Phạm Đức Thân

 

 

ÂM NHẠC

THEO HIỆN TƯỢNG LUẬN VÀ THÔNG DIỄN HỌC

( PHẦN 1 )

 

 


        
 Tư tưởng hiện sinh, hiện tượng luận và thông diễn học về nhiều vấn đề triết học, thần học, lịch sử, ngôn ngữ... đã có từ rất lâu và nội dung thay đổi theo thời gian cũng như khác nhau tùy mỗi người, và chỉ ồn ào thành phong trào sau WWII với các tên tuổi nổi bật: Sartre, Husserl, Heidegger, Merleau-Ponty, Gadamer. Những nhà tư tưởng này có lý thuyết riêng của mỗi người, khác nhau ít nhiều, nhưng về cơ bản có thể xếp chung vào hiện tượng luận. Thuyết lý của họ cũng còn được dùng làm phương pháp nghiên cứu âm nhạc.

 

Hiện tượng luận (HTL) đã được dùng rộng rãi để khảo sát bản thể của nhạc phẩm và cảm nghiệm âm nhạc. HTL chủ trương bỏ qua thiên kiến, tiên niệm, lý thuyết... để nhìn thẳng vào hiện tượng xuất hiện trực tiếp bản nhiên, và chọn lọc những đặc điểm thiết yếu cơ bản để có quy giản bản chất (eidetic reduction); tức là HTL từ miêu tả (descriptive) qua bản chất (eidetic) và sau cùng đến cấu tạo (constitutive). Như thế mới nắm bắt được đối tượng qua những mức cảm nhận diễn ra trong thời gian. Và đó là nhờ ta có ý thức thời gian nội tại (internal time consciousness). Thời gian HTL này, khác thời gian thiên văn, có 2 đặc tính là lưu giữ ký ức (retention) và dự báo tương lai (protention) khiến khi ta chú ý vào đối tượng, cảm nhận không gián đoạn mà liên kết thành một tổng thể hoàn chỉnh.

Nghe nhạc không phải cảm nhận cả giai điệu ngay một lúc. Thực tế là nghe từng nốt nhạc một, nốt trước được lưu giữ trong ký ức và dự báo nốt tương lai tiếp theo, cứ vậy cho đến hết giai điệu. Cảm nghiệm được nốt dự báo là nhờ truyền thống văn hóa âm nhạc đã ăn sâu trong đầu óc và có thể nối kết các nốt này thành giai điệu có ý nghĩa đầy đủ. Thế nhưng sách nhạc truyền thống cổ điển dạy nghe nhạc phải chú ý đến lên bổng xuống trầm, mạnh yếu, nhanh chậm, cấu trúc các đoạn các câu... Việc này thật ra chỉ thực hiện được sau khi đã nghe quen giai điệu.

Quả thật ấn tượng đầu tiên nghe nhạc là cảm xúc, vì nhạc là nghệ thuật trình diễn âm thanh. Có âm thanh mới có nhạc. Và nhạc này đập vào tai trước nhất qua cảm nhận tâm sinh lý đặc thù của giọng ca sĩ hoặc của âm sắc nhạc cụ, cho nên tạo ngay được tác dụng biểu cảm, thích hay không... Thành thử cùng bài hát, nhưng ca sĩ có chất giọng hay, hoặc đặc biệt (vd. giọng hát xẩm của Khánh Ly, trầm ấm như Lệ Thu), là bài hát dễ được yêu thích hơn. Không có chuyện giai điệu xuất hiện trừu tượng, khơi khơi (trừ trường hợp nghe trong đầu) mà luôn luôn phải qua giọng hát hay nhạc cụ.

Mặt khác, người là sinh vật ở đời và với người khác, không thể nghĩ khác đi được về bản chất hiện hữu của mình, và từ môi trường văn hóa, truyền thống đó, lý giải hiện tượng chung quanh để tìm hiểu, liên hệ, thông hiểu. Thông diễn học (TDH) là thông đạt, tương tác lẫn nhau qua diễn dịch, lý giải chứ không phải truyền thông một chiều mà tương tác hai chiều để đi đến thông hiểu. Chủ thể thông truyền khách thể, và khách thể cũng trở thành chủ thể thông truyền lại. Việc này thực hiện được là nhờ có những giả định (assumption) về khái niệm và ý nghĩa trong truyền thống văn hóa, tạo nên vòng thông diễn (hermeneutical circle) khiến cho có thể đối thoại với nhau.

Hoạt động âm nhạc diễn ra nhờ 3 tác nhân: nhạc sĩ viết nhạc, ca sĩ hát hoặc cầm thủ diễn tấu, và thính giả nghe thưởng thức.
 

Theo truyền thống cổ điển Tây Phương, nhạc sĩ và nhạc phẩm là độc lặp, tối thượng. Ca sĩ hoặc cầm thủ có bổn phận phải thật trung thành với nhạc phẩm, và chỉ là người trung gian có nhiệm vụ truyền đạt đến thính giả. Thính giả cũng có một trách nhiệm đạo lý là nghiêm túc lắng nghe, không ho hen cục cựa.

Nhạc cổ điển Tây Phương đồ sộ, hoành tráng, với một lịch sử huy hoàng dài mấy trăm năm, nhiều nhạc sĩ giỏi, nhiều tác phẩm hay, nhiều nhạc cụ âm sắc đa dạng, nhiều nghiên cứu lý thuyết sâu sắc... trấn áp các nền âm nhạc khác và nhờ chế độ thực dân ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới, trở thành bá quyền và được các nước du nhập. Mặc dù mấy chục năm gần đây với phát triển của nhạc kỹ thuật âm thanh điện tử, nhạc quốc tế, nhạc đại chúng, nhạc tiên phong (avant-garde)... nhạc cổ điển Tây Phương tuy có sút giảm nhưng lý thuyết đã ăn sâu và rộng khắp nên ảnh hưởng còn mạnh. Khảo hướng HTL và TDH góp phần xét lại, bổ túc một số khái niệm để có thể miêu tả chính xác hơn hiện thực âm nhạc.

Trong 3 tác nhân nói trên, quan trọng nhất thật ra là trình diễn, vì nhờ trình diễn mới có âm thanh, mới có nhạc, mới có thính giả. Nếu không tác phẩm chỉ là nhạc chết, nhạc giấy, nằm trong bảo tàng viện âm nhạc. Trình diễn là khâu quản lý kho tàng âm nhạc, có trách nhiệm vô cùng lớn lao là làm sống lại các tác phẩm truyền thống để lại. Mặc dù trình diễn phải trung thành với nhạc phẩm, nhưng nhạc phẩm gồm những ký âm không đầy đủ, thiếu chính xác, đã để chừa một số bất định này cho phép trình diễn tự do quyết định bổ túc. Thành thử trình diễn có đóng góp rất lớn vào sáng tác để cho nhạc phẩm luôn luôn có sắc thái mới mẻ, sinh động.

Stravinsky muốn nhạc phẩm của mình được trình diễn phải thật trung thực đã cố gắng ghi cặn kẽ từng chi tiết, nhưng vô ích vì vẫn còn những thiếu sót trình diễn phải bổ túc. Trái lại Rossini để nhiều tự do cho trình diễn các opera của mình. Trình diễn nhạc jazz nhiều phần là ứng tác, ngẫu hứng. Wynton Marsalis chê cầm thủ hòa tấu cổ điển là nghệ nhân (artisan) cầm thủ jazz mới là nghệ sĩ (artist) - tuy nhiên khi trình diễn nhạc Duke Ellington ông lại trung thành triệt để.

Bruce Ellis Benson, ngoài ứng tác do bản phổ bất toàn, đã liệt kê thêm vài đóng góp ứng tác của trình diễn đối với nhạc phẩm:

1/ thực hiện ngón láy (trill) hoặc bè trầm có ký hiệu số (figured bass) trong nhạc thời Trung Cổ, Phục Hưng, Baroque...là chỉ dấu của hòa âm ẩn tàng mà trình diễn phải ứng tác lấp đầy:
2/ thêm trường canh hoặc đoạn nhạc vào tác phẩm. Thời Baroque và Cổ Điển có thói quen trình diễn ứng tác hay sáng tác câu kết (cadenza) của mình vào tác phẩm (sonata, concerto...) của người khác
3/ cải soạn sang môi trường khác (giọng hát thành nhạc cụ, violon sang piano...) nhiều khi do chính tác giả gốc tự cải soạn (vd. Bach). Cải soạn cần giữ lại giai điệu và hòa âm gốc, chỉ đổi thay cần thiết cho phù hợp tính năng của môi trường mới.
4/ thay đổi bản phổ về số lượng nhạc cụ của nhạc hòa tấu, giao hưởng (concerto, symphony) cũng như số trường canh, số đoạn nhạc... tùy nghi theo hoàn cảnh. Các nhạc trưởng giàn nhạc thường sử dụng cho phép này.
5/ thay đổi triệt để dưới nhiều dạng, có khi khó nhận ra bản gốc. Điển hình là nhạc jazz, opera...Và rất phức tạp, đa dạng khó có thể liệt kê cụ thể ở đây.

Một đóng góp đặc biệt của trình diễn vào sáng tác là trường hợp nhạc tương tác, tình cờ, ngẫu nhiên, bất định (interactive, chance, aleatory, indeterminate) mà một số tác giả thế kỷ XX thường thử nghiệm, đòi hỏi trình diễn và có khi cả thính giả tham gia làm nhạc. Một vd cổ điển là Trò Chơi Nhạc Gieo Xúc Xắc (Musicalishches Wurfelspiel) thường gán cho là của Mozart, đòi hỏi người chơi gieo xúc xắc để sáng tác những bản waltz, menuet ngắn.

Tóm lại, trình diễn rất quan trọng, là khâu bảo tồn và hồi sinh âm nhạc, tương tác với nhạc sĩ và thính giả, giữ cho hoạt động âm nhạc được liên tục, sống động. Không được trình diễn âm nhạc chỉ là nhạc chết trong viện bảo tàng. Ca sĩ, cầm thủ, nhạc trưởng còn là thần tượng của nhiều người. Thính giả đi nghe nhạc nhiều phần là vì họ. Nhìn sang nhạc pop, vd nổi bật mới nhất là nữ ca sĩ Taylor Swift trình diễn trước số thính giả đông hàng trăm ngàn. Còn bên nhạc cổ điển lâu nay hoạt động có vẻ im ắng, do cạnh tranh của các loại hình âm nhạc quốc tế, điện tử, pop, rock..Nhưng gần đây tuyệt kỹ piano của Lang Lang và Yuja Wang đã lôi kéo được một lượng lớn thính giả khiến nhạc cổ điển đã có phần khởi sắc trở lại. Cho thấy trình diễn và thính giả là 2 tác nhân tương tác chủ yếu trong hoạt động âm nhạc.

Mặt khác thính giả vô cùng quan trọng vì chính họ là đối tượng của âm nhạc. Nhạc sáng tác là để nghe, không có thính giả thì nhạc hiện hữu làm gì. Trừ rất ít người (như Milton Babbitt) sáng tác chỉ để cho số ít bạn bè hay người đồng điệu, hoạt động âm nhạc sinh tồn nhờ có trình diễn hay và lôi cuốn đông đảo thính giả. Họ là những phê bình gia chung thẩm, bỏ phiếu bằng chân.

 

Nhạc dở, không có thính giả đi nghe nhạc. Biết bao nhiêu bản nhạc không hay, trở thành nhạc giấy, không ai trình diễn, không ai nghe. Thính giả chính là động cơ để tác giả phải cố viết nhạc cho hay; ca sĩ, cầm thủ phải gắng trình diễn cho giỏi, làm mới, làm tăng giá trị nhạc phẩm. Bảo họ là chủ nhân ông của âm nhạc không phải là ngoa.

Bản năng nghe của người không chỉ ở óc mà còn ở thân xác. Nên nhớ người nhẩy múa trước hết, rồi sau đó mới có nhạc. Nhạc các dân tộc, nhạc Nam Mỹ, nhạc rock, rap, hiphop...thường có tham gia của thính giả. Nhạc cổ điển dạy thính giả ngồi im lắng nghe, không cục cựa là quá đáng, nếu không muốn nói là bất hợp lý, phản tự nhiên. Hãy trả lại cho thính giả vai trò chủ động vì họ có tương tác với tác giả và trình diễn để kích thích, làm đẹp, làm giầu cho âm nhạc.

Sáng tác thường có huyền thoại: nhạc bất ngờ nổi hứng trong đầu, như thể từ trên trời rơi xuống, và chỉ việc ghi ra giấy. Thật ra, nhiều phần là có động não liên tục, nung nấu trong tiếm thức trước, rồi dần dà thử nghiệm mới có nhạc phẩm hoàn chỉnh. Thông thường thoạt tiên chỉ là đột nhiên xuất hiện vài nốt nhạc. Rồi do truyền thống văn hóa, kinh nghiệm âm nhạc, tích lũy được một số vốn trong đầu, nay gạn lọc đem ra áp dụng để sáng tác tiếp. Thành thử thường thấy đôi khi nhạc tác giả này na ná nhạc tác giả kia. Đây không phải là đạo nhạc, mà là ảnh hưởng của tiềm thức; và đàng khác hình như có những nét nhạc cơ bản phổ quát tiềm ẩn trong đầu mỗi người, rất dễ bung ra khi có dịp. Irving Kolodin (The Continuity of Music) đã nhận diện những trùng lặp một số nét nhạc trong tác phẩm của nhiều nhạc sĩ, và đi đến kết luận đó là tính liên tục của âm nhạc.

Sáng tác tiếp theo, từng bước một, nhạc sĩ đàn hoặc hát tới lui, lắng nghe xem hay dở thế nào, có cần thay đổi gì không. Tất nhiên trong khi thử nghiệm như thế, có xen kẽ những ứng tác khả hữu để chọn lựa nếu cần. Nghĩa là sáng tác không là khâu độc lập mà bao gồm cả ứng tác, trình diễn và lắng nghe hay dở, tương tác với thính giả tương lai vì chính họ quyết định thành công hay thất bại của nhạc phẩm. Nếu sau khi đã hoàn thành nhạc phẩm rồi mà lúc tự trình diễn, lắng nghe nhận định, nếu không ưng ý, có thể xóa bỏ toàn bài hay một phần. Bản thảo của Beethoven cho thấy có bài ông sáng tác thật vất vả, dập xóa lia lịa.

Ngay như khi bản nhạc đã hoàn chỉnh, đem trình làng, và được người khác trình diễn, nếu thấy có chỗ bất ưng, vẫn có thể sửa lại. Nhạc phẩm, giống như một bản dịch, rất khó ưng ý hoàn toàn, là một tác phẩm mở, luôn luôn có thể điều chỉnh. Chưa kể, nói theo triết học, phân biệt một thực thể lý tưởng, trừu tượng là loại (type - vd. xe hơi) với thể hiện vật chất, cụ thể của nó là mẫu (token - vd. Camry) thì tương tự, có thể bảo bản nhạc cuối cùng cũng chỉ là một loại (type), các trình diễn khác nhau do bản phổ bất toàn, xuất hiện tiếp theo sau cũng sẽ chỉ là những mẫu (token). Cho thấy sáng tác, cũng như nhạc phẩm không phải là độc lập, tuyệt đối, tối thượng mà có liên quan tới ứng tác, trình diễn, lắng nghe...Nhạc phẩm là một tác phẩm mở, trừu tượng, cho nên triệt để trung thành khi trình diễn, như truyền thống cổ điền đòi hỏi, là điều bất khả.

Trên đây là tổng quan về 3 khâu sáng tác, trình diễn và lắng nghe đã tương tác đối thoại với nhau như thế nào trong hoạt động âm nhạc. Chúng không phải biệt lập như truyền thống cổ điển quan niệm. Phần tiếp theo là trình bầy kiến giải về âm nhạc của vài nhà nghiên cứu HTL và TDH điển hình. Riêng Roman Ingarden đã được đề cập khá đầy đủ khi bàn về bản thể của nhạc phẩm trong bài:
http://art2all.net/tho/phamducthan/pdt_nhacpham_SuoiMo_latuongtuong.htm


Xin mời đọc để hiểu rõ hơn vấn đề và tiện theo dõi phần tiếp theo:

http://art2all.net/tho/phamducthan/pdt_amnhac-theoHienTuongLuan-ThongDienHoc_p2.htm

 


Phạm Đức Thân

 

 

 

 

 

art2all.net