Phạm Đức Thân
ÂM NHẠC
THEO HIỆN
TƯỢNG LUẬN VÀ THÔNG DIỄN HỌC
( PHẦN 2 )

Phương
pháp Hiện Tượng Luận (HTL) có thể áp dụng vào nghiên cứu sáng
tác, trình diễn và nghe nhạc. Về mặt sáng tác Roman
Ingarden bàn khá đầy đủ về bản thể của nhạc phẩm cổ điển
Tây Phương, và đã được đề cập trong một bài trước. Nay chỉ
xin tóm tắt: theo ông, nhạc phẩm ở trên và ở ngoài bản phổ
và trình diễn. Nó là một thực thể lý tưởng ta không thể
biết cụ thể, mà chỉ biết qua bản phổ (do hạn chế của các
dấu hiệu ký âm, đã chừa một khoảng không gian bất định cho
trình diễn tự do lấp đầy) và trình diễn (bất cứ lúc nào
và tại đâu); nhờ vậy mới có nhạc xuất hiện cho thính giả
nghe. Vd. Nhạc phẩm Suối Mơ là một loại trừu tượng (type) và
trình diễn của Lệ Thu, Thái Thanh...chỉ là những mẫu cụ
thể (token) và bản phổ (nxb Tinh Hoa, trong tập nhạc Văn Cao,
hay online) chỉ là bảng chỉ dẫn làm căn cứ cho trình diễn
không được đi quá xa ý định của Văn Cao, chứ không phải là
nhạc phẩm.
Với tư cách là thính giả, đa số quan tâm đến trình diễn và
nghe nhạc nhiều hơn là sáng tác, và đây cũng là khuynh
hướng HTL sau này của một số học giả.
Từ xửa xưa thị giác luôn luôn được xếp đứng đầu, vì nhìn
không gian chung quanh mới nhận thức được mọi vật để thông
hiểu. Ngôn ngữ xuất hiện, trước hết là các từ cụ thể.
Dần dần các từ có tính thị giác và không gian này (vd. cao
- thấp, vơi - đầy, đó - đây) được sử dụng ẩn dụ sang các
địa hạt trừu tượng, vô hình (vd. cao hứng, đầy tình cảm,
buồn còn đó). Vật hoặc hành động diễn ra trước mắt gọi
là "hiện tượng"; từ này sau đó được dùng ẩn dụ, rộng rãi
bao gồm cả cái gì trừu tượng, vô hình. HTL là lý giải bất
cứ sự viêc, vấn đề ǵ, cụ thể hay trừu tượng. Tuy nhiên âm
nhạc là trừu tượng, vô hình.
Muốn tỏ ra triệt để và để
cho chính xác hơn, F. Joseph Smith (The
Experiencing
of Musical Sound) đề nghị thay thế hiện tượng luận
(phenomenology) bằng âm tượng luận (akumenology) khi nghiên cứu
về âm nhạc.
Theo ông, nghe nhạc là nghe những chuỗi âm thanh hiện tại liên
hệ mạnh mẽ với quá khứ (qua ký ức ngắn hạn) và tương lai
(qua tiên đoán). Lưu giữ và dự báo tổng hợp với nhau cho
một ấn tượng âm thanh ban đầu không có tính tri thức. Tai mở
ra đón nhận trước hết đã, rồi sau óc mới nhận định, xếp
loại. Quan niệm này trái với truyền thống cổ điển áp dụng
lý thuyết ngay từ đầu, khiến mất đi cảm nhận sống động
hiện thực của giác quan. Nó cũng chính xác hơn quy giản bản
chất (eidetic
reduction) của Husserl, vì nhạc là âm thanh, loại bỏ âm là
tiếng ồn, chỉ giữ lại âm là nhạc, thì nên gọi là quy giản
âm thanh (echotic
reduction).
Âm nhạc là một cảm nghiệm cộng đồng, liên chủ thể, hòa
chung cảm xúc tiền tri thức của người nghe với tác giả,
trình diễn, và những thính giả khác.
Âm nhạc đòi hỏi đối thoại,
tiếp nhận, thông diễn. Âm lạ tai của người khác mời ta tham
gia, chia sẻ với thế giới, vượt ra ngoài bản thân, chìa tay,
trải lòng với tha nhân. Giống như một ban tứ tấu, mỗi phần
tử dù có giỏi độc tấu, phải từ bỏ tự do của mình, hợp
tác để đi đến thành quả tốt đẹp sau cùng. Tất nhiên, âm
nhạc còn nhận được đóng góp của thính giả trong tiến trình
làm nhạc v́ họ là một tác nhân hoạt động: nhạc chỉ là
nhạc khi đang được nghe.
Đón nhận của thính giả là
một liên hệ cần thiết cho hoạt động của nhạc sĩ. Mở rộng
thông diễn học của Heidegger, Smith đã đào sâu và quảng diễn
suy nghĩ về cảm nghiệm âm nhạc một cách đầy ý nghĩa.
Nhiều phần giống Smith, Don Ihde (Listening and Voice) phê bình
truyền thống Tây Phương chủ nhiều về tính thị giác. Trong
viễn tượng này, Tây Phương đã gặt hái nhiều thành quả, nhưng
đã chỉ chú ý tương đối đến cảm nghiệm sung mãn của các
tác nhân, vd như cái phong phú không kém của nghe nhạc. Ông
phân biệt HTL1 chú ý đến phong phú của cảm nghiệm và HTL2
chú ý đến tính lịch sử thiết yếu của cảm nghiệm đó.
Từ ý thông diễn của Heidegger ông chỉ ra cho thấy âm thanh và
âm nhạc chỉ có ý nghĩa trong môi trường, tức thế giới, và
như vậy được cảm nghiệm, thông truyền qua văn hóa và lịch
sử. Chịu ảnh hưởng của Merleau-Ponty ông nhấn mạnh đến khía
cạnh biểu hiện âm nhạc tác động trên thân xác và gọi cảm
nghiệm đó là "nhẩy múa" (dance): âm nhạc lôi cuốn, thúc
giục người ta nhẩy múa, nghe với toàn thân, chứ không chỉ
với tai và óc. Dấn thân và tham gia mới là trạng thái đúng
trong môi trường âm nhạc.
Âm nhạc ghi âm ngày nay phát thanh cùng khắp và liên tục
không ngừng, ít có nhạc sống trình diễn. Kỹ thuật điện tử
hiện đại thay đổi thị hiếu âm nhạc. Tiến bộ của ghi âm
thuận tiện cho loại nhạc ồn ào kích động như pop, rock...
vì âm thanh là điện tử, khuếch đại, âm sắc nhạc cụ mờ
nhạt vì bị khỏa lấp, nhạc ghi âm phản ánh được nhạc hiện
thực, lại được truyền bá rộng rãi dưới mọi hình thức, cho
nên được đông đảo dân chúng hưởng ứng, nhất là giới trẻ, và
chiếm thị phần rất lớn trong thế giới âm nhạc. Nhạc cổ
điển dẫu sao cũng đòi hỏi thính giả một chút hiểu biết
để thưởng thức, chú ý đến giọng của ca sĩ, ngón đàn
tuyệt vời của nhạc sĩ và âm sắc đa dạng của nhạc cụ, cho
dù ghi âm cẩn trọng đến mấy, vẫn làm mất ít nhiều tính
cách đặc thù này, khiến cho thiếu hấp dẫn và ít thính
giả hơn. Dĩ nhiên cảm nhận nghe nhạc sống 2 loại này cũng
khác nhau, một phần do môi trường: ồn ào, khuếch đại điện
tử của rock, pop và nghiêm túc trầm lặng của cổ điển.
Đã hẳn âm nhạc chẳng phải khi không xuất hiên mà từ một môi
trường văn hóa, lịch sử. Quan tâm đến điểm này Lawrence
Ferrara (Philosophy and the Analysis of Music) đề nghị một khảo
hướng toàn diện (holistic) cho âm nhạc, kết hợp 3 phương
pháp:
- HTL Miêu Tả: mô tả cảm nghiệm âm nhạc hiện thực trong thời
gian. Âm nhạc là một đối tượng, khách thể đang diễn ra trong
không-thời gian. Phải gạt sang một bên các giả định, tiên
niệm để nắm bắt trực tiếp bản nhiên của âm nhạc
- HTL Thông Diễn: giải thích các bối cảnh khác nhau âm nhạc
xuất hiện và được cảm nghiệm. Có thế mới hiểu được thế
giới riêng biệt của sáng tác, trình diễn và lắng nghe,
cũng như tương tác giữa chúng.
- Hình Thức Quy Ước: phân tích hình thức âm nhạc theo lý
thuyết truyền thống để hiểu cấu trúc bản nhạc.
Ba phương pháp không cạnh tranh mà bổ túc nhau. Khảo hướng
có tính cách toàn diện hay chiết trung (eclectic), cho thấy
được các ý nghĩa nhiều tầng bậc của tác phẩm, khiến cho
nó có thể tự hiển lộ bản thể để ta nắm bắt. Tuy cũng
còn có một chút trừu tượng, lý tưởng về mặt nào đấy,
nhưng khảo hướng này không tách nhạc phẩm ra khỏi bối cảnh
lịch sử, thời đại, văn hóa của nó. Khảo hướng chiết trung
gồm 10 bước:
1/ xem xét hoàn cảnh lịch sử của tác phẩm trong bối
cảnh lịch sử âm nhac và vị trí của nó trong toàn bộ tác
phẩm của nhạc sĩ
2/ nghe tới lui để có một khái niệm sơ về cấu trúc
cơ bản của nhạc phẩm
3/ chú ý cẩn thận đến quy phạm, tác phẩm được cấu
trúc như thế nào
4/ miêu tả HTL trong khi nhạc đang thực sự diễn ra, quên
đi lý thuyết này nọ
5/ tìm xem nó có biểu thị cái gì, qua soát xét ưu
khuyết của các bước vừa thực hiện
6/ xét cách nó biểu thị tình cảm, cảm xúc như thế
nào.
7/ chú ý đến nó đã xuất hiện như thế nào vào thời
điểm lịch sử của nhạc sĩ.
8/ nghe lại, chú ý xem kết quả các bước trên có cho
cảm nghiệm mới khác .
9/ lập bản hướng dẫn trình diễn và nêu lên thông điệp
của nhạc phẩm.
10/ tự kiểm điểm toàn thể diễn trình, ưu khuyết điểm
của phương pháp qua các bước thực hiện và chúng tương tác
ra sao. Cân nhắc xem kết quả có xác thực và thích hợp với
nhạc phẩm đang phân tích.
Kết quả là một miêu tả toàn diện đầy đủ của tác phẩm về
nguồn gốc, bản thể vá tác dụng trên thính giả. Phương pháp
có tính thông diễn vì mặc nhiên công nhận nhạc phẩm không
thể xét tách rời khỏi bối cảnh văn hóa, lịch sử của nó,
và miêu tả cũng như cảm nghiệm nó, không thể tránh được,
cũng chỉ là thông diễn, lý giải chịu ảnh hưởng của bối
cảnh văn hóa, lịch sử hiện tại. Cái bối cảnh sau có thể
tác dụng đến cái gọi là loại (type), nhạc phẩm lý tưởng,
trừu tượng đang phân tích. Và các trình diễn, cảm nghiệm
nhạc phẩm sau này sẽ là những mẫu (token) có thể mới lạ.
Cho thấy nhạc phẩm chỉ là cái bắt đầu qua bản phổ và đời
sống của nó thay đổi theo thời gian tùy bối cảnh, mà xuyên
suốt lịch sử của nó là bản tính ứng tác, ngẫu nhiên của
hoạt động âm nhạc
Cũng còn một vài nghiên cứu HTL âm nhạc của các tác giả
khác như Victor Zuckerkandl, Thomas Clifton, Judy Lockhead...
thường dựa vào Husserl, Heidegger, Merleau-Ponty cho nên có phần
nào tương tự với các tác giả trên, mặc dù cũng có những
khác biệt. Tuy nhiên phạm vi bài không cho phép giới thiệu
tiếp. Vậy có thể tạm kết luận ở đây:
Phương pháp HTL chú ý đến
cảm nghiệm âm nhạc, hơn là phân tích bản phổ. Cảm nghiệm
này thể hiện đầy đủ qua tim óc cũng như thân xác. Sáng tác
nhạc cơ bản là liên chủ thể và trình diễn có liên hệ đến
bối cảnh văn hóa, lịch sử. Hiểu được truyền thống và các
tiên niệm đặc biệt về sáng tác, trình diễn và lắng nghe
của nhiều loại nhạc cho phép ta tham dự các hoạt động âm
nhạc khác nhau. Chỉ khi được đặt trong bối cảnh của nó thì
âm nhạc mới được cảm nhận, thưởng thức và đánh giá đầy
đủ.
Phạm Đức Thân
art2all.net
|