NP phan

 


TẢN MẠN VỀ

“HẠ ĐỎ CÓ CHÀNG TỚI HỎI”

 

T̀NH SẦU là bài thơ nổi tiếng nhất và hay nhất của nhà thơ Huyền Kiêu.

Ông tên thật là Bùi Lăo Kiều (Có lẽ bút danh Huyền Kiêu xuất phát từ tên của ông là Kiều: Kiêu huyền thành Huyền Kiêu), sinh năm 1915, nguyên quán ở tỉnh Hà Đông (cũ). Ngoài viết văn, làm thơ ông c̣n cộng tác với nhiều báo ở Hà Nội. Ông công tác ở tạp chí Văn Nghệ (HNV), nhà xuất bản Văn học (HLHVHNTVN).

Những tác phẩm của Huyền Kiêu: Sang xuân (1960), Mùa cây (1965), Bầu trời (1976).

Sau 30 Tháng Tư năm 1975 ông vào Sài G̣n sinh sống. Ông mất ngày 8 tháng 1 năm 1995 (Ất Hợi), hưởng thọ 80 tuổi.

Bài thơ “T́nh sầu” đă được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc mang tên Ngày Xưa Một Chuyện T́nh Sầu do ca sĩ Duy Quang tŕnh bày. Nhạc sĩ Việt Dzũng cũng phổ bài thơ thành nhạc phẩm Thu Vàng Có Chàng Tới Hỏi.

Đáng tiếc là bài thơ “T́nh sầu” hiện nay có khá nhiều dị bản. Theo tôi t́m hiểu th́ ít nhất có đến ba (bốn) dị bản.

Thứ nhất là bản chép lại từ bản viết tay (H́nh 1), được cho là thủ bút của nhà thơ Huyền Kiêu, có ghi địa điểm, thời gian sáng tác và chữ kư của tác giả (bằng mực đỏ), như trang mạng thica.net ghi nhận bản này. Tạm gọi là Bản 1.

 


 

T́nh sầu

Xuân hồng có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi hoa ngứt cài đầu
Đi hái phù dung trong nội.

Hè đỏ có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi khăn thắm quàng đầu
Đi giặt tơ vàng trong suối.

Thu biếc có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát t́nh sầu trong núi.

Đông xám có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đă nghỉ trong ḷng mộ lạnh.


Hà Nội mùa thu 1938
 

Bản thứ hai là bản do hoạ sĩ Suối Hoa, con gái của cố thi sĩ Huyền Kiêu công bố. Trang dutule.com dẫn lại trong mục Một bài thơ cũ. Tạm gọi là bản 2.
 

T́nh sầu

Xuân hồng có chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi hoa ngát cài đầu
Đi hái phù dung trong nội

Hè đỏ có chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi khăn thắm quàng đầu
Đi giặt tơ vàng trong suối

Thu biếc có chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát t́nh sầu trong núi

Đông xám có chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đă ngủ trong hầm mộ lạnh

1940

 

Bản thứ ba, cũng là bản phổ biến nhất, có trên hầu hết các trang mạng. Tạm gọi là bản 3.
 

T́nh sầu

Xuân hồng có chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi tóc xơa ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội

Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối

Thu xám cũng chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát t́nh sầu trong núi

Đông xám lại chàng tới hỏi
Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đă ngủ trong ḷng mộ tối

1943

 

So sánh giữa bản 1 và bản 2 th́ thấy không có sự khác biệt nhiều, ngoài mấy điểm sau đây:

- Bản 1 có dấu (-) đánh dấu lời đối thoại, bản 2 th́ không.

- Bản 1: hoa ngứt; bản 2: hoa ngát.

- Bản 1: Đă nghỉ trong ḷng mộ lạnh

- Bản 2: Đă ngủ trong hầm mộ lạnh

- Bản 1: năm sáng tác 1938; bản 2: 1940

Tôi t́m hiểu thử “hoa ngứt” là hoa ǵ th́ không có kết quả mà chỉ có “hoa ngấy”, “ngấy hương”, họ hoa hồng, một vị thuốc nam.

Bản thứ 3, bản phổ biến nhất th́ có nhiều khác biệt so với bản 1 và 2: 

- Từ “có” trong “có chàng tới hỏi” được thay bằng “vẫn”, “cũng”, “lại” ở câu đầu các khổ thơ sau.

- “Tóc xoă ngang đầu”, “bắt bướm vàng ngoài nội”

- “Hạ đỏ” chứ không phải “Hè đỏ” (?)

- “Đi giặt tơ vàng bên suối” thay v́ “trong suối”

- “Thu xám” thay v́ “Thu biếc”

- “Đă ngủ trong ḷng mộ tối”

Tôi nghĩ rằng đă có một sự tam sao thất bản ở đây. Có thể người yêu thơ đă không được tiếp xúc với bản gốc (chính thức) nên đă tự ư đọc hoặc chép thơ theo cảm nhận của riêng ḿnh, hoặc căn cứ vào một bản nào đó trên báo chí rồi truyền cho nhau. Khổ một nỗi là bản này lại là bản phổ biến nhất, nhiều người thuộc nhất.

Nhưng mà…

Tôi cứ băn khoăn điều này: “Hạ đỏ” hay “Hè đỏ”? Theo như bản gốc của tác giả th́ rơ ràng là HÈ ĐỎ, chứ không phải HẠ ĐỎ. 

Lâu nay vẫn nghe “Hạ đỏ có chàng tới hỏi” giờ thử sửa thành “Hè đỏ có chàng tới hỏi” nghe hơi… sốc, nghe nó không hay, nó thế nào ấy. Vả lại, người ta thường nói Xuân Hạ Thu Đông (Mùa Xuân em đi chợ Hạ, mua cá Thu về chợ hăy c̣n Đông - Ca dao), chứ ít khi nói Xuân Hè Thu Đông. Thật không hiểu v́ sao HÈ ĐỎ hoá thành HẠ ĐỎ…

Trước năm 1975, ở miền Nam, thật sự không có nhiều người biết đến Huyền Kiêu. Khi c̣n tại thế, nhà thơ Đinh Hùng (bạn thân của Huyền Kiêu) có giới thiệu hai bài thơ của Huyền Kiêu là “T́nh sầu” và “Tương biệt dạ” nhưng cũng không mấy người yêu thơ biết, không hẳn là v́ ông là người của “phía bên kia”, mà thời gian ấy, nhiều tác giả tác phẩm ngoài Bắc, nhất là các nhà văn, nhà thơ tiền chiến vẫn được đưa vào chương tŕnh học, các tác phẩm vẫn được in ấn, phổ biến; mà có lẽ Huyền Kiêu chưa phải là nhà thơ thật sự có tiếng tăm.

Măi cho đến khi nhà văn Viên Linh, một nhà văn có tiếng thời ấy lấy một câu thơ của Huyền Kiêu trong bài “T́nh sầu” là câu “Hạ đỏ có chàng tới hỏi” làm nhan đề cho một cuốn truyện dài của ông th́ bạn đọc mới t́m hiểu và biết được phần nào nguồn gốc của tên cuốn truyện.

 

 

Viên Linh tên thật là Nguyễn Nam, sinh ngày 20-1-1938 tại Phủ Lư, Hà Nam. Từ năm 1950, ông sống tại Hà Nội. Tác phẩm đầu tiên ông được trả nhuận bút viết năm 14 tuổi, đăng trên Nhật báo Tiếng Dân ở Hà Nội. Ông di cư vào Nam năm 1954.

Ông trưởng thành tại Sài G̣n, hoàn toàn sống bằng nghể cầm bút từ 1962, là Tổng thư kư Ṭa soạn nhiều tuần báo chuyên về văn học nghệ thuật như Kịch Ảnh, Nghệ Thuật, Khởi Hành, Thời Tập... Là tác giả của hơn hai mươi cuốn sách trước 1975. Ông đạt giải nhất Giải Văn học Nghệ thuật toàn quốc của VNCH năm 1974 với tác phẩm “Gió thấp”. 

Nhà văn Viên Linh mất ngày 28 tháng 3 năm 2024 tại Virginia, Hoa Kỳ, thọ 86 tuổi.

Tôi là một trong những người hâm mộ nhà văn Viên Linh (mặc dù lúc đó tôi chỉ mới khoảng 15, 16 tuổi). Tôi rất thích thơ ông trong tập “Hoá thân”, đặc biệt là thơ lục bát, đọc truyện ngắn của ông trên các tạp chí thời ấy, một số truyện dài. Năm 1973, tôi mua cuốn “Những mái nhà thấp” của ông, đọc hết mà không có ấn tượng ǵ (hic). Đến năm sau (1974) thấy công bố ông được giải thưởng Văn học Nghệ thuật toàn quốc với tác phẩm “Gió thấp”. Th́ ra, “Những mái nhà thấp” được tái bản với tên “Gió thấp”. Đọc lại th́ mới thấy… hay (hic).

Năm 1973, nhà văn Viên Linh đă kư hợp đồng độc quyền với nhà xuất bản Khai Hoá và đă in bộ tác phẩm gồm ba truyện dài: “Hạ đỏ có chàng tới hỏi”, “Ḷng gương ư lược” và “Tới nơi em ở”. Tôi chỉ mới đọc được “Hạ đỏ có chàng tới hỏi”, thấy rất hay. H́nh như cuốn này đă được tái bản ở Việt Nam vào năm 2017.

Trong các ca khúc do Phạm Duy, Việt Dzũng phổ nhạc bài thơ này đều là “Hạ đỏ có chàng tới hỏi”. 

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng có cuốn truyện dài “Hạ đỏ” xuất bản năm 1991.

HÈ ĐỎ CÓ CHÀNG TỚI HỎI đă thành HẠ ĐỎ CÓ CHÀNG TỚI HỎI.

Vẫn chưa có câu trả lời.

 

NP phan

 

 

 

 

art2all.net