ĐẾN VỚI TẬP THƠ THỨ HAI CỦA HOÀNG UYỂN VĂN
Ông làm thơ cách nay mấy chục năm rồi (theo ngày tháng ghi sau một số bài thơ) Tuy nhiên măi đến năm 2024, ông mới nhờ nhà thơ Vơ Thị Như Mai tập hợp biên tập, viết lời tựa và in ấn tập thơ đầu tiên Qua mùa khói chênh vênh dày hơn 200 trang. Ấn phẩm xinh xắn, nội dung phong phú với nhiều bài thơ chất lượng. Và bây giờ tập thơ thứ hai, tác giả lấy tên một bài thơ tâm đắc để đặt tựa cho tập thơ Phía nào ta ngắm vĩnh hằng trong em. Tập thơ này cũng dày hơn 200 trang với nhiều bài thơ hay.
Tôi gặp ông vào dịp ra mắt sách “Giá để ngày ấy em chờ” của Nhịp Điệu Việt. Gương mặt hiền, tuy tuổi đă lớn nhưng vẫn nhanh nhẹn, từng trải, dấu vết của thời gian và những thăng trầm của cuộc sống cũng đọng lại trên khuôn mặt, mái tóc điểm sương và những vần thơ đầy xúc cảm.
Tập thơ Phía nào ta ngắm vĩnh hằng trong em chiếm đa số là những bài thơ t́nh. Đặc biệt thơ t́nh buồn của mất mát chia ly nhưng lời thơ vẫn thiết tha, say đắm. Giọng thơ nhẹ nhàng đằm thắm mà không kém phầm ngọt ngào và lăng mạn.
“Ta về gom lại chiêm bao/ Nghe dư âm cũ mời chào ngày trôi/ Mùa yêu đă cũ bên trời/ C̣n ta lăng đăng bóng người qua hiên” (C̣n đây ta với dư âm cùng người).
T́nh đă qua, mùa yêu đă cũ, ta vẫn c̣n đứng lại với chiêm bao, với “bóng người qua hiên” với dư âm ngày cũ.
Thi nhân luôn sống khiêm tốn, ẩn ḿnh một cách lặng lẽ, yêu âm thầm, dẫu biết rằng quy luật khó tránh khỏi: hợp rồi tan: “Ta giấu ḿnh đêm trong vỏ ốc/ Nghe khuya đồng vọng tiếng muôn trùng/ Chờ mỏi đàn chim di viễn mộng/ Đem về cho một nhánh mây tan...”
Yêu và chia tay trong lặng lẽ, thơ cũng nhẹ nhàng dẫu t́nh ly tan cũng day dứt lắm nhưng giọng thơ hiền như chính cho người thi nhân, không vồ vập, cuồng nộ, không gào thét, cũng không quay quắt tiếc nuối.
Cho dẫu viết thơ t́nh thời hiện đại, viết về t́nh yêu đôi lứa thi nhân không cần phải đặt nặng về nhục cảm, cồn cào da thịt hay băo liệt đường yêu. Giây phút bên nhau cũng chỉ là mùi hương tóc bên gối, nụ t́nh ngày xuân. “Anh sẽ về, nghe hương tóc em/ Để t́m trong suối tóc hương đêm / Để nghe thương nhớ vùi thương nhớ/ Một thuở t́nh xanh xưa ngỡ quên”(Anh sẽ về). “Trăng tà nguyệt tận mù sương/Ta về đắm giữa hoang đường môi em" (Nguyệt tận)
Nhẹ nhàng vậy thôi nhưng thấm, cái thấm của hương gây mùi nhớ. Mùi hương tóc của người thương, đeo đẳng trong suốt cả một đời thi nhân. Khi có nhau, t́nh xuân là bất biến, là măi măi lưu giữ trong tim. Những giây phút bên nhau là những giây phút sẽ đi vào vĩnh cữu: “Bao mùa cũ xa trôi/ Chỉ mùa yêu dừng lại/ Khi ta có nhau rồi/T́nh xuân là măi măi” (T́nh xuân)
Khi buộc phải chia biệt th́ thi nhân cũng biết chấp nhận cái sự lỡ làng của duyên phận. T́nh tan dẫu thoáng nhẹ hều trên câu chữ nhưng dư âm th́ vẫn lắng vào thơ có khi đeo đẳng cả một đời, không thể phôi phai. “Ṿng tay em khép mùa thu lại/ Bờ băi hồn tôi ngập lá vàng /Rồi từng thu đến, từng thu chết/ Lá vàng tôi khóc gió thu sang” (Dấu thu).
Người làm thơ chuyên nghiệp nói chung và Hoàng Uyển Văn nói riêng có một hồn thơ t́nh da diết lăng mạn nhưng buồn và cô đơn. Một ḿnh đối diện với chính ḿnh và có lẽ trong tận cùng cô đơn người ta mới có thể viết nên những vần thơ hay, mới chạm tới con tim của giới mộ điệu thơ t́nh:
“Hồn ta sỏi đá ngh́n năm tuổi/Thơ ấu bao giờ dưới gót em/ Xin bước em về mưa phố núi/ Xanh lại rong rêu mấy bậc thềm” (Xin bước em về)
Hoàng Uyển Văn làm thơ cho mẹ, cho người thân tuy không nhiều như số lượng thơ t́nh nhưng những vần thơ dành cho mẹ là những vần thơ hàm súc, giàu ư nghĩa của đứa con hiếu thảo với một niềm hiếu kính thiêng liêng. Thơ nói lên nỗi vất vả gian truân của mẹ qua h́nh tượng “thân c̣”, “đôi vai”, cô động mà đủ ư: “Mẹ dồn cả tuổi thanh xuân/ Thân c̣ trĩu nặng những gian truân đời/ Đôi vai Mẹ gánh cả trời/ Gánh cả một đời, nuôi lớn khôn con...” (Đôi vai).
Đời người là hữu hạn, thoáng đó, mất đó nhất là trong chiến tranh. Khi đứng trước nghĩa trang chiều hiu quạnh người thơ động ḷng trắc ẩn, rung lên những tiếng nấc buồn trong thơ: khóc cho người vắn số, khóc cho kiếp người hữu hạn và khóc cho chiến cuộc điêu linh: “Anh nằm xuống, mộ phần đau ngọn cỏ/ chiều nghĩa trang buồn nghiêng đổ xuống thiên thu/ giờ t́m đâu pho tượng tạc thân anh/ để khóc nhớ bơ vơ từng phần mộ lạc.”(Khóc những hoang mồ không một nén hương).
Tôi chỉ gặp ông có một, hai lần trong dịp ra mắt sự kiện sách của Nhịp Điệu Việt và họp mặt nhóm nhỏ của bạn bè Như Mai. Qua thơ cho thấy ông là một người thích đọc thơ, mê thơ. Ông kể từ hồi lớp 11 đă đọc và hâm mộ các nhà thơ tiền bối v́ lẽ đó trong thơ đă có sự kế thừa và ảnh hưởng hơi thơ của các nhà thơ tên tuổi trên thi đàn như Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê… và có ảnh hưởng cả chất ca dao. Tuy nhiên Hoàng Uyển Văn vẫn tạo ra giọng thơ cho ḿnh qua cảm quan nghệ thuật trước cảnh vật, tâm trạng đầy sáng tạo. Thơ phản ảnh cuộc sống ở thời đại ḿnh đang sống và gửi gắm nỗi niềm của ḿnh với bạn đọc theo cách riêng của nhà thơ.
Ảnh hưởng của cố thi sĩ Hàn Mặc Tử và thi ca cổ điển khi ông có cảm hứng nghệ thuật về trăng. Dĩ nhiên trăng không có muôn mặt như trăng Hàn thi sĩ hoặc nh́n vẻ đẹp của trăng để ngâm hoa vịnh nguyệt như thơ cổ điển. Vầng trăng của ông đơn giản đôi khi là bạn hay đóng vai một t́nh nhân. Thi nhân cũng có cuộc t́nh với trăng và khi tỉnh dậy th́ trăng đă vuột mất, có tiếc nuối, nhưng niềm tiếc nuối nhẹ nhàng không dằn vặt đớn đau. “Đêm qua ôm trăng ngủ/ Tỉnh mộng, trăng đi rồi/ Biết nơi nào trăng náu/ Mà gọi trăng về chơi” (Vầng trăng qua đời)
Đọc thơ của Hoàng Uyển Văn chúng ta thấy một người thơ phong trần, lăng tử với hồn thơ lăng mạn và yêu thơ đến kiệt cùng. Trong thơ hiện ra một thi nhân với cơi ḷng luôn cô đơn, trống vắng, cuộc sống thanh đạm với bút pháp thơ trữ t́nh. Phần lớn là thơ t́nh buồn. Có thể ngoài đời ở nơi xa vẫn có một mái ấm gia đ́nh. Ông cũng đă chăm lo cho con cái học hành trưởng thành. Khi bước vào tuổi bên kia triền dốc của cuộc đời, ông với dáng người hơi gầy, vẫn nhanh nhẹn, vẫn đi làm xa nhà hàng trăm cây số, có khi cả năm mới về thăm nhà một lần. Ông bảo: “Làm để nuôi thơ”. Thi nhân nuôi thơ chứ thơ chưa nuôi ông. Đi làm để thấy ḿnh c̣n khỏe mạnh, ḿnh c̣n có ích cho đời. Các cụm từ phản ánh cuộc sống phong trần gió bụi, tâm trạng buồn và chất ngất nhớ nhung: Hồn cô lữ, trắng đôi tay, giang hồ sông nước, biệt ly, giọt sầu, “Sân ga tôi cũng làm phiêu bạt/ Mượn lá thu vàng gói nhớ nhung”. Có lẽ nhờ vậy thi nhân mới vắt ra những vần thơ hay từ cuộc sống của ḿnh.
“Thôi nhé! Từ nay...Thôi từ nay/ Giang hồ sông nước đă bao ngày/ Vẫn nghe giá buốt hồn cô lữ/ Khói thuốc hoài hương gió thoảng bay” (Chút gió ngậm ngùi)
Về h́nh thức tŕnh bày: Tác giả Hoàng Uyển Văn diễn đạt nỗi niềm qua các thể thơ: Thơ lục bát, thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ tám chữ, thơ tự do với những câu thơ dài ngắn khác nhau, có khi chỉ là câu hai hoặc ba, bốn từ, thơ có vần và thơ không vần,…Thơ hay là thơ xuất phát từ cảm xúc chân thành dĩ nhiên thông qua kỹ thuật và ngôn từ nhưng yếu tố nội dung vẫn là quan trọng nhất. Có lẽ đối với phần lớn độc giả, những bài thơ cố gắng g̣ theo một trật tự nào đó có tính cầu kỳ và khiên cưỡng của h́nh thức không thuyết phục tôi và nhiều bạn đọc khác bằng cách viết tự nhiên bằng chính cảm xúc của ḿnh, dĩ nhiên muốn có thơ hay c̣n phải tùy thuộc vào tài năng của người làm thơ. Thơ Hoàng Uyển Văn phong phú về h́nh thức diễn đạt bằng nhiều thể loại. Nhưng ấn tượng với tôi hơn cả là những vần thơ bảy chữ, thơ năm chữ và thơ lục bát. Ở ba thể loại này ông có những bài thơ hay, những câu thơ hay:
“Hồn ta sỏi đá ngh́n năm tuổi/ Thơ ấu bao giờ dưới gót em/ Xin bước em về mưa phố núi/ Xanh lại rong rêu mấy bậc thềm” (Xin bước em về)
~~oOo~~
|