách của riêng tôi để ứng phó với cái sách lược phát xít của họ. Thay v́ kêu gọi người đến với tôi, tôi sẽ đi tới những người của ḿnh.
Ba chính phủ đă mời tôi, mặc dù họ biết một rất rơ rằng, nước Mỹ chống lại tôi và gây áp lực không cho tôi vào bất cứ nước nào. Ba chính phủ đă đủ dũng cảm – và những nước đó không giàu, đó là những nước nghèo, những nước Nam Mỹ. Nhưng họ muốn cho nước Mỹ thấy, “Quư vị không có độc quyền thống trị thế giới.”
Do vậy, việc đi ṿng quanh thế giới sẽ giúp chúng tôi t́m thấy ai là một người bạn và ai không phải bạn. Và kinh nghiệm của riêng tôi là, một người bạn của chúng tôi th́ tương đương với (equal to) 100 kẻ thù … bởi v́ họ (những kẻ thù) không có bất cứ cái ǵ ngoài những ư tưởng cũ kỹ, ră nát, lỗi thời. Chỉ cần một cú đẩy nhẹ thôi, là họ sẽ ră từng mảnh.
Họ đang chiến đấu cho những cái đă chết (the dead).
Chúng ta đang chiến đấu cho những cái chưa ra đời (the unborn).
Và cái quyết định của sự tồn tại (existence) luôn luôn đứng về phía
sự sống.
CRETE
Vào 16/1, Osho bay tới Hy Lạp với một visa du lịch 4 tuần và lưu lại
trong một villa trên đảo Crete. Ba ngày sau đó, ông bắt đầu tổ chức
những buổi nói chuyện ngoài trời trong khuông viên của villa, dưới
một cây to, cành lá sum suê. Trong nhiều ngày, nhiều trong số những
sannyasin của ông bắt đầu đến từ những nước Âu châu kế cận. Vị giám
mục Chính Thống Hy Lạp địa phương, trong những bài giảng trước công
đồng của ông, phê phán Osho; ông ta phân phát một cuốn sách nhỏ, cáo
buộc Osho về tội làm suy đồi đạo đức của giới trẻ, và đe doạ tổ chức
một cuộc diễu hành tới villa để phản đối. Vào 5/3, cảnh sát đến
trong khi Osho đang ngủ trưa, bắt giữ ông và trục xuất ông. Khi bí
thư pháp lư (legal secretary) của Osho yêu cầu họ cho xem trát đ̣i
(warrant), th́ cảnh sát bắt giữ cô và tiến hành phá sập những cửa
lớn và cửa sổ để xâm nhập vào nhà và bắt Osho giam tù. TRÊN ĐƯỜNG TỚI URUGUAY, THỤY SĨ, THỤY ĐIỂN, LONDON, IRELAND,
TÂY BAN
NHA, SENEGAL. Từ Hy Lạp, chúng tôi di chuyển tới Geneva, chỉ để nghỉ ngơi qua đêm, và ngay khi họ biết tên tôi, họ nói, “Đừng ḥng ! Chúng tôi không thể cho phép ông ta vào nước chúng tôi.”
Tôi không được phép thậm chí ra khỏi máy bay.
Chúng tôi di chuyển tới Thụy điển, nghĩ rằng (như thiên hạ đồn đại ) Thụy điển th́ cấp tiến hơn nhiều, so với bất cứ nước nào tại châu Âu hay trên thế giới; rằng Thụy điển đă và đang cung cấp nơi tỵ nạn cho nhiều tên khủng bố, những nhà cách mạng, những chính trị gia bị trục xuất, rằng nó rất hào phóng.
Chúng tôi đến Thụy điển. Chúng tôi muốn lưu lại qua đêm bởi v́ những phi công đă hết thời hạn bay. Họ không c̣n có thể tiếp tục nữa; nếu bay tiếp, th́ sẽ trở nên bất hợp pháp. Và chúng tôi vui sướng bởi v́ chúng tôi chỉ xin lưu lại qua đêm, nhưng mà người đàn ông tại phi trường cấp những visa 7 ngày cho mọi người. Nhưng ngay lập tức cảnh sát đến và hủy bỏ những visa đó và bảo chúng tôi rời. “Người đàn ông này, chúng tôi không thể cho phép vào nước tôi.”
Họ có thể cho phép những tên khủng bố, họ có thể cho phép những tên sát nhân, họ có thể cho phép bọn Mafia và họ có thể cho chúng tỵ nạn – nhưng họ không thể cho phép tôi. Và tôi th́ không đang xin tỵ nạn hay cư trú vĩnh viễn, chỉ xin lưu lại qua đêm.
Chúng tôi xoay hướng sang London, bởi v́ đơn giản đó là cái quyền cơ bản của chúng tôi. Và chúng tôi làm cho sự việc hợp pháp tới hai lần – chúng tôi đă mua những tấm vé hạng nhất cho ngày hôm sau. Phi cơ phản lực của chúng tôi đă ở đó, nhưng chúng tôi vẫn mua vé trong trường hợp họ nói : “Quư vị không có vé cho ngày mai, nên chúng tôi sẽ không cho phép quư vị lưu lại trong cái pḥng đợi hạng nhất.”
Chúng tôi đă mua những vé hạng nhất cho mọi người chỉ để có thể lưu lại trong pḥng đợi, và chúng tôi bảo họ : “Chúng tôi có máy bay riêng, và chúng tôi cũng có những tấm vé.” Nhưng họ áp dụng một luật địa phương (bylaw) của phi trường, mà không ai có thể can thiệp vào : “Đó là cái quyền tự do riêng của chúng tôi – và người đàn ông này, chúng tôi sẽ không cho phép ông ta vào trong pḥng đợi.”
Tôi tự hỏi, “Làm thế nào tôi có thể phá hủy cái nền đạo đức
(morality) của họ, tôn giáo của họ, bằng cách chỉ lưu lại trong
pḥng đợi? Trước hết, tôi sẽ ngủ, và vào buổi sáng, chúng tôi sẽ đi
khỏi đó.” Nhưng không, những nước mệnh danh là văn minh này th́ cực
kỳ bán khai và man rợ (barbarous). Họ nói, “Tất cả những ǵ mà
chúng tôi có thể làm, là, chúng tôi có thể đưa quư vị vào trong tù
để qua đêm.” Tại Ireland, chúng tôi chỉ đơn giản muốn lưu lại một ngày để cho các phi công nghỉ ngơi – nhưng người đàn ông tại phi trường đă cho chúng tôi 7 ngày. Ông không bận tâm chúng tôi là ai, và mục đích là ǵ. Chắc hẳn là ông ta đă say xỉn rồi ! Chúng tôi đến một khách sạn, và vào buổi sáng, cảnh sát đến, yêu cầu cho xem passport, và hủy bỏ 7 ngày này.
Chúng tôi nói, “Các ông đă cho chúng tôi 7 ngày và bây giờ các ông hủy bỏ chúng mà không đưa ra lư do nào. Không ai trong số người của chúng tôi ra khỏi khách sạn; họ chưa phạm một tội danh nào. Các ông không thể làm như thế.”
Họ bị kẹt trong một t́nh trạng tiến thoái lưỡng nan. Họ đă cho chúng tôi 7 ngày; bây giờ họ đă hủy bỏ chúng mà không thể đưa ra lư do tại sao. Cho nên họ nói, “Các ông có thể lưu lại bao lâu tùy ư, nhưng đừng ra khỏi khách sạn.”
Chúng tôi đă lưu lại ở đó 15 ngày bởi v́ chúng tôi cần một ít thời gian. Những người của chúng tôi đang làm việc tại Tây Ban Nha, và chính phủ Tây Ban Nha sẵn ḷng cho chúng tôi cư trú vĩnh viễn. Cho nên chúng tôi chỉ cần thời gian: nếu Tây Ban Nha sẵn sàng, chúng tôi có thể di chuyển từ Ireland đến Tây Ban Nha. Chúng tôi lưu lại Ireland 15 ngày mà không có visa nào cả.
Và cái ngày chúng tôi rời Ireland, một bộ trưởng (minister) thông báo với những dân biểu quốc hội, rằng chúng tôi chưa bao giờ có mặt tại Ireland. Những người có văn hoá, những người được giáo dục – thế mà họ nói dối một cách trắng trợn, nói rằng tôi chưa bao giờ có mặt tại Ireland! Và ông ta biết, chính phủ ông ta biết, ông cảnh sát trưởng (chief of police) biết.
Tôi đang nghĩ rằng, một khi tôi đă ổn định tại một nơi nào đó, th́
tôi sẽ khởi sự… lần lượt, mỗi nước phải được lôi xệch vào ṭa án về
những lời dối trá của họ, về việc họ gọi tôi là “nguy hiểm,” về việc
nói “vâng” và rồi từ chối sau một tiếng đồng hồ. Tôi định sẽ phanh
phui nó trước thế giới, để mọi người hiểu một điều đơn giản, rằng
không có dân chủ ở bất cứ nơi đâu.
Vào 14/3, Osho và đoàn tùy tùng của ông được hứa cấp visa tới Tây
Ban Nha, nhưng 3 ngày sau, họ bị từ chối, dựa trên những hồ sơ được
cung cấp bởi chính phủ Mỹ và chính phủ Đức. Vào 18/3, phi cơ riêng
của Osho đáp xuống Madrid, và được vây quanh bởi Đội Pḥng Vệ Dân Sự
(Guardia Civil) trong khi ṭa lănh sự Uruguay đóng dấu những visa
nhập cảnh Uruguay trong những passport của Osho và những tùy tùng
của ông. Chỗ dừng kế tiếp là tại Dacca, Senegal, để lưu lại qua đêm
trong một khách sạn trước khi tiếp tục bay tới Uruguay. Vào cùng
ngày, nghị viện Âu châu thảo luận một nghị quyết để ngăn cản không
cho Osho vào bất cứ nước nào trong khối Thịnh Vượng Chung Châu
Âu. Bạn sẽ ngạc nhiên : tôi đang được đưa ra thảo luận trong những nghị viện của những nước mà tôi chưa bao giờ đến, ngay cả trong những nước mà tại đó không có một sannyasin riêng lẻ nào tồn tại, như thể tôi là vấn đề thế giới lớn nhất với họ. Họ đang đối mặt với một cuộc chiếc tranh hạt nhân thứ ba, nhưng mối lo lắng của họ là về tôi!
Thật có ư nghĩa, là họ đă nhận thức rằng, nếu tôi được phép tiếp tục
rao giảng, th́ những xă hội thối nát của họ sẽ bắt đầu sụp đổ. Và
tôi dự định tiếp tục, bất kể cái ǵ xảy ra; họ không thể ngăn cản
tôi. Tôi sẽ t́m ra những cách của ḿnh. Và bây giờ hơn bao giờ cả,
tôi sắp mài sắc luận cứ của tôi chống lại họ và phanh phui mọi chính
phủ mà đă và đang ngăn cản tôi tới được những người của riêng tôi. URUGUAY
Vào 12/4, Osho định cư trong một ngôi nhà rộng gần biển tại Punta
del Este, Uruguay. Ông tiếp tục lại những cuộc nói chuyện hằng ngày
của ḿnh trong một bối cảnh (setting) thâm t́nh, cho một nhóm 20 –
30 người. Vào thời gian này, ông bắt đầu nói về cái “thị kiến” của
ông về cái giai đoạn kế tiếp của công tŕnh của ông. Cái giai đoạn mới của tôi là (mở) một trường học (school) huyền bí. Bạn có thể làm việc trong thế gian, nơi mà những con đường đă có ở đó, những ngôi nhà đă có mặt ở đó, bạn không cần phải làm ra chúng. Những nhà máy đă có mặt ở đó … trong hằng ngàn năm, thế giới đă tạo ra mọi cái đó. Cho nên bạn có thể xoay xở – 5 giờ một ngày, 5 ngày một tuần là đủ. Vào kỳ nghỉ cuối tuần, bạn có thể thiền định, bạn có thể đi vào trong sự im lặng, hay bạn có thể đi tới một địa điểm biệt lập nào đó và chỉ thư giăn. Và trong một năm, bạn có khả năng kiếm quá nhiều tiền, để dành quá nhiều tiền, đến mức bạn có thể đến đây 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng… lưu lại bao lâu, là tùy khả năng xoay xở của bạn.
Rồi th́ việc ở cùng tôi, tôi không dính líu ǵ tới công việc. Rồi th́
có mặt với tôi chỉ đơn giản là niềm vui, lễ hội, thiền định, ca hát,
nhảy múa. Ba tháng đó chỉ đơn thuần là một kỳ nghỉ. Trong ba tháng,
bạn quên đi thế giới. Ba tháng đó thuần túy là cuộc t́m kiếm chân lư.
Và sau ba tháng, bất cứ cái ǵ mà bạn học được, hăy tiếp tục nó tại
nhà; ở đó bạn có thời gian. 5 giờ bạn làm việc – bạn có đủ thời gian;
bạn có thể dành riêng ít nhất 2 giờ cho chính bạn.
Nhưng cả hai công xă của chúng ta đă giúp mang chúng ta tới cái điểm nơi mà chúng ta có thể khởi đầu một trường học huyền bí. Nếu không có hai công xă đó, th́ cái này sẽ là bất khả. Đây là cách mà tôi nh́n những sự việc. Ngay cả những thất bại cũng sẽ mang bạn tới gần thành công hơn, bởi v́ mỗi thất bại cho bạn thị kiến (insight) về cái ǵ là sai đường, nó đi sai như thế nào. Cho nên cả hai cuộc thí nghiệm của chúng ta đều vô cùng có ư nghĩa.
Bây giờ chúng ta đang ở trong một “tư thế” (position) có thể tạo ra
một loại nơi chốn hoàn toàn khác, một nơi thuần túy là một lễ hội
quanh năm. Người ta sẽ đến và đi. Họ sẽ nhận lấy bất cứ cái ǵ mà họ
học được và họ sẽ thực tập nó trong thế giới, và họ sẽ lại đến để
làm mới lại, để làm tươi mát lại (refresh) chính ḿnh, để đi xa hơn,
sâu hơn. Chỉ một nhóm “tác viên ṇng cốt” (skeleton crew) sẽ có mặt
ở đó để chăm sóc bạn.
Ban đầu, chính phủ Uruguay đă cấp một giấy phép cư trú 1 năm cho
Osho, với ư định sẽ gia hạn nó tới 3 năm và sau cùng cấp cho ông
quốc tịch. Vào đầu tháng 6, tuy nhiên, chính phủ bị áp lực từ người
Mỹ, không cho phép Osho định cư. Vào giữa tháng 6, chính phủ Mỹ gởi
một tối hậu thư đến tổng thống Uruguay: trục xuất Osho khỏi nước,
hoặc có nguy cơ bị mất viện trợ hằng tỷ đô la Mỹ. Một cách miễn
cưỡng, ông ta tuân phục. Vào 19/6, 1986, Osho bay từ Uruguay tới Jamaica, nơi mà ông có một visa hai tuần, nhưng sáng hôm sau cảnh sát ra lệnh buộc ông phải rời vào chiều tối hôm đó. Vào 20/6, ông bay tới Lisbon, Bồ đào nha, nơi mà ông âm thầm lưu lại trong một villa thuê, trong vài tuần. Cảnh sát bao vây villa của ông, và ngày 30/7, ông bay tới Bombay.
Tổng thống của Uruguay nói : “ Thật không may là tôi phải làm điều đó. Tôi đang làm điều đó trái với lương tâm của riêng tôi.”
Những người Mỹ [20] th́ thậm chí không chịu để cho tôi rời Uruguay một cách b́nh thường. Họ muốn có một lệnh trục xuất. Phi cơ của tôi đang chờ tại phi trường … Tôi nói, “Không có vấn đề ǵ. Tôi có thể rời đất nước này. Tôi sẽ không đặt nước ông vào trong một nguy cơ như thế.”
Ông nói, “ Tổng thống Mỹ cương quyết rằng ông phải bị trục xuất; ông phải rời Uruguay trong diện bị trục xuất. Tôi bị cưỡng bách phải phạm những tội danh : trước hết, bảo ông rời đất nước mà không có lư do nào; ông đă không làm ǵ cả. Thứ hai, trục xuất ông. Nhưng tôi hoàn toàn bất lực. Tuy nhiên, tôi muốn một điều: (rằng) trên passport của ông sẽ không có những con dấu của việc trục xuất từ Uruguay. Chúng tôi có một phi trường nhỏ – do vậy, hăy di chuyển máy bay của ông tới phi trường đó, và vào buổi chiều tối hăy rời bỏ mà không thông báo cho chúng tôi, để chúng tôi có thể nói, ‘Ông ta đi mà không thông báo cho chúng tôi. Không có thời gian để trục xuất ông ta.’”
Nhưng ông ta đă nhầm. Khi phi cơ của chúng tôi di chuyển tới cái phi trường nhỏ, một đại điện người Mỹ đă có mặt ở đó với tất cả những con dấu và một viên chức mà công việc của ông ta là trục xuất … Tôi bị tŕ hơan ở đó, bởi v́ họ phải điền vào tất cả những biểu mẫu, và khi tôi rời đất nước, tôi nói, : “Không có vấn đề ǵ. Thật ra, passport của tôi đă trở thành một văn kiện lịch sử! Tôi đă bị trục xuất từ quá nhiều nước mà không có lư do nào cả.”
Khi tôi rời Uruguay, vị tổng thống của Uruguay được mời đến Mỹ ngay
lập tức, và Ronald Reagan cho ông ta 36 triệu đô la Mỹ như là “một
cử chỉ của t́nh hữu nghị.” Cái đó là một phần thưởng bởi v́ tôi bị
ném ra ngoài trong ṿng 36 tiếng đồng hồ: đúng chính xác 36 triệu đô
la Mỹ, một triệu đô la mỗi giờ. Đúng ra, tôi nên khởi sự đ̣i những
chính phủ này trả phần trăm tiền huê hồng! Quư vị đang kiếm được
hằng tỷ đô la Mỹ nhờ tôi – quư vị nên trả cho tôi ít nhất là 2% mới
phải ! _____________________________________
[20] Bạn đọc đă biết, không phải “Mỹ” lúc nào cũng … “đẹp” ! Phải công nhận, “Mỹ” có nhiều cái “rất xấu”! Nhưng, nói như vậy, không có nghĩa là họ không có nhiều cái … thực sự “đẹp” ! “Tuyệt vời” là đằng khác ! Cái ǵ của họ “đẹp”, th́ ta phải “học” thôi, không thể … “chày cối” được!
|
1987: “ PUNE 2 ”
Sau khi trải qua 5 tháng tại Bombay và tái tục thời biểu cho các
cuộc nói chuyện của ông trong nhà của một trong số những đệ tử của
ḿnh, vào 30/12/1986, Osho trở lại công xă tại Pune, mà đă được duy
tŕ bởi những sannyasin Ấn độ trong thời gian 5 năm ông vắng mặt.
Khi lần đầu tiên ông đến, những quan chức chính phủ địa phương và
một tổ chức cầm đầu bởi nhà Chính thống giáo Hindu, Vilas Tupe, (xem
âm mưu vụ mưu sát ở trang … ) dàn dựng (stage) một số những hành
động thù địch chống lại Osho và công xă. Sau một vài tháng, tuy
nhiên – với sự ủng hộ của Dhole Patil, vị Thị trưởng của Pune, và
với sự giúp đỡ của những người bạn trong chính phủ và cơ quan tư
pháp (judiciary) Ấn – công xă được phép hoạt động ít nhiều b́nh
thường, tương đối có ít những vụ can thiệp và sách nhiễu lộ liễu.
Chỉ mới hôm qua, tôi nhận được một lá thư khác từ thị trưởng của
Pune:
Với ḷng yêu mến và niềm hân hoan (pleasure) sâu xa nhất, tôi mong
ước được phát biểu rằng, Osho, hiện đang cư trú tại 17, Koregaon
Park, Pune, trong khu vực bầu cử của tôi (my home constituency),
không nghi ngờ ǵ nữa, là một người chứng ngộ. Những quan điểm đầy
thẩm quyền của ông về tôn giáo, là hết sức cần thiết trong thời buổi
hỗn loạn này. Ông là một trong những nhà huyền môn uyên thâm, vĩ đại
nhất, và là một đạo sư tâm linh của thời đại chúng ta. Phẩm hạnh
(conduct) của ông và cách cư xử đầy yêu thương (loving behavior) của
ông không thể và chưa bao giờ tạo ra bất cứ vấn đề pháp lư nào, ông
cũng chưa bị phát hiện là có tội trong bất cứ điều khoản nào của
luật h́nh sự. Thật vậy, những lời dạy của ông góp phần tạo ra một
bầu khí rất ḥa b́nh và thanh thản (tranquill) trong hoàn cảnh hiện
tại, khi mà nh́n chung, đất nước đang trải qua một t́nh trạng rất
hỗn loạn.
Vào cuối năm 1987, ngày nào cũng có hằng ngàn sannyasin và khách
viếng thăm kéo đến công xă. Osho tiếp tục chịu đựng (suffer) những
giai đoạn bệnh hoạn, bị hành hạ bởi những cơn đau trong xương và
khớp; thị lực có vấn đề, nhạy cảm với ánh sáng; ăn không ngon; và
bệnh nhiễm trùng tai tái phát. Thường khi, suốt nhiều ngày và nhiều
tuần liên tục, ông không thể xuất hiện cho những cuộc nói chuyện
hằng ngày của ḿnh. Và trong những bài nói của ḿnh, ông thường hay
nói đến sự kiện rằng ông sẽ không thể tồn tại vĩnh viễn về mặt thể
xác, và thúc giục thính giả của ông đưa thiền định lên thành ưu tiên
hàng đầu. Vào tháng 3, ông bắt đầu “bài-tập ngừng” (stop exercise)
khi ông bước vào và rời thiền pḥng, nơi mà ông chỉ đạo hội chúng
nhảy múa với âm nhạc cuồng loạn và rồi đột nhiên ngừng lại một vài
khoảnh khắc trước khi tiếp tục nhảy múa. Tôi đang cố đưa bạn trở về nhà. Bạn đă đi quá xa, lang thang chạy theo những cái phù du, lang thang chạy theo những giấc mơ. Và tôi muốn bạn trở lại nhà – bởi v́ cái mà có thể cho bạn sự hài ḷng, cái mà có thể cho bạn sự măn nguyện, th́ không phải ở ngoài đó, nó ở đây; nó không có mặt tại bất cứ thời gian nào, mà nó có mặt ngay khoảnh khắc này. Và cảm giác về một sự ngừng lại – một sự ngừng hoàn toàn – không là ǵ ngoài một kinh nghiệm về cái bây giờ, ở đây.
Tôi chỉ có thể cho bạn nếm một chút mùi vị, và một khi bạn nếm được, th́ bạn sẽ t́m kiếm nó. Rồi th́ không có cách nào ngăn cản bạn. Cái nền tảng nhất là nếm một chút.
Bạn đă nghe những lời nói, những lời đẹp đẽ, nhưng chúng chưa thúc đẩy bạn vào trong một cuộc t́m kiếm say mê. Tôi muốn tặng cho bạn không phải là những lời nói, mà là một nội dung nào đó. Và cái đó chỉ có thể được bằng cách cho bạn nếm thử một chút.
Và thời gian đă chín muồi. Đối với quá nhiều trong số những sannyasin của tôi, th́ những bông hoa đầu tiên của mùa xuân đă bắt đầu hiển lộ. Ngày càng có nhiều thêm những bông hoa đang nở. Và bạn phải rất kiên nhẫn một cách lặng lẽ – với một hoài vọng sâu xa, nhưng không có yêu sách nào. Bởi v́ tôi không thể ở đây vĩnh viễn. Và tôi đă đợi đủ lâu rồi; bây giờ là thời điểm mà tôi nên bắt đầu ïcho bạn nếm thử. Những lời lẽ, tôi đă cho bạn quá nhiều – đó là sự chuẩn bị. Những hạt giống mà tôi đă gieo th́ quá nhiều, và bây giờ mùa xuân đă rất gần kề, bạn phải dũng cảm, và toàn bộ (total), và nồng nhiệt (intensely) với tôi – trong sự im lặng của tôi, trong niềm vui của tôi.
Đă đến lúc cái “nhị nguyên” (duality) giữa bạn và tôi được cất bỏ.
Những ai thông minh, nên bỏ nó đi ngay lập tức. Những ai ít thông
minh hơn một chút, sẽ phải mất một chút thời gian. Tôi có thêm một
chút thời gian để nán lại (linger) trên bờ của bạn … nhưng nó không
thể kéo dài quá lâu. Tôi không thể luôn luôn ở cùng bạn. Tôi rất muốn, nhưng sự hiện hữu không cho phép điều đó. Sự hiện hữu chỉ cho phép chừng đó, [21] và điều đó tốt; nếu không, bạn sẽ bắt đầu xem (sự có mặt của) tôi là chuyện hiển nhiên.
Một ngày nào đó, tôi sẽ không có mặt ở giữa các bạn. Thật tốt, là thỉnh thoảng tôi vắng mặt, để cho bạn có thể bắt đầu học được rằng, cái xảy ra trong sự vắng mặt của tôi là thực tại của bạn. Khi tôi ở cùng bạn, bạn trở nên bị tràn ngập bởi sự có mặt của tôi. Bạn quên đi chính ḿnh.
Và bạn không được (phép) quên chính ḿnh! Bạn phải nhớ đến (remember) chính bạn, bởi v́ chỉ như vậy, bạn mới có thể chuyển hoá chính ḿnh.
Bạn sẽ cảm thấy “nhớ” (miss) sự có mặt của tôi – đó là điều rất tự nhiên; do vậy, tôi không kết tội cái t́nh cảm “nhớ nhung” đó. Nhưng bạn đang t́m kiếm cái ǵ đó “siêu việt” (beyond) – vượt quá cái b́nh thường, cái tự nhiên – cái ǵ đó siêu việt. Bạn phải học (cách t́m ra) con đường, và con đường đó phải được du hành một ḿnh.
Tôi không thể đi cùng bạn. Tôi có thể chỉ cho bạn lối đi, tôi có thể chỉ cho bạn mặt trăng. Nhưng những ngón tay của tôi không phải là mặt trăng, tôi không thể tiếp tục chỉ cho bạn mặt trăng. Không sớm th́ muộn, bạn phải quên đi những ngón tay của tôi và chính bạn phải nh́n vào mặt trăng. Con đường ấy, bạn phải đi một ḿnh.
Một cách tự nhiên, khi tôi không đến hằng ngày, sáng và chiều tối, để ở cùng với bạn, th́ bạn sẽ bắt đầu cảm thấy một loại suy sụp nào đó. Thật ra, nó không phải là một suy sụp; nó chỉ đơn giản là, cái thực tại của bạn đang trồi lên bề mặt (surfacing). Trước đây nó đă không có cơ hội để trồi lên. Tôi đă ở cùng bạn quá nhiều, đến nỗi, bạn đă ch́m vào trong bóng tối, vào trong cái hậu cảnh (background). Tôi đă trở nên thực với bạn hơn chính bạn.
Khi tôi không đến, trong sự vắng mặt của tôi, thực tại của bạn sẽ được phơi bày ra với bạn. Điều đó tốt, bởi v́, trừ phi bạn biết bạn là cái ǵ, bạn đang ở đâu, th́ cuộc hành hương của bạn không thể bắt đầu. Cho nên, những ngày đó có tầm quan trọng rất lớn.
Hăy nhớ: bất kể cái ǵ mà bạn t́m thấy bên trong chính bạn, bất kể
nó có thể là “tào lao” (rác rưởi – rubbish) ra sao, nó là thực tại
của bạn. Nó có thể được thanh tẩy, nó có thể được cất bỏ; bạn có thể
di chuyển rời khỏi nó. Nhưng trước khi có thể làm bất cứ cái ǵ để
xử lư nó, bạn phải biết nó. Cái đó là điều trước tiên và có ư nghĩa
nhất. Để giúp bạn tăng trưởng, phương pháp của tôi, về cơ bản, là làm cho bạn độc lập khỏi tôi. Bất cứ loại lệ thuộc nào đều là một sự nô lệ, và sự nô lệ tâm linh là sự nô lệ tồi tệ nhất trong tất cả.
Tôi đă và đang dốc hết mọi nỗ lực để làm cho bạn nhận biết tính cá thể của bạn, tự do của bạn, năng lực tăng trưởng tuyệt đối của bạn (your absolute capacity to grow) mà không có sự trợ giúp nào từ bất cứ ai. Sự tăng trưởng của bạn là cái ǵ đó nội tại trong bản thể bạn. Nó không đến từ bên ngoài; nó không phải là một sự áp đặt, nó là một “phơi mở” (unfolding) từ bên trong.
Tất cả những kỹ thuật thiền định mà tôi đă cho bạn đều không lệ
thuộc vào tôi – sự có mặt hay vắng mặt của tôi sẽ không tạo ra sự
khác biệt nào – chúng tùy thuộc vào bạn. Không phải sự có mặt của
tôi, mà là sự có mặt của bạn, là cái được cần đến để cho chúng vận
hành tốt (work).
_________________________________
[21] Nguyên tác: Existence
gives only so much rope. (To give sb rope: cho ai tự do hành động).
Tôi dịch thoát ư, để câu được rơ nghĩa hơn
|
BỊ ĐẦU ĐỘC TẠI NƯỚC MỸ CỦA
RONALD REAGAN [22] Sau một thời kỳ 7 tuần – suốt thời gian đó những bác sĩ không thể chữa cho Osho khỏi bệnh nhiễm trùng tai, và ông rất bệnh – Osho xuất hiện vào 6/11/1987, để loan báo rằng: những bác sĩ của ông tin rằng ông bị đầu độc bằng thallium trong thời gian ông bị giam tù tại Mỹ.
Y sĩ riêng của tôi, bác sĩ Amrito, ngay lập tức thông báo cho những sannyasin - bác sĩ khắp thế giới, và yêu cầu họ liên hệ với những chuyên gia giỏi nhất về độc được, bởi v́ theo sự phân tích của riêng ông, là trừ khi tôi đă bị đầu độc ở đó, th́ không thể nào giải thích tại sao cơ thể tôi đă mất hết mọi đề kháng. Và khi ư tưởng này trở nên mạnh mẽ trong trí ông, từng bước một, ông bắt đầu đi sâu vào vấn đề này, và ông phát hiện ra tất cả những triệu chứng mà có thể xảy ra nếu một loại độc dược nào đó đă được cho tôi uống.
Kể từ 12 ngày này, trong nhà tù Mỹ, mọi giấc ngủ đă biến mất. Nhiều cái bắt đầu xảy ra trong cơ thể mà trước đó không xảy ra: sự thèm ăn hoàn toàn biến mất, thực phẩm dường như hoàn toàn không có mùi vị, một cảm giác cuồn cuộn (churning) trong bao tử, nôn mửa, buồn nôn … không cảm thấy khát, nhưng có một cảm thức như thể mọi sự đă bị nhổ rễ. Cái ǵ đó trong hệ thần kinh cũng có vẻ như bị chấn thương (affected). Đôi khi, có một cảm giác rần rần chạy khắp cơ thể, rất mạnh mẽ – nhất là trong cả trong hai bàn tay tôi – và mi mắt giật giật.
Ngày tôi bước vào tù, tôi cân nặng 150 pound (68 kg) ; hôm nay tôi chỉ c̣n 130 pound (59 kg). Và cách đây đúng 3 tháng, cái xương trong bàn tay phải của tôi bắt đầu nhức dữ dội. Tất cả đều là những triệu chứng của những chất độc nào đó. Bác sĩ Amrito ngay lập tức thông báo cho tất cả những sannyasin - bác sĩ của tôi, để họ tiếp cận tất cả những chuyên gia giỏi nhất về độc dược trên thế giới. Và một trong những bác sĩ, bác sĩ Dhyan Yogi, ngay lập tức lấy mẫu máu, mẫu nước tiểu, mẫu tóc của tôi, và đi sang nước Anh, sang nước Đức, tới những chuyên gia giỏi nhất. Những chuyên gia châu Âu gợi ư rằng, sau 2 năm, không có độc dược nào có thể được phát hiện trong cơ thể, nhưng tất cả mọi triệu chứng cho thấy một chất độc nào đó đă được sử dụng.
Những chuyên gia châu Âu tại Anh và Đức đă gợi ư đó là thallium, một chất độc thuộc hệ “kim loại nặng” (heavy metals). Nó biến mất khỏi cơ thể trong ṿng 8 tuần lễ, nhưng để lại những hậu quả (effect) của nó và hủy diệt sức đề kháng của cơ thể chống lại những bệnh tật. Và tất cả những triệu chứng mà tôi đă kể với bạn, là một phần của việc đầu độc bằng thallium.
Bảy tuần này bạn đă không nhận biết … bạn chỉ đơn giản nghĩ rằng tôi bệnh. Bác sĩ Premda, nhà phẫu thuật mắt của tôi, đă cấp tốc đến từ Đức với những loại thuốc tốt nhất, nhưng không có ǵ giúp chống lại những chất độc trừ ra những buổi thiền định của tôi – thứ thuốc duy nhất mà có thể vượt lên mọi thứ thuộc về vật chất. Trong bảy tuần này, tôi đă nằm trong bóng tối gần như suốt ngày và đêm, im lặng chứng kiến cơ thể và giữ cho ư thức của tôi không bị phủ bóng tối bởi bất cứ cái ǵ. Tôi đang vùng vẫy đấu tranh với cái chết, nó là một cuộc chiến giữa cái chết và t́nh yêu của các bạn. Và các bạn nên ca hát mừng vui, v́ t́nh yêu của các bạn đă chiến thắng.
Có lẽ sẽ rất đau đớn cho tôi nếu phải xa ĺa các bạn trong t́nh trạng đẹp đẽ này, khi các bạn đă bắt đầu tăng trưởng đi lên. Tôi muốn người của tôi tự chuyển hoá chính ḿnh, và thông qua họ, tôi muốn mang sự văn minh và nhân tính đích thực đến cho hành tinh đẹp đẽ này.
Chỉ có duy nhất một tôn giáo, và đó là tôn giáo của t́nh yêu. Chỉ có một Thượng đế, và đó là Thượng đế của lễ hội, của sự sống, của hoan ca (rejoicing). Toàn bộ trái đất này là một và nhân loại là một. Chúng ta là những thành phần của nhau.
Tôi không có than phiền nào chống lại những ai mà đă đầu độc tôi. Tôi có thể tha thứ cho họ một cách dễ dàng. Họ chắc chắn không biết cái mà họ đang tiếp tục làm.
Người ta nói rằng lịch sử lặp lại chính ḿnh. Không phải lịch sử lặp lại chính ḿnh; đó chính là sự vô ư thức của con người, sự mù quáng của con người mới lặp lại chính ḿnh. Cái ngày mà con người sẽ có ư thức, tỉnh táo, và nhận biết, th́ sẽ không có bất cứ sự lặp lại nào nữa. Socrates sẽ không bị đầu độc, Jesus sẽ không bị đóng đinh, Al – Hillaj Mansoor sẽ không bị ám sát và bị giết mổ (butchered). Và đây là những bông hoa đẹp nhất của chúng ta, họ là những đỉnh cao nhất. Họ là vận mệnh (destiny) của chúng ta, họ là tương lai của chúng ta. Họ là cái tiềm năng nội tại của chúng ta mà đă trở thành hiện thực.
Tôi chắc rằng, bạn sẽ không có bất cứ thoáng giận dữ nào trong trái tim bạn, hay bất cứ sự thù hận nào đối với bất cứ ai, mà chỉ có sự hiểu biết và sự tha thứ đầy yêu thương. Đó là sự cầu nguyện đích thực duy nhất. Và chỉ có loại cầu nguyện này mới có thể nâng nhân loại lên một tầng ư thức cao hơn.
Tôi có một xác tín nội tại tuyệt đối: Họ đă có thể đầu độc cơ thể tôi, hệ thần kinh tôi, nhưng họ không thể hủy diệt ư thức của tôi, họ không thể hủy diệt bản thể của tôi. Và thật tốt là họ đă cho tôi một cơ hội để thấy chính tôi vượt lên thân xác ḿnh, vượt lên tâm trí ḿnh.
Bảy tuần lễ này đă là một cuộc thử lửa. Bạn không biết, bạn luôn luôn, mỗi khoảnh khắc của bảy tuần lễ này, đă là một trợ giúp vô cùng lớn cho tôi. Không có t́nh yêu của bạn, có lẽ tôi đă không thể vượt qua chất độc, bởi v́ nếu không có t́nh yêu của bạn, tôi sẽ thậm chí không cần phải tranh đấu. Tôi đă thành tựu viên măn và tuyệt đối toại nguyện; tôi đă về đến nhà. Nhưng tôi thấy bạn đang c̣n vấp ngă, quờ quạng, và tôi sẽ là rất vô tâm và không từ bi, nếu rời bỏ bạn trong t́nh huống này. Trong mỗi cuộc đời của các bạn, tôi muốn thấy một b́nh minh, những con chim đang hót và những bông hoa đang nở. Ngoài cái đó ra, tôi không có bất cứ lư do nào khác để có mặt ở đây.
Hăy nhớ: tôi có mặt ở đây là v́ bạn. Cái kư ức đó sẽ giúp bạn không đi lạc đường. Cái kư ức đó sẽ giúp bạn nhận biết cái thế giới thiếu văn minh mà trong đó chúng ta đang sống, trong cái ngôi nhà điên này mà chúng ta gọi là nhân loại. Nó sẽ tiếp tục nhắc nhở bạn, rằng chúng ta phải khai sinh ra một con người mới và một nhân loại mới.
Đây là một thách thức vô cùng lớn. Những ai mà có đảm lược (guts) và trí thông minh, và một ước vọng và hoài băo muốn chạm tới những ngôi sao xa nhất … chỉ có những con người ít ỏi này mới có thể hiểu tôi, mới từng có thể trở thành những bạn đồng hành của tôi. Tôi không có bất cứ đệ tử nào cả – tôi chỉ có những người yêu và những người bạn và những bạn đồng hành.
Tôi muốn tất cả các bạn có thể đạt tới cái diễm phúc (beatitude) tương tự, sự phúc lạc tương tự, và cơn xuất thần tương tự mà đă trở thành chính nhịp đập của trái tim tôi. Nó cũng là nhịp đập trái tim của toàn vũ trụ.
____________________________
[22] Không biết có đúng thực như vậy không. Nếu đúng, th́ quả chính phủ Mỹ rất sợ Osho. Mà, ông cũng “đáng sợ” thật!
|
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC THẾ GIỚI
DÀNH CHO TÍNH SÁNG TẠO [23]
Vào 17/1/1988, Osho nói về một “ thị kiến” (vision) cho cái công xă,
nhằm tạo ra một nơi gặp gỡ, mà ở đó mà người ta có thể khám phá cả
khoa học bên ngoài về vật chất lẫn khoa học thiền định bên trong. Nó
là một đề xuất mà trong quá khứ ông vẫn thường xuyên nói về, nhưng
bây giờ ông hoàn thiện (refine) nó càng nhiều hơn. Tôi muốn cái ashram này dần phát triển thành một Viện Hàn Lâm Khoa Học Thế Giới dành cho sự sáng tạo. Đây có lẽ là cái tổng hợp lớn nhất đă từng có. Cuộc t́m kiếm những chân lư tôn giáo của bạn không hề ngăn trở cuộc t́m kiếm thực tại khách quan, bởi v́ những lănh vực này tuyệt đối tách rời nhau; chúng không chồng chéo lên nhau.
Bạn có thể vừa là một nhà khoa học, vừa là một thiền giả. Thật ra, bạn càng đi sâu vào thiền định, bạn càng phát hiện rằng, thêm nhiều sự sáng tỏ, nhiều thông minh, nhiều năng lực phát minh sẽ nở hoa bên trong bạn, mà có thể sáng tạo ra một khoa học hoàn toàn mới.
Khoa học cũ được tạo ra như là một phản ứng chống lại tôn giáo. Khoa học mới, mà tôi đang nói về, không phải là một phản ứng chống lại cái ǵ cả, mà là một năng lượng trào dâng, sự thông minh, tính sáng tạo. Chính trị đă làm hư hỏng khoa học bởi v́ mối quan tâm của riêng nó chỉ là chiến tranh. Những tôn giáo đă không thể chấp nhận khoa học, bởi v́ tất cả chúng đều mê tín, và khoa học dự định phá hủy mọi thần linh của chúng, và tất cả những mê tín của chúng. Khoa học đă trải qua 300 năm trong một t́nh huống rất khó khăn, một mặt nó phải chiến đấu chống lại tôn giáo, và mặt khác, nó đă một cách vô ư thức trở thành một kẻ nô lệ cho nhà chính trị.
Tôi muốn nơi này phát triển, và tôi đang làm những thu xếp cho một viện hàn lâm khoa học và nghệ thuật thế giới, hoàn toàn hiến dâng cho những mục tiêu khẳng định sự sống.
Cái khoa học mà có thể tạo ra Hiroshima và Nagasaki và hủy diệt hằng ngàn người, chim chóc, cây cối – không có lư do nào, chỉ bởi v́ những nhà chính trị muốn xem thử là năng lượng nguyên tử có phát huy hiệu năng hay không – cũng chính nó có thể tạo ra nhiều thực phẩm hơn, nhiều sự sống hơn, sức khỏe tốt hơn, nhiều thông minh hơn, trong tất cả mọi lănh vực của cuộc sống. Nhưng nó nên được lấy ra khỏi bàn tay của những nhà chính trị và nó không nên bận tâm về những tôn giáo.
Những người đoạt giải Nobel, những nhà khoa học kiệt xuất, những nghệ sĩ của những chiều kích khác nhau, sẽ cấu thành viện hàn lâm, và họ sẽ làm những nỗ lực để thay đổi toàn bộ cái khuynh hướng có tính hủy diệt của khoa học.
Những sannyasin của chúng ta – trong số họ có nhiều người là nhà khoa học, nghệ sĩ, y bác sĩ – sẽ giúp hàn lâm viện. Chúng ta sẽ cấp những học bổng, và người từ khắp thế giới có thể đến và nghiên cứu một con đường khoa học mới, một con đường nghệ thuật mới mà khẳng định sự sống, mà tạo ra nhiều t́nh yêu hơn trong nhân loại, và chuẩn bị cho cuộc cách mạng tối hậu.
Cuộc cách mạng tối hậu là (tiến tới) một chính phủ quốc tế duy nhất – bởi v́ chừng nào mà thế giới chưa có một chính phủ độc nhất, bạn không thể chận đứng chiến tranh.[24] Từ xưa tới nay, mỗi dân tộc phải có quân đội (military) của riêng nó, những pḥng vệ của riêng nó, những vũ khí của riêng nó, và có một cuộc cạnh tranh về việc ai có sức mạnh hủy diệt nhiều hơn. Nhưng một khi có một chính phủ quốc tế duy nhất, th́ không cần có quân đội, không lực, hải quân; tất cả những cái này có thể được chuyển hoá thành những dịch vụ hiến dâng cho sự sống, cho toàn thể nhân loại.
Và Hàn Lâm Viện Khoa Học Thế Giới sẽ là bước đầu tiên, bởi v́ nếu chúng ta có thể đưa những nhà khoa học khắp thế giới dần dần ra khỏi cái ṿng ḱm kẹp (grip) của những nhà chính trị, th́ mọi quyền lực của những nhà chính trị sẽ bị kết liễu (finished). Họ không hùng mạnh; nhà khoa học là sức mạnh đằng sau họ. Và nhà khoa học đang ở trong khó khăn, bởi v́ không có học viện nào trên thế giới mà sẽ cung cấp cho nhà khoa học đủ phương tiện mà anh ta cần để làm việc.
Cái thời khi mà Galileo có thể làm một pḥng thí nghiệm nhỏ trong nhà của riêng ḿnh, và những nhà khoa học có thể làm việc một cách độc lập mà không có sự hỗ trợ nào từ bên ngoài, cái thời đó đă qua lâu rồi. Bây giờ khoa học đă trở nên quá phức tạp, và đă phát triển quá nhiều ngành – và mỗi ngành chính nó đă trở thành một khoa học – đến nỗi, trừ khi anh ta được hỗ trợ bởi chính phủ hay một tổ chức (institution) rất có thế lực, có tiền, có trí thông minh, có những nhà nghiên cứu (students) tận tụy, th́ nhà khoa học không thể làm việc.
Dường như sự hiện hữu đang sắp xếp cho vấn đề tiền bạc mà chúng ta sẽ cần để tạo ra cái viện hàn lâm. Một nhân vật khác rất quan trọng tại Nhật bản, người nắm giữ (hold) nhiều tổ chức (foundation) cho những dịch vụ nhân đạo, sắp đến để xem liệu có thể mang tiền bạc từ những tổ chức đó để tạo ra cái viện quốc tế này hay không. Và nó sẽ có sự hỗ trợ từ khắp thế giới, từ mọi nhà khoa học không có ngoại lệ, bởi v́ hiện nay mọi người đang thấy rằng họ đang phục vụ sự chết, chứ không phải sự sống.
Chúng ta có thể có thư viện lớn nhất dành cho nghiên cứu khoa học, và chúng ta có thể có những sannyasin làm việc, nghiên cứu. Cái tổng hợp sẽ là, mọi người đang làm việc trong viện cũng sẽ thiền định, bởi v́ trừ khi thiền định đi sâu vào trong bạn, th́ những nguồn suối t́nh yêu của bạn sẽ vẫn c̣n yên ngủ. Sự phúc lạc của bạn, niềm vui của bạn, sẽ vẫn c̣n chưa nở hoa.
Con người không phục vụ khoa học, khoa học là để phục vụ con người.
Nhưng những nhà khoa học đang ở trong khó khăn. Họ không thể làm việc một cách cá nhân; họ phải làm việc dưới một chính phủ. Mối quan tâm của chính phủ là chiến tranh, và không có tôn giáo nào sẽ ủng hộ họ, bởi v́ những phát kiến của họ tiếp tục hủy diệt những mê tín tôn giáo.
Có một khoảng chân không (vacuum) khổng lồ mà tôi muốn lấp đầy bằng cách tạo ra một viện hàn lâm thế giới hoàn toàn dâng hiến cho sự sống, t́nh yêu, tiếng cười – hoàn toàn dâng hiến cho việc tạo ra một nhân loại tốt hơn, một bầu không khí tốt hơn, trong sạch và mạnh khỏe hơn, và phục hồi môi trường sinh thái (ecology) đă bị khuấy động.
Chúng ta đang t́m kiếm những nguồn tài chánh để mua toàn bộ Koregaon Park. Và có một điều tốt về Ấn độ: vật giá th́ rẻ hơn, và người ta có thể đến từ mọi nước, có mặt ở đây 3 - 4 tháng, và rồi về nước; trong 8 tháng ở trong nước, họ có thể kiếm đủ tiền và trở lại. Họ không cần phải làm việc ở đây. Ở đây là cái thất cho việc thiền định của họ. Và tôi muốn tất cả mọi chiều kích – những nhạc sĩ tài ba nhất để dạy bạn âm nhạc, những họa sĩ ưu tú nhất dạy bạn hội họa, những nhà thơ giỏi kiệt xuất nhất dạy bạn kinh nghiệm về thi ca và sự biểu hiện nó.
Tôi là một người mơ mộng vô phương cứu chữa.
Nhưng tôi có thể nói với bạn rằng, bất kể tôi mơ cái ǵ trong đời tôi, tôi đă xoay xở nó thành công, mà không làm ǵ cả. Chỉ là một đề xuất ra cho sự hiện hữu …
______________________________
[23] Đây là một sáng kiến rất đáng ca ngợi. Không rơ, hiện nay nó ra sao? Nhưng, cho dù nó chưa trở thành hiện thực & phát huy tác dụng, th́ một Hàn Lâm Viện Quốc Tế như thế này, cũng là một cái mà nhân loại rất nên tiến đến. [24] Đây là một ư tưởng rất hấp dẫn, nhưng có khả thi không, hay nó cũng chỉ là “hoang tưởng” ? Nhưng, phải công nhận rằng, từ khi c̣n người xuất hiện trên hành tinh này, th́ hầu như chiến tranh là “bạn đồng hành” của hắn. Biết bao nhiêu vũ khí giết người đă ra đời! Biết bao nhiêu học thuyết giết người đă ra đời ! Đến bao giờ “con người” mới ra khỏi “cơn điên” và sự “ngu dốt” của ḿnh?
|
YAHHOO! BÔNG HỒNG HUYỀN BÍ
Vào 19/8/1988, Osho khởi đầu một loạt những buổi nói chuyện, mà sẽ là lọat cuối cùng, dành riêng cho việc trả lời những câu hỏi. Trong suốt những buổi nói chuyện này, ông bắt đầu phát triển một loại thiền định “buông bỏ” (let go), mà ông đích thân hướng dẫn. Ông cũng giới thiệu cái mà ông gọi là một “chào mật chú” (mantra salute) – dựa trên một câu chuyện đùa mà ông đă kể ở một trong những buổi nói chuyện của ḿnh ; đó là việc giơ cả hai cánh tay vào không khí và hô to “Yaa – hoo!”
Vào 30/4, Osho loan báo rằng, ông đă phát triển một tiến tŕnh mới,
mà ông gọi là “liệu pháp thiền định.” Sau những thí nghiệm đầu tiên,
tiến tŕnh này được cải thiện : nó diễn ra 3 giờ một ngày qua một
giai đoạn 3 tuần - một tuần của tiếng cười, một tuần của nước mắt,
và một tuần của việc chứng kiến im lặng. Không có sự tương tác nào
giữa những tham dự viên và không có nhà trị liệu nào, mà chỉ có một
“kẻ trợ giúp” (facilitator), đă được huấn luyện trong việc hướng dẫn
tiến tŕnh. Nó được gọi là “Bông Hồng Huyền Bí.” Không có lọai thiền định nào hiến tặng cho bạn nhiều bằng “thủ thuật” nhỏ bé này. Đây là kinh nghiệm của tôi về nhiều buổi thiền định, rằng cái phải được làm, là phá vỡ 2 “ tầng” (layer) trong bạn. Tiếng cười của bạn bị đè nén; bạn đă được bảo, “ Đừng cười to, nó là một vấn đề nghiêm túc.” Bạn không được phép cười to trong nhà thờ, hay trong một giờ học ở trường đại học…
Do vậy, cái “tầng” đầu tiên là tiếng cười, nhưng một khi tiếng cười đă kết thúc, bỗng nhiên bạn thấy ḿnh bị ngập lụt bởi những giọt nước mắt, thống khổ. Nhưng cái đó, nữa, cũng sẽ là một hiện tượng “trút gánh” to lớn. Nhiều cuộc đời đau đớn và khổ sở sẽ biến đi. Nếu bạn có thể loại trừ được hai “tầng” này, th́ bạn đă t́m thấy chính ḿnh.
Tôi đă phát minh ra nhiều loại thiền định, nhưng có lẽ cái này là
cái cốt yếu và nền tảng nhất.
Trong những tuần sau đó, Osho thêm vào hai liệu pháp thiền định, đó
là thiền “Vô- Trí” (No – Mind), và thiền “Tái – Sinh” (Born Again).
Thiền “Vô – Trí” bắt đầu với việc “nói lắp bắp” (gibberish), và sau
đó là sự quan sát im lặng. Thiền “ Tái – Sinh” cho phép tham dự viên
tự do chơi đùa như thể họ là trẻ con. Ông cũng gợi ư rằng, những nhà
liệu pháp nào thành thạo trong những loại thiền định và thôi miên có
hướng dẫn, nên làm sống lại một kỹ thuật Tây tạng cổ xưa - một kỹ
thuật chữa trị thân- tâm, mà ông gọi là “ Tự nhắc nhở chính bạn về
ngôn ngữ bị lăng quên, bằng cách nói chuyện với cơ thể.” NHỮNG BÀI NÓI VỀ ZEN
Sau khi hoàn tất loạt bài về Bông Hồng Huyền Bí, Osho bắt đầu nói về
những câu chuyện về Zen và haiku. Như là thành phần của những buổi
nói chuyện về Zen, ông trả lời những câu hỏi từ biên tập viên
(editor) của ông, về ư nghĩa của những câu chuyện và những bài
haiku, và thường hay b́nh luận về những vụ việc (affair) hiện hành
trên thế giới, và những mối quan tâm có tính xă hội. Nhưng ông không
bao giờ, một lần nào nữa, trả lời những câu hỏi về những mối quan hệ
giữa những con người, và những vấn đề cá nhân khác. Những buổi nói
chuyện của ḿnh, ông thường dành riêng cho cây cỏ bao quanh thiền
pḥng, về những con chim, những đám mây, hay những hạt mưa, hay
những yếu tố khác của thiên nhiên. Một trong những điều cơ bản nhất mà tất cả các bạn cần phải nhớ, là một tôn giáo chỉ sống động khi nào không có học thuyết (doctrine) được tổ chức, không có những hệ thống tin tưởng, không giáo điều, không thần học. Khi chỉ có sự im lặng này, và cỏ cây đang thưởng thức (enjoy) vũ điệu trong cơn gió nhẹ, th́ trong trái tim bạn, một cái ǵ đó tăng trưởng. Nó là của riêng bạn, nó không đến từ bất cứ kinh điển nào; không ai có thể trao nó cho bạn bởi v́ nó không phải là kiến thức.
Đó là sự khác biệt lớn nhất giữa tất cả mọi tôn giáo ở một phía, và Zen, ở phía bên kia. Mọi tôn giáo trừ Zen ra, đều chết cứng. [25] Chúng đă trở thành những thần học, những hệ thống triết học, những học thuyết, hoá thạch, nhưng chúng đă quên mất ngôn ngữ của cây cỏ. Chúng đă quên mất sự im lặng mà trong đó ngay cả cây cỏ cũng có thể được nghe và được hiểu. Chúng đă quên mất niềm vui – niềm vui đó phải hồn nhiên và tự phát - khởi lên từ trái tim của mọi sinh linh.
Cái khoảnh khắc mà kinh nghiệm trở thành một lời giải thích, một sự diễn đạt, th́ nó không c̣n thở nữa; nó chết – và khắp thế giới, người ta đang khiêng (carry) những học thuyết chết.
Tôi gọi Zen là tôn giáo duy nhất đang sống, bởi v́ nó không phải là
một tôn giáo, nó chỉ là tính tôn giáo. Nó không có giáo điều, nó
không lệ thuộc vào bất cứ kẻ sáng lập nào. Nó không có quá khứ; thật
ra, nó không có ǵ để dạy bạn. Nó là điều kỳ lạ nhất mà đă từng xảy
ra trong toàn bộ lịch sử của nhân loại – kỳ lạ nhất bởi v́ nó tận
hưởng trong sự trống rỗng, nó nở hoa trong hư vô (tánh không -
nothingness). Nó được thành tựu viên măn trong sự hồn nhiên, ngây
thơ, không phải trong “sự biết.” Nó không phân biệt giữa cái “trần
tục” và cái thiêng liêng. Đối với Zen, tất cả những ǵ hiện hữu đều
thiêng liêng.
Những buổi thiền định có hướng dẫn ở cuối những bài nói về Zen trở
nên dài hơn, và Osho thêm vào một giai đoạn “nói lắp bắp”
(gibberish). Kế đó, là tọa thiền im lặng, rồi đến “buông bỏ” (thư
giăn cơ thể và té xuống sàn), rồi trở lại tư thế ngồi để bước vào sự
im lặng sâu hơn, và sau cùng, lễ hội, khi Osho rời thiền pḥng. Osho
hướng dẫn hội chúng qua những giai đoạn im lặng, và mỗi giai đoạn
được loan báo bằng tiếng đập trống. Hăy im lặng. Hăy nhắm mắt, hăy cảm nhận rằng cơ thể bạn đang hoàn toàn đông cứng.
Bây giờ hăy nh́n vào bên trong, thu góp tất cả ư thức của bạn – hầu như một mũi tên, bay (forcing) về phía trung tâm.
Tại trung tâm bạn là vị Phật. Ở ngoại vi, bạn có thể là bất cứ ai đó, Tom, Dick, Harry; ở chu vi, tất cả các bạn đều khác nhau, nhưng tại trung tâm, cái bản tính cốt yếu của bạn là bản tính của một vị Phật, con người của Đạo.
Mỗi lúc càng sâu hơn – bởi v́ bạn càng đi sâu, kinh nghiệm của bạn về thực tại vĩnh cửu càng nhiều hơn. Những bông hoa sẽ bắt đầu mưa xuống bạn, toàn bộ vũ trụ sẽ mừng vui (rejoice) v́ sự im lặng của bạn.
Hăy chỉ là một nhân chứng, từ trung tâm, và bạn đă về tới nhà.
Để làm rơ… ( To make it clear)
(Tiếng đập trống) Hăy thư giăn. Hăy đơn giản nhớ rằng bạn chỉ là một nhân chứng. Cơ thể không phải là bạn, tâm trí không phải là bạn. Bạn chỉ là một tấm gương. Và khi bạn ổn định vào trong một sự chứng kiến (hồn nhiên) như tấm gương, th́ toàn bộ vũ trụ mặc lấy một h́nh thức vô cùng đẹp. Mọi sự trở nên thiêng liêng, có thần tính (divine.) Buổi chiều tối này th́ tự nó đă đẹp rồi, nhưng tiếng gầm sư tử của Joshu đă làm cho nó trở nên đẹp tuyệt vời.
Chính trong khoảnh khắc này bạn là một vị Phật.
Khi bạn trở lại (cuộc sống b́nh thường), hăy mang vị Phật theo với bạn. Bạn phải sống như một vị Phật, đưa vị Phật vào trong cuộc sống thường nhật của bạn. Tôi chống lại việc từ bỏ thế gian – tôi ủng hộ việc sáng tạo lại thế gian. Càng có thêm nhiều vị Phật, thế gian sẽ có thêm những bầu trời mới, những chiều kích mới, những cánh cửa mới mở ra … những huyền nhiệm mới, những phép lạ mới.
Hăy thu góp càng nhiều hương thơm và bông hoa như bạn có thể.
(Tiếng đập trống).
Hăy trở lại, nhưng hăy trở lại như là một vị Phật – b́nh an, duyên dáng (graceful). Hăy ngồi trong vài khoảnh khắc chỉ để hồi tưởng lại kinh nghiệm của bạn về cái không gian mà bạn đă viếng thăm và cái huy hoàng (splendor) mà bạn đă trải nghiệm.
Mọi ngày bạn phải đi mỗi lúc một sâu hơn. Do vậy, hăy luôn nhớ bạn đă đi bao xa: Ngày mai bạn phải đi xa hơn một chút. Có thể phải mất 2, hoặc 5, hoặc 20, hoặc 30 năm – nhưng bạn phải trở thành một vị Phật. Đối với riêng tôi, ngay bây giờ bạn là một vị Phật, bạn chỉ phải có ḷng dũng cảm. Trong 30 năm đó, bạn sẽ không trở thành một vị Phật – bạn đă là một vị Phật rồi. 30 năm đó chỉ là để vứt bỏ sự nghi ngờ, nghi ngờ rằng, làm thế nào bạn lại có thể là một vị Phật được? Cho dù tất cả những vị Phật cố thuyết phục bạn, th́ ở dưới sâu (vẫn) là sự nghi ngờ: “ Trời đất, tôi? Và là một vị Phật ư?” Nhưng một ngày nào đó, bạn sẽ bị thuyết phục bởi kinh nghiệm của chính bạn. Không có sự “chuyển hoá” (conversion) thực thụ nào mà không có kinh nghiệm của riêng bạn.
__________________________________
[25] Ư kiến
này cẩn được thảo luận thêm.
|
KẾT CỤC CỦA “ BHAGWAN”
Vào tháng 12/1988, Osho lại đổ bệnh trầm trọng, đ̣i hỏi sự túc trực
của y sĩ riêng 24 giờ một ngày. Khi ông trở lại thiền pḥng sau 3
tuần vắng mặt, ông đưa ra một thông báo gây sửng sốt. Một nữ tiên
tri (seeress) Nhật bản đă gởi một thông điệp, rằng cô ta tin rằng
Phật Gautama đang dùng Osho như là một “kênh chuyển tải”. Ông xác
nhận rằng điều này là đúng và loan báo rằng ông đang bỏ cái tên
Bhagwan. Ông cũng cởi bỏ cặp kính râm mà ông đă mang trong dăm bảy
tháng bởi v́ ánh sáng video đă quấy rầy đôi mắt ông, và trao nó cho
một trong số những đệ tử của ông. Cái tên mới của ông đi qua dăm bảy
“biến thể” (variation) qua vài ngày kế tiếp, và một cái tên khác
xuất hiện để trả lời cho một câu hỏi từ một phóng viên UPI. Phật Gautama đă trú ẩn (take shelter) trong tôi.[26] Tôi là chủ nhà, Ngài là vị khách. Không có vấn đề về bất cứ sự cải đạo (sang đạo Phật) nào. Tôi là một vị Phật, trong tư cách của riêng ḿnh (in my own right), và đó là lư do tại sao Ngài đă muốn dùng tôi như là cái “kênh chuyển tải” (vehicle) cho công tŕnh c̣n lại của Ngài. Ngài đă từng chờ đợi, một đám mây lang thang trong 25 thế kỷ, để t́m một “kênh” thích hợp.
Tôi không phải là một “Phật tử.” Và Phật Gautama cũng không có ư định tạo ra những Phật tử, hoặc tạo ra một tôn giáo có tổ chức (định chế). Thậm chí, 25 thế kỷ về trước, Ngài chưa bao giờ tạo ra một tôn giáo có tổ chức. Cái khoảnh khắc mà chân lư được tổ chức, nó trở thành một sự dối trá. Một tôn giáo có tổ chức không là ǵ khác hơn một thứ chính trị được che giấu, một sự bóc lột tàn tệ bởi giới tăng lữ. Họ có thể là những shankara, imam, rabbi, hay giáo hoàng – nó không tạo ra sự khác biệt nào.
Phật Gautama không để lại đằng sau Ngài bất cứ kẻ thừa kế nào. Những lời cuối cùng của Ngài là, “Đừng làm tượng ta, đừng sưu tập (collect) những lời nói của ta. Ta không muốn trở thành một biểu tượng phải được thờ phụng. Hoài băo sâu xa nhất của ta, là các ngươi sẽ không là những kẻ bắt chước. Các ngươi không cần phải là những Phật tử, bởi v́ cái tiềm năng của chính ngươi là trở thành một vị Phật.”
Tôi muốn nói: V́ lư do nêu trên, tôi không dạy đạo Phật, hay bất cứ cái “ism” (chủ nghĩa) nào. Tôi dạy bạn trở thành chính vị Phật. Những người mà ở cùng tôi, không là thành phần của một tôn giáo có tổ chức nào. Họ là những kẻ t́m kiếm độc lập, cá nhân. Mối quan hệ của tôi với họ là mối quan hệ của một bạn đồng hành.
Nhân thể tôi phải nhắc bạn nhớ đến lời tiên tri của Phật Gautama cách đây 25 thế kỷ: “Khi ta trở lại một lần nữa, ta sẽ không thể được tái sinh xuyên qua tử cung của một người phụ nữ. Ta sẽ phải lưu trú trong một người có “tâm thức” (consciousness) tương tự và chiều cao tương tự và bầu trời mở rộng tương tự. Ta sẽ được gọi là ‘Người bạn’.”
Một tự do lớn lao được hàm ẩn trong cái từ đó. Ngài không muốn là guru của bất cứ ai, Ngài chỉ đơn giản muốn là một người bạn. Ngài có cái ǵ đó để chia sẻ, không có điều kiện nào gắn kết với sự chia sẻ đó.
Điều này cũng sẽ giúp bạn, bởi v́ một số ít sannyasin bị bối rối về việc làm thế nào họ phân biệt được cổ Phật Gautama và tôi. Lời tiên tri của Phật Gautama giúp để làm sáng tỏ cho sự bối rối, lẫn lộn này.
Mặc dù Ngài đă trú ngụ trong tôi, tôi sẽ không được gọi là Phật
Gautama. Tôi thích được gọi theo lời tiên tri của Ngài: Phật
Maitreya (Di Lặc). Maitreya có nghĩa là “ người bạn.” Cái đó sẽ giữ
cho sự phân biệt được rơ ràng. Sẽ không có sự lẫn lộn nào.
Vào đêm thứ 5 của cuộc “viếng thăm bất thường”
[27], Osho đến thiền
pḥng với một loan báo khác. Phật Gautama đă bỏ đi, bởi v́ những bất
tương thích nào đó trong phong cách sống của vị khách và chủ nhà. Bốn ngày này đă vô cùng khó khăn đối với tôi. Tôi đă nghĩ rằng, Phật Gautama sẽ hiểu biết về sự đổi thay của thời đại, nhưng mà không thể được. Tôi đă cố gắng hết sức, nhưng mà Ngài quá khuôn định (disciplined) trong cái cách của riêng Ngài – cách đây 25 thế kỷ – Ngài đă trở thành một “cục xương cứng” (hard bone).
Những điều bé nhỏ lại trở thành khó khăn.
Ngài có thói quen chỉ ngủ quay phía bên phải. Ngài không dùng một cái gối; Ngài thường dùng bàn tay ḿnh để làm gối. Cái gối, đối với Ngài, là một xa xỉ phẩm.
Tôi nói với Ngài, “ Cái gối đáng thương (poor) không phải là một thứ xa xỉ, và đặt bàn tay Ngài suốt đêm dưới đầu là hoàn toàn một sự tra tấn. Và, phải chăng Ngài nghĩ rằng, nằm quay mặt về bên phải là đúng, và bên trái là sai? Riêng phần tôi, đây là cái nền tảng căn bản của tôi, rằng tôi tổng hợp cả hai phía.”
Ngài chỉ ăn một lần mỗi ngày, và (dù) không nói một lời, Ngài muốn rằng tôi cũng nên làm như vậy. Ngài có thói quen khất thực. Ngài hỏi tôi, “ Cái b́nh bát của ta đâu!”
Chiều tối này, vào đúng 6 giờ, khi tôi đang dùng cái bồn tắm của ḿnh, Ngài trở nên rất khó chịu (disturbed) – Bồn tắm? Tắm 2 lần một ngày, cũng là một sự xa xỉ.
Tôi nói, “Ngài đă thành tựu lời tiên tri của Ngài rằng Ngài sẽ trở lại. Bốn ngày là đủ – Tôi chào tạm biệt Ngài! Và bây giờ Ngài không cần phải lang thang ṿng quanh trái đất nữa; Ngài chỉ đơn giản biến mất vào trong bầu trời xanh tối hậu. “Trong 4 ngày, Ngài đă thấy, tôi đang làm công việc mà Ngài muốn làm, và tôi đang làm nó theo nhu cầu của thời đại. Tôi không sẵn sàng – trong bất cứ cách nào – tuân theo mệnh lệnh. Tôi là một cá nhân tự do. V́ tự do và t́nh yêu của tôi, tôi đă tiếp Ngài như một vị khách, nhưng xin đừng cố trở nên một chủ nhà.”
Bốn ngày này tôi đă bị nhức đầu. Trong 30 năm, tôi đă không bị nhức đầu, tôi đă hoàn toàn quên thế nào là nhức đầu. Mọi sự đều bất khả. Ngài đă quá quen với cái cách của ḿnh, và cái cách đó ngày nay không c̣n thích hợp (relevant) nữa.
Do vậy, bây giờ tôi đưa ra một phát biểu lịch sử lớn hơn nhiều, rằng tôi chỉ là chính ḿnh.
Bạn có thể tiếp tục gọi tôi là Phật, nhưng nó không có dính dáng ǵ
tới Phật Gautama hay Phật Di Lặc. Tôi là một vị Phật trong cái tư
cách riêng của ḿnh (in my own right). Từ “ Phật” chỉ đơn giản có
nghĩa là “kẻ tỉnh thức” (the awakened one). Bây giờ tôi tuyên bố
rằng, tên của tôi nên là Shree Rajneesh Phật Zorba. Shree Rajneesh Phật Zorba chẳng bao lâu bỏ tất cả những cái tên của ông, và nói rằng, ông chỉ đơn giản vẫn là vô danh. Tuy nhiên, những sannyasin của ông đều bối rối v́ không có cái tên nào để gọi ông. Họ gợi ư muốn gọi ông là “Osho” – từ này đă xuất hiện trong những câu chuyện Thiền, như là một từ để biểu lộ sự kính trọng và vinh danh. Osho đồng ư và thêm vào từ đó cái nghĩa của riêng ông, liên hệ nó với cái từ oceani [28] của William James. Sau này, ông nói rằng, nó không phải là tên ông chút nào, mà chỉ là một “âm thanh có tính trị liệu” (healing sound).
_________________________
[26] Ư nói, Phật Gautama “mượn tạm” thân xác của Osho – như kiểu “ nhập đồng” vậy. [27] Osho cho biết, đây là “cuộc viếng thăm” của Phật Gautama.
[28] Oceani:
Đại dương. Như vậy, “Osho”cũng có nghĩa là “đại dương”.
|
CƯƠNG LĨNH THIỀN: THOÁT KHỎI CHÍNH M̀NH.
Trong tuần lễ theo sau “cuộc viếng thăm” (visitation) của Phật
Gautama, Osho có vẻ như được tiếp thêm sức mạnh và năng lượng từ
những nguồn dự trữ mới. Những buổi nói chuyện của ông trở nên lâu
hơn – trong một hai dịp, ông nói gần 4 tiếng đồng hồ không nghỉ – và
giọng nói của ông rơ ràng là bốc lửa hơn và đầy khí lực hơn. Trong
những loạt nói chuyện khác nhau, ông liên hệ Zen với F. Nietzsche và
Walt Whitman, so sánh nó với Kytô giáo, và đề nghị nó cho Gorbachev
như là một con đường để làm dễ dàng sự chuyển tiếp từ cọng sản sang
tư bản. Nhưng vào tháng 1/1989, hai ngày sau khi bắt đầu một loạt
bài nói chuyện với nhan đề “ Cương Lĩnh Thiền”, Osho bị đổ bệnh trở
lại, và không xuất hiện trong thiền pḥng cho tới đầu tháng 4. “Cương Lĩnh Thiền” sẽ chứng tỏ là loạt nói chuyện sau cùng của ông. Cương Lĩnh Thiền là tuyệt đối cần thiết, bởi v́ tất cả những tôn giáo cũ đang ră ra từng mảnh (falling apart). Và trước khi chúng tan ră, và nhân loại hoàn toàn trở nên điên khùng, Zen phải được quảng bá rộng khắp trái đất. Trước khi căn nhà cũ sụp xuống, bạn phải tạo ra một căn nhà mới.
Và lần này, đừng phạm phải sai lầm tương tự. Bạn đă và đang sống trong một ngôi nhà (mà nó) không có thực; do vậy, bạn đang chịu đựng mưa gió, lạnh lẽo, nắng gắt, bởi v́ ngôi nhà đó chỉ là một tưởng tượng. Lần này hăy thực sự bước vào trong ngôi nhà nguyên thủy (original) của bạn, không phải vào trong một ngôi đền nhân tạo, một tôn giáo nhân tạo nào. Hăy đi vào trong sự hiện hữu của riêng bạn. Tại sao lại là một bản sao, một cách liên tục như thế?
Lần này th́ rất quư giá. Bạn được sinh ra trong một khoảnh khắc rất may mắn, khi mà ngôi nhà cũ đă mất tính hiệu lực (validity) của nó, sức chịu đựng thử thách (proof) của nó, khi mà cái cũ đơn giản đang treo lủng lẳng xung quanh bạn bởi v́ bạn không đủ dũng cảm để ra khỏi nhà tù. Nếu không thế, th́ những cánh cửa đang rộng mở – thật ra, chưa bao giờ có cánh cửa nào, bởi v́ ngôi nhà mà bạn đang sống là hoàn toàn tưởng tượng. Những vị thần của bạn là tưởng tượng, những giáo sĩ của bạn là tưởng tượng, những thánh kinh của bạn đều là tưởng tượng.
Lần này hăy đừng phạm phải sai lầm tương tự. Lần này nhân loại phải
làm một bước nhảy lượng tử từ những lừa dối cũ kỹ, ră nát, đến chân
lư tươi mới, tươi mới một cách vĩnh cửu.
Những lời cuối cùng của Osho được nói trước công chúng diễn ra ở
cuối buổi thiền định cho buổi chiều tối ngày 10/4/1989: Khoảnh khắc này bạn là những người diễm phúc nhất trên trái đất. Việc nhớ rằng chính bạn là một vị Phật, là kinh nghiệm quư giá nhất, bởi v́ nó là vĩnh cửu của bạn, nó là bất tử tính của bạn.
Nó không phải là bạn, nó chính là sự hiện hữu của bạn. Bạn là một với những ngôi sao và cỏ cây và bầu trời và đại dương. Bạn không c̣n bị tách rời.
Lời nói cuối cùng của Phật là sammasati. Hăy nhớ rằng bạn là một vị Phật – sammasati.
“NHÓM N̉NG CỐT” (THE INNER CIRCLE)
Vào tháng 6/4, Osho thành lập cái mà ông gọi là “Nhóm Ṇng Cốt”, gồm
21 đệ tử, họ sẽ trông coi việc quản trị (administration) thực tế của
công xă. Ông không thảo luận nó trong hội chúng, nhưng về sau, ông
làm rơ trong những “đường lối” (guideline) mà ông hoạch định cho
nhóm đó, rằng, mục đích của họ không phải là cung cấp cái chiều
hướng tâm linh, mà chỉ là trông coi những khía cạnh thực tiễn, để
cho công tŕnh của ông có thể tiến hành. Nếu những thành viên nào
của Nhóm Ṇng Cốt bị chết, hoặc quyết định rời bỏ v́ lư do nào đó,
họ sẽ được thay thế bởi quyết định nhất trí của những thành viên c̣n
lại, và tất cả mọi quyết định của nhóm đều sẽ phải được biểu quyết
để đi tới sự nhất trí chung (consensus). Bạn không thể tránh một truyền thống; nó nằm ngoài sự kiểm soát. Một khi bạn qua đời, bạn không thể ngăn cản những ǵ mà hậu thế sẽ làm. [29] Thay v́ để nó rơi vào tay kẻ ngu dốt, tốt hơn bạn nên đưa ra đường lối đúng.
_________________________
[29] H́nh như Osho đă học được bài học đau đớn của các vị giáo chủ và các vị thầy. Mọi chân lư, khi vào tay hàng “đệ tử”, đều có nguy cơ trở thành tà thuyết. Than ôi! Và, chắc chắn Osho cũng không phải là ngoọai lệ!
|
CHUẨN BỊ CHO CHUYẾN KHỞI HÀNH
10/4/1989: Osho bảo thư kư của ông rằng, khi ông hoàn tất bài nói
chuyện, th́ năng lượng của ông sẽ hoàn toàn thay đổi. Ông giải thích
rằng, người ta bước vào thế gian thông qua 9 tháng trong tử cung,
th́ cũng tương tự, 9 tháng trước khi chết, năng lượng một lần nữa
bước vào trong một giai đoạn “ấp ủ” (incubatory) của sự chết. Bài
nói vào chiều tối này, hoá ra là sự khởi đầu của một loạt bài mới có
nhan đề ”Sự Giác Ngộ Của Đức Phật.” (Awakening of the Buddha).
19/5: Trong một cuộc họp mặt khoáng đại tại thiền pḥng, hội chúng
được thông báo rằng, Osho sẽ không nói trước công chúng một lần nào
nữa.
23/5: Hội chúng được thông báo, rằng Osho sẽ đến thiền pḥng
(meditation hall) trong những buổi chiều tối. Khi ông đến, nhạc sẽ
được tấu lên, để cho mọi người có thể “lễ hội” (celebrate) cùng với
ông, và tiếp đó, sẽ là một giai đoạn của thiền định im lặng, sau đó,
Osho sẽ rời. Một video của một trong số những bài nói của ông sẽ
được tŕnh chiếu sau khi ông rời thiền pḥng. Tháng 6 – 7 Trường Đại Học Đa Khoa Osho (Multiversity) được thành lập, với những “phân khoa” (faculties) khác nhau để trông coi những “nhóm nghiên cứu” (workshops) và những chương tŕnh khác nhau đề ra bởi công xă. Những cái này bao gồm Trung Tâm Chuyển Hoá, Trường Huyền Bí, Trường Nghệ Thuật Sáng Tạo (School of Creative Arts) và Trường Nghệ Thuật Quân Sự.
Hội chúng được yêu cầu mặc áo thụng (robe) trắng cho những buổi họp
mặt lúc chiều tối, và sự thay đổi này được áp dụng trong suốt thời
gian diễn ra một festival truyền thống của Ấn độ - từ lâu đă được cử
hành bởi công xă - vào tuần trăng tṛn của tháng 7, nhằm tôn vinh
những vị đạo sư chứng ngộ.
25/8: Osho gợi ư, rằng nên sắp xếp sao cho áo thụng màu mận tía được
mặc trong suốt những sinh hoạt ban ngày bên trong công xă.
31/8: Một pḥng ngủ mới cho Osho được hoàn tất tại nơi mà trước đây
là Thính đường Trang Tử, tiếp giáp với thất của ông. Ông đă và đang
trực tiếp tham dự vào việc thiết kế căn pḥng mới này, được lát đá
cẩm thạch và thắp sáng bởi những đèn chùm lớn, với những cửa sổ từ
sàn tới trần nhà, nh́n ra khu vườn um tùm vây quanh.
14/9: Osho dời về lại pḥng ngủ trước đây của ông, và căn pḥng mới
th́ được dùng cho Bông Hồng Huyền Bí và những liệu pháp thiền “vô
trí” (No – mind). Một con đường đi bộ (walkway) mới, được vây kín
bằng kiếng, có điều ḥa không khí - trước đây nó được xây để cho
Osho đi dạo trong vườn - sẽ được dùng cho việc thực hành thiền
vipassana, thiền tọa, và những nhóm thiền im lặng khác.
17 /10: Osho ra huấn thị về việc cái ǵ sẽ xảy ra khi ông rời bỏ
thân thể. Ông cũng yêu cầu thành lập một nhóm để dịch những cuốn
sách bằng tiếng Hindi của ông sang tiếng Anh, và ra huấn thị thêm về
việc Nhóm Ṇng Cốt sẽ hoạt động ra sao.
24/12: Tờ The Sunday Mail, UK, đăng một bài báo, nói rằng Vatican
chịu trách nhiệm một phần về việc Osho bị trục xuất khỏi nước Mỹ.
17/1/1990: Y sĩ của Osho loan báo rằng, từ nay về sau, Osho sẽ không
thể ngồi trong thiền pḥng trong suốt buổi thiền định lúc chiều tối
nữa, nhưng sẽ xuất hiện một cách ngắn ngủi để chào hội chúng và rời
ngay sau đó. Khi Osho xuất hiện trong thiền pḥng, hiển nhiên là ông
rất mỏng manh (fragile), đứng không vững. 19/1/1990: Osho rời bỏ thân thể vào lúc 5 giờ chiều, từ chối việc chữa trị bất thường - được gợi ư bởi bác sĩ của ông - với những lời: “ Sự hiện hữu quyết định cái thời điểm của nó”, và b́nh an nhắm hai mắt lại, ra đi. Bác sĩ của ông báo tin buồn vào lúc 7 giờ tối, khi mọi người tụ tập trong thiền pḥng cho cuộc gặp gỡ thường lệ vào buổi tối. Sau một khoảng cách thời gian (interval) ngắn ngủi để cho phép những người bạn thông báo với những ai không có mặt trong thiền pḥng, nhưng muốn đến viếng, thi hài của Osho được đưa vào thiền pḥng để hành lễ trong 10 phút, rồi được tang chúng rước tới địa điểm hỏa táng gần đó, nơi mà lễ “tiễn biệt” (send off) dành cho ông tiếp tục suốt đêm.
Hai ngày sau, tro của Osho được mang đến Thính đường Trang Tử – căn
pḥng mà đă được tân trang như là một “pḥng ngủ” mới – nơi mà ông
đă có những buổi nói chuyện và gặp gỡ với những sannyasin và những
kẻ t́m kiếm trong nhiều năm. Tro được đặt, theo di huấn của Osho,
“dưới giường” – một phiến (slab) cẩm thạch ở trung tâm một phía của
căn pḥng mà quả thực đă được thiết kế như là một cái “bục giường”
(bed platform) - và được bao phủ bằng một tấm thẻ nhôm (plaque,)
trên đó được khắc những lời mà vài tháng trước đó ông đă đọc để ghi
lại: OSHO CHƯA BAO GIỜ SINH RA CHƯA BAO GIỜ CHẾT ĐI CHỈ VIẾNG THĂM HÀNH TINH NÀY GIỮA 1931 – 1990
~~000~~
|