NGÀI ĐỘI CÓC
Không biết cái tục thờ ngài đội Cóc ở làng ấy xuất phát từ bao giờ. Có người bảo là chỉ mới hơn trăm năm trở lại đây, khi làng thỉnh tôn tượng tự nhiên của ngài vào an vị trang nghiêm trong gian đầu tả nội đ́nh, hướng mặt nh́n bao quát tiền đường, nơi mỗi ḱ tế tự, các bô lăo lễ bái hiến tế, cung nghinh long thần thổ địa. Có người lại đoan quyết tục này có từ thời mới lập làng, nghĩa là đă trên bốn trăm năm, coi ngài như phúc thần thành hoàng khai canh. Đă từ lâu, đ́nh làng bị hỏa hoạn thiêu rụi, làng không c̣n sắc phong nhà vua ban tặng phúc thần, không ai có cơ sở để cổ xúy hay phủ nhận thông tin này. Thế nào cũng được miễn là dân làng thành kính thờ phụng ngài, xuân thu nhị ḱ tế tự trang nghiêm, một nghi lễ đă trở thành không thể không có trong khi lịch sử ngôi làng đă qua bao thăng trầm biến đổi theo các thế chế làng xă. Cái tên ngài đội Cóc cũng có nhiều ư kiến khác nhau. Người th́ cho “Cóc” là tên một nhân vật có công trạng với làng, khi chết hiển linh được dân làng truy phong chức "đội" và tôn thành thần hoàng để thờ tự. Cũng có thể nhân vật có công trạng ấy đă làm chức Suất đội, dân quen miệng cứ gọi đội Cóc như bao người chức sắc khác trong làng. Ở cái làng thuần nông bao đời, tâm lí trọng chức quyền đă thâm căn cố đế như là một khao khát vươn lên khẳng định vị thế xă hội, cho dù cái chức ấy chẳng ra ǵ cả. Chỉ là một người làng chỉ định cất giữ đồ ngũ sự tế lễ, bung nồi, chén bát bếp núc và đến ḱ, lon ton mời các cụ đi hội họp hay thông báo tin tức làng rao truyền th́ ông ấy cũng huênh hoang cái chức "trùm" trước tên tục cha sinh mẹ đẻ đặt cho. Nhiều cái tên kiểu ấy như trùm Quyến, xâu Tha, lư Tú, hương Giảng; sang hơn một chút th́ khóa Liêm, đồ Trọng; khoe quyền hành th́ có cửu Thao, bát Hà, đội Trinh, lănh Thăng... Nhiều,... nhiều vô kể. Cái tên đội Cóc chắc cũng vào dạng ấy. Có thể ngài đội Cóc đă tập hợp được một đám cư dân lưu tán thời người Việt đặt bước chân Nam tiến đến đây, ngài tổ chức khai hoang lập ấp, dựng làng, giúp họ xây dựng cuộc sống an cư trên vùng đất mới c̣n nhiều khó khăn ban đầu. Với công trạng ấy th́ ngài đội Cóc được dân làng tôn phong thần hoàng cũng phải lẽ. Một lí khác nại ra rằng vô lẽ đă làm đến chức Suất đội mà có cái tên xấu xí thế. “Cóc” chăc không phải là tên thật của một nhân vật tiếng tăm mà chỉ là do người làng tôn xưng loài cóc làm thần, một dạng tôn thờ các con vật tự nhiên làm linh vật chiêm bái khi họ thấy các con vật này có ảnh hưởng đến cuộc sống thường ngày của họ. Ở vùng sông nước chằng chịt, bàu ruộng śnh lầy, lau lát sum suê thời ḱ mới khai hoang th́ số lượng loài lưỡng thê này phát triển thành đàn, thành lũ không phải là chuyện không thể xảy ra. Chúng có phần nào ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống của họ cả mặt thuận lợi và kể cả khó khăn mà họ phải có biện pháp đối phó thích hợp để tồn tại. Nọc độc cóc có thể giết chết người. Cóc già chết rũ, nọc đông thành ngọc dùng chữa vết cắn của các loài rắn, rít cứu người. Thịt cóc không chỉ là thực phẩm như tôm cá mà c̣n là vị thuốc chữa bệnh quan sát, c̣i cọc của trẻ con. Cóc biết gọi trời làm mưa giúp dân chống hạn, có nước ngọt tưới đồng, rửa trôi phèn mặn. Tôn cóc thành linh vật thờ phụng như thành hoàng để ngài không quấy nhiễu và giúp ích nhiều hơn cho dân chúng cũng có cơ sở cho cái lí của nó. Tranh căi th́ nhiều nhưng một sự thật là cái tôn tượng thờ ngài đội Cóc trong đ́nh làng mới có hơn trăm năm nay, gắn liền với những sự kiện có thật ai cũng biết. Thế hệ ngày nay chỉ nghe truyền miệng nhưng những người kể lại chính là những người đă tổ chức các sự kiện đó. Việc xác tín trăm phần trăm là điều không thể chối căi. Thuở đó, khu dân cư quanh đ́nh làng thường có hỏa hoạn. Mỗi ḱ gió Lào thổi về là dân cư khu vực đó nơm nớp nỗi lo cháy nhà. Lửa củi, rơm rạ dù cảnh giác thu vén kĩ càng th́ lửa cũng xuất hiện thiêu rụi nhà cửa. Lửa không phải từ dưới cháy lan lên mà các đám cháy thường được phát hiện từ trên cao cháy xuống. Dù được cứu hỏa kịp thời nhưng thế nào th́ ngôi nhà tranh tre mà thần lửa đă chọn ấy không c̣n một thứ ǵ tồn tại ngoài đám tro tàn. Dân làng hoảng sợ, nhiều năm đă t́m kiếm nhiều thầy trừ tà, diệt ma chống lửa vẫn không dứt được tai ương. Duyên đến với làng khi một vị thầy cao tay ấn đi ngang qua đ́nh làng. Vào đúng ngọ, giữa sân đ́nh nắng chang chang, vị pháp sư gióng la bàn và xác định thần lửa chẳng phải ở đâu xa mà cư ngụ ngay trước đ́nh làng, phải làm lễ cúng tống tiễn. Các bô lăo chức sắc trong làng đồng ư nhờ thầy giúp đỡ. Thầy dựng nêu trước đ́nh, lập hương áng ngay giữa sân cúng tế ba ngày. Ngày cuối, thầy chiếu la bàn vào hàng đá bậc cửa trước sân đ́nh và t́m ra ḥn đá thần lửa hóa thân. Thầy sai người cạy lên và yêu cầu làng tống táng. Ư thầy muốn là ḥn đá phải theo cái phang đỏ ra sông, phang th́ lửa hỏa phần, đá th́ cho trầm mịch dưới sông, thần lửa không c̣n quay trở lại được. Lạ thay khi mấy bô lăo đốc thúc trai tráng bẫy được ḥn đá nặng cả mấy trăm cân lên chơng chơ trên mặt sân đ́nh th́ có bô lăo thấy tảng đá giống h́nh thù con cóc đang nằm ngữa bốn chân quay nh́n vào đ́nh. Nếu thầy xác định ḥn lá là thần lửa; ḥn đá lại có h́nh dáng cóc, th́ đây có phải là ngài đội Cóc, thành hoàng của làng? Hỏa hoạn quanh đ́nh mỗi năm và đă có lần thiêu rụi đ́nh làng có thể là do ngài quở trách dân làng chưa có thành ư với ngài, tổ chức tôn thờ ngài đúng cách. Nghĩ thế, nhiều bô lăo không cho thầy mang đá đi trầm mịch mà nhờ thầy có phương án khác.Thầy làm lễ xin rước ḥn đá vào thờ trong đ́nh như một tôn tượng của ngài đội Cóc. Sau lễ cúng ấy, ḥn đá được an vị trang nghiêm th́ hỏa hoạn hàng năm không c̣n. Ai cũng cho là làng có phước gặp thầy giỏi. Ḥn đá từ đó trở thành tôn tượng ngài đội Cóc thần hoàng làng. Ngài được dân làng thành kính cúng bái, ngày càng linh nghiệm. Dân có việc ǵ đến cầu thần th́ đều "cầu được ước thấy" linh hiển không sai.
Chuyện ḥn đá thần này th́ cũng lắm li ḱ. Trước khi được phát hiện đó là tôn tượng ngài đội Cóc th́ nó cũng b́nh thường như bao ḥn đá khác được chôn làm bệ cửa đ́nh như bậc cấp từ sân vào tiền đường. Nền đ́nh làng đắp cao hơn sân đ́nh mấy bực bước. Điều này cũng có lí là để tránh ngập lụt mỗi ḱ nước về. Ở vùng thấp trũng này, mưa vài ngày, nước nguồn đổ về là lụt lên. Trong làng, việc dân làm nền nhà cao hơn đường thôn để tránh lụt ngập là chuyện ai cũng biết tính. Sau khi lập đ́nh, dân làng chèo đ̣ lên đầu nguồn sông t́m những ḥn đá cuội kích cỡ vừa tầm chở về xếp ngay ngắn trước tiền đ́nh làm bệ bước lên đ́nh. Sau lần đ́nh làng bị cháy, đ́nh vẫn được dựng lại trên nền cũ khang trang hơn. Bệ đá bậc cấp lên đ́nh qua ḱ hỏa hoạn đen bóng hơn. Theo thời gian, bệ đá ṃn dần, láng lẫy theo bước chân, có chỗ khuyết sâu, có lồi ra những h́nh dáng ngộ nghĩnh. Ḥn đá thần lửa to và nặng nhất trong bệ đá được chôn chính giữa, nhận nhiều dấu chân bước vào ra khiến các vết lồi lơm nhẵn thín. Có hai vết lồi tṛn, nh́n kĩ như hai mắt thần. Thầy bảo mắt nh́n vào nhà nào th́ nhà ấy sẽ cháy. Khi đặt tôn tượng thần vào đ́nh, thầy chọn vị trí không để nắng chiếu vào mắt thần, thầy c̣n cho đặt một chậu nước lớn trước mắt thần để thần hạ hỏa. Dân làng luôn luôn chăm sóc, không bao giờ để chậu nước vơi cạn. Ai có cầu thần chuyện ǵ, xin một ít nước làm phép th́ cũng phải thế vào lượng nước như đă xin múc đi. Vị pháp sư bảo dân làng phải cung kính thần nghiêm trang. Sở dĩ thần thịnh nộ gây hỏa hoạn trước đây là do dân làng tệ bạc với thần. Tượng thần phơi sương nắng chẳng ai chăm sóc lại c̣n bị dẫm đạp mỗi khi bước qua. Những ngày nắng lửa chang chang mùa đại hạn gió Lào, tượng dang nắng từ sáng đến chiều, chừng quá ngọ là ngài đă hết chịu nỗi, hơi thở pḥ pḥ, ngài khạc ra không biết bao nhiêu tia lửa phun vào nhà dân cháy cho biết tay. Chuyện ngài đội Cóc là vậy. Qua tín ngưỡng dân gian nông thôn, sự linh nghiệm của ngài bao trùm nhiều ngơ ngách tâm linh người dân vùng quê này. Ốm đau, bệnh tật th́ đến cúng thần xin nước mắt thần về xoa bóp. Buôn bán ế ẩm đến xin nước mắt thần tẩy rảy xả xui. Mùa màng thất bát, hoa màu cằn cỗi đến xin nước mắt thần làm phép tăng sản, bội thu. Cả đến các cặp vợ chồng hiếm muộn cũng đến xin ngài độ tŕ cho sinh nở. Mà chuyện cầu tự th́ làng có nhiều giai thoại ai cũng nghe qua. Những cặp đến cầu tự xin con cái phần lớn đều linh ứng. Dân làng v́ thế mỗi lần kết hôn không thể bỏ qua việc đến báo với ngài, xin ngài phù hộ con đàn cháu đống. Điều lạ là những ai đến cầu ngài giúp đỡ th́, nếu sinh con gái, lớn lên đều giỏi giang, xinh đẹp; nếu sinh con trai th́ èo uột, khó nuôi, khi lớn lên th́ thường có ngoại h́nh xấu xí, tính t́nh th́ ham chơi, lêu lổng, quậy phá. Có thể đây là ư đồ thâm độc của ngài đội Cóc, không muốn cho trai tráng trong làng nổi trội hơn ngài trong ánh mắt đám gái làng xinh đẹp. Nhiều nhà thích đẻ con trai ngại ngùng không muốn đến cầu xin với ngài. Có lẽ v́ thế mà làng này nhiều gái hơn trai. Ở cái làng thuần nông đất chật, người đông, ruộng quân điền làng chia cho canh tác mỗi khẩu chưa đầy sào ta th́ việc nông tang lúa má, dù hoàn toàn giao cho đàn ông gánh vác th́ vẫn không sử dụng hết thời gian nhàn rỗi của mấy gă. Nhàn cư vi bất thiện, các chàng túm tụm cờ bạc, rượu trà đàn đúm hết ngày qua tháng. Việc nhà th́ đă có đám phụ nữ đảm đang lo toan. Sản phẩm nông nghiệp th́ có các nàng chăm sóc, bảo quản, mua bán. Trong từng gia đ́nh th́ người con gái thường lấn lướt đàn ông. Nhiều người giỏi chợ búa mua bán, kinh tế gia đ́nh người vợ kiếm nhiều hơn người chồng, vợ trở thành trụ cột gia đ́nh. Làng nhiều gái hơn trai th́ chuyện gái ế chồng th́ ai cũng dễ nhận ra. Trai trở thành của quư hiếm. Gái lớn lên, cạnh tranh nhau kiếm một tấm chồng đă khó huống chi qua mấy cuộc chiến, trai ṭng quân có đi không về, nhiều gái góa không dễ kiếm được đối tượng để rổ rá cạp lại cho có đôi. Cái ǵ đă hiếm th́ có giá cao. Trai làng không ra ngoài quy luật ấy. Biết thế các nhà có con trai càng làm neo, các chàng trai càng hư đốn. Không được ngài đội Cóc hộ tŕ cho ngoại h́nh xinh đẹp, lại mang một lớp da dẻ sần sùi, xấu xí mà các chàng cứ ngỡ ḿnh là hoàng tử của những cố Tấm đảm đang. Được cung phụng đầy đủ, các chàng trai xấu xí ấy không thiếu cơ hội để gởi gắm chút t́nh cảm ngoài luồng cho các đối tượng c̣n son trẻ pḥng không ế thừa, hằng ngày nhan nhản trước mắt. Thời trước, chưa có luật gia đ́nh quy định sống một vợ một chồng, cấm đa thê th́ thỉnh thoảng trong làng có o nào không chồng mà bụng cứ to lên, làng chỉ cho gọi o mang trầu rượu ra đ́nh phạt vạ rồi kiếm biện pháp giải quyết cho o. Nghe các cụ nói, trước đây h́nh phạt rất nặng nề, nếu không khai báo rơ ràng và người gây hậu quả chối phăng, không nhận tác phẩm của ḿnh th́ người mang bầu phải tội nhục h́nh cạo trọc đầu, bôi vôi trắng hếu để răng đe. Nếu lỡ dại với ai đến nông nỗi này và người gây án nhận tội th́ làng kết hợp hôn phối cho hai người đường hoàng chính chính, không ai có thể phủ nhận. Từ cái tục này, chàng nào gây hậu quả cũng vui vẻ nhận lời trong khi mấy phu nhân bấm bụng căm hờn thằng chồng bạc nghĩa. Trong bụng là thế nhưng ngoài mặt th́ chị ta cứ phải vui vẻ như không có chuyện ǵ xảy ra. Vở kịch đóng khéo của chị là để che miệng làng khỏi đàm tiếu, lại c̣n được tiếng khen chị là người bao dung, độ lượng. Nhận t́nh địch làm pḥng hai cho chồng, làm d́ cho con cái ḿnh, nuốt cay đắng làm vui là tâm sự của không ít gái xinh ở cái làng này. Nhưng cũng có những phụ nữ cao tay, từ khi bước về nhà chồng, nàng đă có ư thức rơ ràng và phương cách quản lí ông chồng thế nào để chàng ta không có thời gian và điều kiện léng phéng ngoài luồng. Các chàng bị bó rọ trong cái lưới kim cô, không c̣n sức đâu để thèm của lạ. Nếu đến nông nỗi phải nhận t́nh địch về cho chồng coi như của quư bao năm ấp bồng, bảo quản giờ phải chia sẻ cho kẻ khác xài chung, th́ nàng cũng có cách đối phó. "Đêm đêm chị giữ mất buồng, cho em mảnh chiếu nằm suông nhà ngoài" và bà hai chỉ c̣n việc kêu than: "Thân em làm lẽ chẳng hề. Có như chánh thất mà lê giữa đường". Gái ai mà không có máu ghen. Không ghen th́ đă không phải đàn bà. Cái tục làng xử phạt ngoại hôn như thế là biện pháp cần thiết để cũng cố hạnh phúc gia đ́nh, ổn định xă hội đồng thời giải quyết phần dôi dư gái thừa trai thiếu một cách nhân bản, hợp t́nh. Họa hoằn cũng có những chàng bị vợ kềm cặp quá đà, có lúc vợ sơ sẩy, cái máu thích của lạ khiến chàng gây họa với ai đó. Đến khi người con gái chửa hoang khai ra giữa đ́nh làng, chàng ta bị triệu đến nhận tác phẩm để được thêm vợ, cũng là điều oái ăm khó xử với chàng. Với bộ mặt như chàm đổ, chàng lấm lét nh́n cặp mắt hằm hằm của mụ vợ cùng những lời đay nghiến, đến nỗi tim gan, dù có tu nhiều kiếp, cũng bung ra khỏi thân xác. Chàng đành chối phăng để giữ thân, tránh hậu họa mỗi khi cơn tam bành lục tặc của mụ vợ nổi lên. Thế là chị chửa hoang phải chịu phạt vạ, mang cái đầu vôi trắng hếu để người làng phỉ báng, chê bai. Từ khi có luật gia đ́nh cấm đàn ông cưới nhiều vợ, những chị có chồng mừng bao nhiệu th́ mấy o con gái chưa chồng hoặc góa chồng như ngồi trên đống lửa. Thế th́ quyền làm vợ, làm mẹ chỉ ưu tiên bảo vệ cho một số người may mắn. Ưu tiên cho hạng người này th́ tước đoạt quyền hạnh phúc của số người hẩm hiu khác. Hạnh phúc là tấm chăn hẹp đắp chung, người này trùm kín đầu th́ kẻ kia hở chân. Mà hạnh phúc là một bản năng sống. Giáo dục, đạo đức, pháp luật và các thiết chế xă hội không thể nào dập tắt được bản năng này. V́ thế trong làng vẫn có những phụ nữ lén lút nuôi con đơn thân. Luật tục làng thời gian gần đây không c̣n nặng nề về chuyện phạt vạ gái chửa hoang, có chăng chỉ vài lời qua lại dư luận đàm tiếu chê bai. Mà lời nói như gió thoảng qua, chuyện ǵ đă có đầu th́ cũng có cuối, không thay đổi quy tŕnh được chào đời của những số phận không may. Một minh chứng sống rành rành về tục phạt vạ một thời đă gây khó cho biết bao chị em lén lút hứng hoa rơi ở cái làng này vẫn c̣n đó. Nhân vật chính c̣n sống đến bây giờ. Chị là một gái làng sinh ra đă kém may mắn, thua thiệt chúng bạn. Làng có nhiều gái đẹp giỏi giang, điều ấy không loại trừ được những trường hợp ngoại lệ. Người con gái ấy ngoại h́nh, nhan sắc cũng coi được mắt nhưng bị cái tật dở hơi, có phần nghễnh ngăng. Ả sống với người mẹ không chồng. Cái thiệt tḥi ả chịu từ khi c̣n trong bụng mẹ. Cựa quậy trong cái bụng to lặc lè của mẹ, ả đă cùng hứng chịu nhục nhă với cái đầu bôi vôi của mẹ ḿnh trước các lời đơm đặt ác ư của dân làng. Mẹ ả đau khổ đến chỗ tuyệt t́nh con. Một phần nữa v́ căm hờn thằng nhân t́nh bạc nghĩa, nuốt lời thệ nguyền sắt son, bà cho vào người nhiều thứ nước lá thuốc lang vườn tự chế, đắng g̣ ruột để trục ả ra, cho ả chết thành ma trả thù kẻ bội bạc. Nhưng ả vẫn bám víu bụng mẹ đến đủ ngày, đủ tháng chui ra làm người. Ả lớn lên với di chứng của những chén thuốc lá độc ấy, thành người con gái, đẹp th́ có đẹp nhưng trí th́ dại dại, khôn khôn bất b́nh thường. Gái khôn ngoan c̣n chưa chắc kiếm được chồng trong cái làng thiếu trai này huống hồ là ả. Thế mà đến khi dân làng thấy cái bụng ả ngày càng to ra th́ dư luận như nổ một quả bom tấn đồn thổi ra rất nhanh. Đúng là mẹ nào con nấy! Chuyện ấy xẩy ra từ thời làng c̣n lệ phạt vạ chửa hoang. Ả bị làng gọi ra đ́nh để mấy cụ chức sắc hỏi cung: - Chị có bầu với ai, khai ra để làng cứu xét? - Tự dưng em có bầu, không với ai cả. - Chị ăn nói liều lẫn thế mà nghe được hả? Không với ai mà bụng càng ngày càng to. Không lẽ chị đau bụng báng? - Không. Em có mang. Thai đă già rồi. - Cha nó là ai, chị khai rơ để t́m cha cho nó? Không th́ tóc trên đầu chị chẳng c̣n mà đầu trắng hếu như b́nh vôi. - Không. Em khai thật rồi. Không có trai làng nào là cha của con em cả. - Thế th́ con đất, con trời à? - Không phải! Trời đất có chứng kiến nhưng không phải cha nó. Cái bầu là con của ngài đội Cóc. - Chị nói nghe lạ đời. Báng bổ thần linh đến thế th́ tội chị không phải vừa. - Em khai thành thật rồi mà các bác không tin em. Em đến xin ngài đội Cóc giúp em có con th́ ngài đă chứng giám và từ đó em có cái bầu này. V́ ngài đội Cóc nổi tiếng linh thiêng, các bô lăo bán tín bán nghi, không quyết được h́nh phạt đối với ả. Hội đồng cho ả về nửa tháng đề chờ thời gian nghị án. Hẹn lần họp hội đồng bô lăo mồng mười tháng sau xử tiếp. Trong cuộc họp nội bộ của hội đồng bô lăo nghị án, nhiều ư kiến trái ngược nhau được mấy cụ mổ xẻ cặn kẽ cho vấn nạn này: - Nó nói là con của ngài đội Cóc một cách chân t́nh, thành khẩn thế th́ phải tin nó thôi. Ngài quả là linh thiêng, không việc ǵ ngài không giúp được. - Nói sao ấy! Giúp là giúp thế nào? Người trần mắt thịt đôi khi trầy trật măi không ra được đứa con. Linh thiêng th́ linh thiêng nhưng lấy ǵ cho vào bụng ả để cái bụng ngày càng to ra. - Thế mới gọi là thần linh. - Cúng thần chỉ có hương hoa. Thần chỉ là khí phách. Lấy đâu ra cái của cho nó có con. - Nói thế là báng bổ rồi! Thần là thần chứ có phải người trần mắt thịt như người ta đâu! Thần có cách làm của thần chúng ta sao mà biết được. Một vị bô lăo từ lúc vào hội nghị đến giờ chưa có ư kiến ǵ, bèn dung ḥa: - Tranh căi măi không xong th́ sửa lễ cúng hỏi thần thôi. Ư kiến ông trưởng thôn thế nào? Ông trưởng thôn người c̣n trẻ, tuổi chỉ chừng trên 30, được xă cất đặt lên trông coi việc làng. Tuy tuổi nhỏ nhưng các buổi hội đồng họp bàn việc làng, các cụ phải mời ông tham dự v́ đây là người duy nhất đại diện chính quyền nhà nước. Tôn trọng các cụ, ông trưởng thôn chỉ ngồi nghe các cụ luận bàn. Khi được hỏi đích việc, ông chỉ ậm ợ cho qua: - Các cụ tính sao phải lẽ th́ làm. Lệ làng đă có trong hương ước, miễn là không trái pháp luật. Ư kiến của ông trưởng thôn được các cụ hưởng ứng. Cụ tiên chỉ chấn chỉnh y phục, lên hương đèn khấn vái ngài đội Cóc, hỏi ư ngài: - Lạy ngài đội Cóc. Con t́ nữ của ngài trong thôn mang bầu, khai báo với làng là do ngài giúp đỡ. Thật hư thế nào xin ngài chứng vào quẻ keo sấp ngữa chứng minh. Lạy ngài! Khấn xong, cụ nâng khay đĩa xin keo có hai trự tiền đồng lên vái. Mỗi lần vái là mỗi lần gieo quẻ tiền xin âm dương. Lạ thay cả ba lần, hai trự tiền đồng đều nhảy một sấp, một ngữa. Cụ tŕnh cho các bô lăo khác và quả quyết: - Thế là ngài đă chứng giám. Ngài nhận đó là con của ngài. Mấy bô lăo chưa thật tin nhưng không thế nào quy hay giăi tội, cứ lập lờ măi, không quyết được là phạt hay tha cho ả chửa hoang. Chuyện mấy cụ bỏ lửng kết luận cho ả mức án cũng phải thôi. Ai dại ǵ dấn vào một quyết định gọi là để giữ vững lệ làng mà thực thực, hư hư bồng bềnh như mây nổi. Thuật cai trị là thế, dễ làm, khó bỏ lửng cho xong. Mồng mười tháng sau ả chửa hoang ra đ́nh hầu các cụ th́ chẳng có cụ nào hiện diện. Cái án coi như treo măi. Từ khi sự việc ả kia có mang với ngài đội Cóc loan đi, những gái góa, gái không chồng đến cầu con với ngài ngày càng nhiều. Ngày nào cũng có người xách nước trong đến đ́nh cầu ngài đội Cóc để xin nước thánh về làm phép sinh con. Có nhiều trường hợp linh nghiệm được mang bầu. Cũng có người làm măi chưa có kết quả, họ càng ganh ghét ả. Dân làng có người thương t́nh giúp ả như một nghĩa cử làm phúc, biết đâu động đến ngài đội Cóc v́ đứa con trong bụng ả là giọt máu của ngài. Đủ ngày đủ tháng, ả sinh một đứa con trai cũng khộng đến nỗi xấu xí, nếu so với đám trẻ làng. Ả mừng hơn là con ả không nghễnh ngăng như mẹ nó. Thằng bé lớn lên như có sức trời nuôi dưỡng. Nó ăn nhiều, chóng lớn, không bệnh tật èo uột như bao trẻ trai khác. Chỉ điều đó, với những người có đức tin tâm linh dễ dăi, cái lí của ả đưa ra với làng trước đây về chuyện ả có con với ngài đội Cóc càng thêm sức thuyết phục. Một số dân làng trở nên thiện cảm hơn với ả và thường san sẻ rau cháo giúp ả nuôi con. Thằng bé lớn lên trong sự bảo bọc của dân làng. Cuộc đời người đàn bà nghễnh ngăng từng có con với ngài đội Cóc cũng có hậu vận tốt đẹp. Chuyện nghĩ lại cũng trớ trêu. Số là ông trưởng thôn xưa kia trong thời ả mang bầu, từng tham gia với các bô lăo trong hội đồng xử phạt ả, tiết lộ chuyện động trời mà các bà miệng lê đôi mách chốn nông thôn xem như một tin lá cải có giá trị ngàn vàng. Vợ ông chết đă mấy năm rồi, ba người con gái của ông cũng đă có gia đ́nh riêng. Người già cả thường hay nghĩ vẩn vơ. Điều ông lo lắng nhất là sau khi ông chết th́ ai thờ tự cái từ đường này. Con gái ngoại tông, ba đứa con gái ông tuy có hiếu, thương yêu và thường thăm hỏi ông nhưng chúng có gia nương của chúng. Thằng cháu họ ông cho về ở với ông, hi vọng sau này làm người thừa tự th́ là thằng đoản tính, ham chơi cờ bạc, không tin tưởng được. Suy đi tính lại nhiều năm, biết ḿnh không c̣n nhiều thời gian, nhân một buổi giỗ vợ, có đủ con rể, cháu chắt và bà con trong họ, ông tung ra một tin khủng khiếp làm mọi người bàn hoàng. Ông thừa nhận thằng Hữu con ả nghễnh ngăng hoang thai ngày xưa là con của ông. Có người chưa tin, cho là ông nói nhảm. Buổi tiệc giỗ vợ hôm ấy trở thành buổi tiệc ông thú thật sự việc ông phản bội vợ, nhận con ngoại hôn, sự việc mà ông không dám làm khi bà c̣n sống. Ông trưởng tộc đồng trang lứa với ông, có mặt hôm ấy tỏ ra thông cảm cho ông. Ông trưởng tộc thuyết phúc bà con chấp nhận sự thật này để giúp ông toại nguyện. Mấy ngày sau, ông cho bắn tin này đến người đàn bà nghễnh ngăng là mẹ đẻ của Hữu. Căn nhà cḥi của mẹ con ả nghễnh ngăng ở cuối xóm, cạnh bờ tre là ngà ôm sát bờ sông, nơi này ả đă lớn lên cùng bà mẹ đơn thân và đến phiên ả, cũng là người đơn thân nuôi thằng Hữu lớn lên. Khi có người đến nói với ả chuyện gia đ́nh của ông cựu trưởng thôn về việc nhận thằng Hữu là con, ả ngẩn ngơ kia trong phút chốc trở nên tỉnh táo. Ả nhớ lại chuyện hôm ngài đội Cóc linh nghiệm giúp ả có mang thằng Hữu. Đêm ấy là đêm thứ ba ả đến đ́nh cầu xin ngài giúp đỡ. Ả không đến cầu ban ngày v́ là gái chưa chồng mà cầu con th́ sợ dân làng cười chê. Ả đến đ́nh lúc khuya khoắc tối trời, không ai ra đ́nh vào những thời khắc ấy. Ả cầu khẩn ngài đội Cóc, xin nước thánh rửa mắt thần rồi xoa xát từ ngực xuống tận háng. Ả tẩm nước mát người rồi chờ ngài linh ứng. Sau khi lễ xong, ả vái tạ ra về. Sương khuya phủ mát sân đ́nh, lối cỏ. Ở gốc cây sanh góc sân đ́nh, nơi dân làng gởi tống tiễn bao ông táo, b́nh vôi, lư b́nh đất nung... hư vỡ nhiều mùa Tết theo năm cũ đă qua. Các sản phẩm đất nung thành thần đă phế thải ấy chất chồng cao ngất là nơi trú ngụ lí tưởng cho loài cóc nhái. Đ́nh thờ ngài đội Cóc nên dân làng chẳng dám khai thác thực phẩm từ những đàn cóc nhái này. Đó là cơ hội tốt để chúng sinh sôi. Trong lúc ả đang khiếp vía khi đạp phải một con cóc lớn kiếm mồi trong sân đ́nh th́ “ngài đội Cóc” tọa xuống như một bóng đen vần vũ với ả. Ả càng vùng vẫy càng thấy người cứ nhũn ra, rệu ră trong cảm giác đau đớn rạo rực lan tỏa toàn thân. Những nấn ná, cọ xát da thịt nhiệm mầu càng xiết chặt ả càng run rẩy, rũ rượi, rồi lặn vào đê mê ngây ngất. Khi tỉnh lại ả thấy ḿnh trần truồng vội vàng xốc lại áo xống, ngồi thừ trước sân đ́nh tận hưởng những giây phút linh nghiệm thánh thiện như những hạt sương khuya mát lạnh mơn man da thịt. Một cảm giác dễ chịu cứ lâng lâng nửa như ngại ngùng, nửa như thèm muốn; cái cảm giác trong đời chưa lần nào ả có được. Định thần, ả ra về trong nỗi ḷng hí hửng mừng thầm. Và sau lần được “ngài đội Cóc” chứng giám ấy, ngài c̣n tọa về ngay tại nhà ả vào những đêm mưa gió băo bùng. Những khi ấy, trong bóng đen mịt mùng đồng lơa, tiếng thân tre là ngà keo két cọ xát vào nhau chát chúa, tiếng gió vi vu, xào xạc ma quái như âm thanh của quỷ thần khiến ả khiếp sợ th́ “ngài đội Cóc” về với ả. Ngài tọa xuống vội vàng rồi bỏ đi, ả sợ đến phát khiếp không dám có phản ứng ǵ. Ả có mang với ngài và vui vẻ chịu đựng bao tiếng đàm tiếu. Lệ làng không phạt vạ ả và ả cũng không như mẹ ả đối xử với cái thai đến độ gây hậu quả như hôm nay ả phải gánh chịu trong cái thân xác tàn dại này... Thế mà đă hơn 40 năm rồi. Nay tóc ả đă bạc, mắt ả đă mờ nhưng trông đám người vào nhà, ả c̣n nhận ra được mụ Xám cùng xóm với ả, có họ hàng xa với ông cựu trưởng thôn, người ngày xưa hay giúp đỡ ả trong những ngày ả nuôi con khó nhọc.
Hôm người nhà ông cựu trưởng thôn
đến, vợ con Hữu vắng nhà. Nghe chuyện người nhà ông cựu trưởng thôn nói,
ả vẫn cứ mực nói Hữu là con ngài đội Cóc, ả không biết ông cựu trưởng
thôn và Hữu không phải con ông ấy. Hữu th́ bán tín bán nghi, không vội
tin mà cũng không dám chối bỏ sự việc này. Không biết đây là vận may hay
điều xui xẻo cho cuộc đời vốn đă nhiều đắng cay của mẹ con Hữu. Bên Hữu
bây giờ không chỉ có ông và mẹ nó mà c̣n vợ và hai đứa con. Mẹ Hữu đă
già yếu, biết đâu đây là dịp để bà có một chỗ dựa tâm linh khi từ giă
cuộc đời nhiều cay cực này. C̣n đối với Hữu, từ lâu như kẻ ngụ cư ở cái
làng này, không có bà con họ tộc, cũng không có một thước đất thổ cư
chính đáng. Nhà ở chỉ đậu bạt bờ tre làng, nắng mưa bên con nước. Hữu đă
quen và chấp nhận cuộc sống này. Không biết chuyện ǵ sẽ đến khi nhận
làm con cháu ḍng họ người. Tuy vậy, ngày nhà ông cựu trưởng thôn tổ
chức một lễ cúng gia tiên để minh xác ư kiến của ông, được mời, Hữu cũng
đến. Trong không khí trang nghiêm khói hương, đông đủ con cháu cả nhà
ông cựu trưởng thôn, ông trưởng tộc làm lễ cắt máu giao ḥa để xác minh
thực hư sự việc. Khi hai giọt máu từ ngón út của thằng Hữu và của ông
cựu trưởng thôn nặn xuống chiếc cốc thủy tinh trong suốt th́ máu ḥa vào
máu, đông thành một cục nhỏ ở đáy cốc. NGUYỄN VĂN UÔNG
|