Song Nhị

LỜI RAO GIẢNG CỦA THƠ

 

 

 


Phan Bá Thụy Dương


“Tiếng hót loài chim di”

 

hay lời chân ái từ Song Nhị



 

Như những lời ru êm đềm, tha thiết, Tiếng hót loài chim di của Song Nhị đă vượt thoát, vươn lên từ vực thẳm vắng lặng bằng những thanh âm ngọt ngào. Cũng như Tiếng hờn chiến mă và Về lối đi xưa – 2 thi tập trước của tác giả– sự ra đời của THLCD vừa qua cũng đă được giới thưởng ngoạn thi ca tại miền Thung lũng Hoa vàng và các trung tâm sinh hoạt Văn học Nghệ thuật hải ngoại ưu ái tiếp nhận với nhiều thiện cảm.

Tập thơ dày 214 trang với 80 bài thơ. Tranh b́a là một họa phẩm màu của Trần Hoài. Phụ bản gồm 2 bức tranh của họa sĩ Đằng Giao và bức Giặt lụa của Thanh Trí, cùng thủ bút bài thơ: “Nếu anh c̣n trẻ” [sáng tác năm 1941] của Hoàng Cầm, do ông chép lại và thân ái đề tặng SN. Bài thơ này do con gái thi sĩ HC sau khi về thăm quê hương, đem sang trao cho tác giả THLCD vào giữa mùa hè 3 năm trước. Thi sĩ HC là một trong những nhân vật chủ yếu như: Phan Khôi, Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt, Nguyễn Hữu An… đă bị nhà nước miền Bắc kết tội, thẳng tay triệt hạ vào tháng 6/58 trong vụ án Nhân văn Giai phẩm. Chắc hẳn người đọc chưa quên sự kiện quan trọng, gây chấn động lớn trong lịch sử văn học này. SN t́nh cờ đọc được vài số NVGP vào năm 1958 sau 4 năm lưu lạc bên Lào cùng với gia đ́nh để trốn chạy thảm họa “cải cách ruộng đất”. SN đă say mê đọc các tập san đó khi được anh TKC, một trong những sinh viên Hà Nội đă vượt biên sang Lào sau vụ NVGP, trao cho.

Không biết thơ, văn và các bài viết của những vị tiền bối kia liệu có ảnh hưởng, tác động ǵ sâu đậm đến tâm hồn chàng thanh niên trẻ tuổi sớm lưu vong ấy không, mà năm 60, sau khi từ Lào về Sài G̣n để tiếp tục học hành, anh đă bắt đầu làm thơ, viết văn, làm báo. Từ báo tường, báo học tṛ, báo sinh viên, đặc san, đến nhật báo, nguyệt san. Anh luôn hăng say hoạt động nghệ thuật, khi với tư cách cộng tác viên, khi với tư cách người chủ trương. Những đam mê thường hằng về văn chương, chữ nghĩa kia như một mục tiêu tối thượng, như một nghiệp dĩ, đă đeo đuổi cả cuộc đời anh. Ở trường học, ở cơ quan, hay trong quân ngũ, công việc của anh lúc nào cũng dính liền với báo chí, với thơ. Ngay cả trong 10 năm nhục nhằn lao dịch ở các trại tù từ Nam ra Bắc, anh cũng âm thầm, lén lút làm thơ. Vừa đặt chân sang Mỹ theo diện H.O chưa được bao lâu, anh đă đứng ra thành lập cơ sở xuất bản Thi văn Cội nguồn. Sau khi TVCN ổn định, anh lại tập họp bằng hữu và cùng với nhà văn Trần Anh Lan chủ trương biên tập nguyệt san Văn học Nghệ thuật: Nguồn. Riêng anh c̣n đảm nhận thêm việc phụ trách trang VHNT cho một tờ tuần báo ở SJ – CA.

Cảm giác đầu tiên đến với tôi khi đón nhận THLCD là vẻ mỹ thuật, sự trang nhă qua lối tŕnh bày và kỹ thuật ấn loát, do chính tác giả tập thơ sắp xếp chăm sóc. Xen kẽ trong những bài thơ c̣n có nhiều tranh họa nhỏ, nên thơ - mà giới làm báo, thợ sắp chữ ngày trước thường gọi là vignette, mang thi vị Á Đông. Khi nói về thơ của tác giả THLCD, một thi sĩ nổi tiếng của miền Nam đă từng nhận định:

“Đă ba bảy lượt giật ḿnh, xúc động trong cơi đi về, rơ ràng ở SN phải có một tâm cảm sáng tạo nhạy bén, góp nhặt chắt chiu từng khổ đau làm thành chất liệu cho thi ca, nghệ thuật khởi lừng hương sắc. Thơ Song Nhị từ THCM đến VLĐX đă bước sâu vào tư tưởng lạc quan của thân phận con người, dù con người đă mất mát, thua thiệt v́ cái ác, cái xấu đang ngự trị. Ư thức t́m về của SN lồng lộng, vượt lên những hệ lụy hiện tại, quá khứ và tương lai, không câu thúc đời thường, bằng cơi tâm không biên giới, hào hiệp, thanh cao.” (Diên Nghị)
 

Một nhà phê b́nh khác ở Pháp nhận xét:

“Thơ Song Nhị là loại thơ chiến đấu, không phải cổ vũ đấu tranh v́ hận thù mà chiến đấu cho một lẽ sống không c̣n gian trá, giả h́nh, một cảnh sống trong t́nh thương, trong Lẽ Thật, trong cái “ĐẸP” của t́nh người đôn hậu, thuần nhiên, chiến đấu cho một cảnh đời ngọt ngào ân ái, luôn luôn an b́nh, hạnh phúc, đâu đâu cũng là Đất Trời Quê Hương, luôn mùa Xuân hoa nở... Ngoài một số bài ngậm ngùi về cảnh phải “ngă ngựa” và một số bài nói về cảnh “đổi đời tê tái” của CS phủ trùm lên đất nước, nhân dân, nh́n chung, thơ SN luôn luôn nói đến “t́nh người”, không chỉ giới hạn nơi những mối t́nh tha thiết cao quí ai cũng hằng mong trong cuộc sống hằng ngày (yêu cha mẹ, chồng vợ, con cái, bạn bè, yêu Tổ quốc, nhân dân…) mà c̣n hướng đến một t́nh yêu thăng hoa của con người cùng cuộc sống, cuộc đời để cả mặt đất b́nh yên, cả nhân loại không c̣n bóng tối quỷ ma…” (Nguyễn Thùy)

THLCD gồm nhiều thể loại, từ tứ ngôn, ngũ ngôn, lục bát, thất ngôn, bát ngữ, đến những bài thơ tự do, phá thể, phá cách… Ngoài ra, trong tác phẩm c̣n có một số bài Đường thi anh đă họa lại những bài của các thi hữu… một ít thư họa cùng 4 bài thơ được chuyển sang Anh ngữ. Tác phẩm mới này cũng do cơ sở Thi văn Cội nguồn ấn hành.

THLCD chất chứa đầy những tiếng kêu gọi, mời mọc, gởi gắm thân thương của một di điểu đă phải đành ḷng từ bỏ chốn thân yêu cũ, nơi đă từng là chiếc nôi êm ấm cưu mang nó suốt nửa cuộc đời.

 

1. Thân phận, chuyện ḿnh & chuyện nước non - qua THLCD
 

Xin hăy cùng người viết dành chút ít thời gian tĩnh lặng để đi vào thế giới nhỏ bé riêng tư, cô đọng, nhưng đa dạng của tác giả THLCD, để cùng lắng nghe những tiếng ḷng vang vọng, bay bổng, lăng đăng trên một chân trời bao la, to lớn hơn của quê hương qua một số bài tiêu biểu đầy âm điệu và màu sắc của SN.

“Tôi ngồi giở những trang đời đ̣i đoạn – t́m lại ḿnh trong đống bụi thời gian – buổi mưa nắng nhuốm vàng phai mái tóc – thời binh đao một thuở măi kinh ḥang –… Tuổi lên tám tôi mơ làm chim hót – chạy nô đùa bên khóm trúc bờ ao – đọc từng chữ trang Cờ Lau Tập Trận – học thuộc ḷng t́nh tự mỗi ca dao – Thuở lên mười tôi mơ làm tráng sĩ – tuốt thanh gươm Phù Đổng vượt băng ngàn – con ngựa sắt vung roi vào chiến trận – lũ rợ Hồ ngh́n vạn đứa xác tan – Tuổi thơ tôi bềnh bồng như bọt sóng – lại in hằn thương tích khó mờ phai - cuộc đấu tố, cuộc thanh trừng giai cấp – cướp của giết người giữa chợ ban mai – Nước mắt chảy theo gia tài khánh kiệt – áo mẹ tôi loang máu giữa đấu trường – tôi xé ruột gào lên lời thống thiết – ôi, đồng bào! ôi, Tổ quốc! Quê hương! – Tôi trốn chạy một thời man rợ đó – bỏ xóm làng nơi cắt rún chôn nhau – như cánh chim suốt một đời lưu lạc - mỗi chặng đường mỗi cảm giác buốt đau -… Hai mươi năm mịt mù trong lửa khói – máu chảy thành sông xương trắng bạt rừng – đem dân đen nướng trong ḷ lửa hận – cả nước thành trại cải tạo tập trung – Tôi lại sống những năm dài quằn quại – lê xác thân tàn tạ chốn lao tù – tuổi xuân tôi tàn phai theo vận nước - tàn theo từng ác mộng chốn thâm u.”

[trích “Kư ức những trang đời”, trang 46]

Trong ḍng sinh mệnh đa đoan, nhiễu nhương của những ngày đầy biến động, lao đao cũ, SN đă nhiều lần phải lẩn trốn tai ương ác nghiệt… Anh luôn hướng mắt, t́m về miền đất ấm với những hoài băo, tin yêu mới. Từ những ư thơ trong sáng thể hiện qua từng câu, từng chữ trong THLCD, người đọc có thể hoặc nhận ra bóng dáng, cuộc đời ḿnh phản ảnh đâu đó, hoặc được dẫn dụ, lôi cuốn bởi những cảm xúc sâu xa qua những ḍng thơ của SN. Chính yếu tố này đă khiến độc giả dễ dàng rung động và chia xẻ cùng tác giả những niềm hạnh phúc, vinh nhục, khổ đau qua cuộc biển dâu lịch sử, trong cuộc sống thời niên thiếu nhiều mộng mơ, cũng như lúc trưởng thành nhiều gian nan trắc trở của anh.

Những nỗi niềm chua xót, đắng cay, ngậm ngùi đó được diễn tả, tô vẽ lại rơ nét như định mệnh khắt khe của một kiếp người long đong, trong một hành tŕnh dai dẳng, của những đổi dời, đi, về, chặng dừng… dường như là chưa trọn vẹn, kết thúc: Quê hương, Đất mới trong bài thơ tứ ngôn:

“Ta từ cơi lạ - một lần đến đây - giữa ṿng khép mở - cuộc chơi đă bày - Ḱa trên cành nhỏ - bày chim họp đàn - bên bờ vọng động - đoàn người ly tan - Ta từ cơi lạ - một lần đến đây – gieo mầm nhân quả - nhận phần trả vay – Ngày qua theo bóng – đời xuôi theo ḍng – bóng đời chập choạng – phận người rêu rong - Ta từ cơi lạ - một lần đến đây – căn duyên nào buộc – nhân sinh kiếp này – Ngày ta dâng lễ - ngày em đăng quang – đời lôi ta dậy – trả về hồng hoang – Ta t́m muôn dặm – dáng xưa thiên thần – t́m ngày sấm dậy – phút người trao thân - Ta từ cơi lạ - một lần đến đây – ôm toàn hư ảnh – thả vào khói mây – Một ngày ta đến – một ngày ta đi – c̣n ai níu lại – nói lời biệt ly?”

[“Chặng dừng,” trang 11]

Người xưa thường nói “trâu chậm uống nước đục”. Câu này áp dụng vào trường hợp các anh em H.O. và những người qua sau, tới muộn vào đầu thập niên 90 quả là không sai bao nhiêu. SN trong giai đoạn tiên khởi mới tới Hoa kỳ đă phải t́m kế sinh nhai bằng một nghề xa lạ mà anh chưa từng biết hay trải qua, hầu mong sớm hội nhập, ổn định cuộc sống.

“Hết thời – ngồi vặn bù lon – nghe trong từng khớp – xương ṃn tháng năm – ngoảnh lui – t́m chỗ xưa nằm – thấy trong tiền kiếp – vết hằn nghiệp oan.

 [“Tiền thân,” trang 112]

Cùng tâm trạng, hoàn cảnh với tác giả THLCD, 4 người thân quen của tôi, gồm 3 sĩ quan cao cấp và một vị tướng– người nào trước 75 cũng đă từng du học vài lần ở Hoa kỳ và các quốc gia tự do khác, cũng đă rơi vào t́nh trạng khó khăn tương tự. Sau khi được định cư - có thể v́ tuổi các anh không c̣n trẻ hoặc không có thời giờ, không có hoàn cảnh để vào các trường Đại Học “hấp” lại, nên đành chấp nhận làm những công việc “nhẹ kư” một chút để lo cho đời sống của vợ con. Chàng phi công hào hoa hay “giặc lái” A37 ngày ngày cần cù hành nghề phụ vá vỏ xe hơi cho một người chủ nhỏ vốn gốc Tây Ban Nha ở gần Khu Pháp – New Orleans. Ông cựu quận trưởng vốn là trưởng khối của Tổng Cục Tiếp Vận an nhiên trở thành người chạy máy sản xuất vật dụng cho hăng Best Buy tại Twin city thuộc tiểu bang Thập-vạn-hồ lạnh lẽo. Anh lính mũ nâu, cựu tiểu đoàn trưởng, nguyên là một thành viên trong phái đoàn liên hiệp quân sự trước đây, nay hành nghề dọn dẹp, sửa chữa bàn ghế cho một trường Trung học tại quận Cam – nơi được người ta ưu ái gọi là thủ đô của dân tị nạn. Riêng vị tướng một sao điềm đạm, ít nói, phục vụ ngành súng to, đạn lớn th́ âm thầm sống chết với nghề thợ hàn trong một thị trấn “buồn tênh” gần Foxboro Stadium trên đường số 1 chạy về thành phố nhộn nhịp Boston. Phải chăng sự nhẫn nhục, quen chịu đựng nhiều gian lao trong cảnh bị đày đọa lâu dài nơi các trại tập trung tẩy năo mà kẻ thống trị gọi là “trại cải tạo” đă làm cho các anh, cũng như SN, cam phận, b́nh thản tiếp nhận việc trở thành công nhân trên một nước văn minh, tự do là điều khả thi, chẳng đáng phàn nàn, “ḷng” chẳng chút “vẩn vơ” ǵ về mấy cái lẻ tẻ này, cho dù việc đó có vẻ bất thường, bất an:

Ở đây không khí nặng nề - những thân lưu lạc những nghề cu li – đường trần dầu dăi quản chi – trả vay vay trả sá ǵ thiệt hơn – Đổi đời vời vợi nguồn cơn – nỗi đau nước mất nỗi buồn nhà tan – trời cho thoát cảnh cơ hàn – thoát cơn ác mộng bạo tàn thuở xưa – đă từng sớm nắng chiều mưa – bao năm tù tội c̣n chưa nản ḷng – ngẩng đầu cao với trời không – sá chi hạt bụi bên ḷng vẩn vơ.”

[“Một ngày bất an tại hăng Mỹ”, trang 62]

Cùng với phép tạo h́nh kỳ ảo, SN c̣n thường sử dụng thủ thuật cắt câu, đặt dấu lặng một cách tinh xảo, đắc điạ, cộng với nghệ thuật điệp từ khéo léo, nên thơ anh càng gây ấn tượng mạnh hơn vào thính giác, thị giác của người thưởng ngoạn.

[Chứ không phải loại ngôn ngữ của “người” mà cố thi huynh Bùi Giáng đă trêu cợt như: Người điên ngôn ngữ điệp trùng - Dở chừng như mộng dở chừng như mê - Thưa em ngôn ngữ quặt què – Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên. [Người điên]. Mà ở đây – theo tôi, đối tượng trào lộng chắc hẳn không phải là tha nhân v́ cố thi sĩ cũng là người hay áp dụng thuật ngữ, thi pháp này trong thơ ḿnh. Hơn nữa, trong giới văn nghệ sĩ miền Nam thời trước và ngay cả những anh chị em miền Bắc hoạt động trong lănh vực VHNT hiện sống trong hay ngoài nước, có mấy ai không biết về “tâm trí, tính t́nh chẳng b́nh thường bao nhiêu” của lăo huynh.]

Sự né tránh cách diễn đạt một ư với nhiều từ khác nhau hay phép trùng phức [tautology] này là một ưu điểm đặc biệt nữa mà người đọc thường bắt gặp, khám phá, trong các tác phẩm của SN. Có lẽ mấy điều thẩm định trên cũng là vài nét trùng hợp về những phong cách riêng biệt của tác giả thi tập THLCD mà thi sĩ lăo thành – nhân vật chăm sóc, chủ trương tờ Tiền Tuyến trước 75 - muốn đề cập, bày tỏ khi ông viết:

Song Nhị làm chủ được ng̣i bút của ḿnh. Đọc anh, ta không thể nhầm lẫn với bất kỳ một nhà thơ nào khác.” (Hà Thượng Nhân)

[Nên nhớ, nhật báo TT của Hà tiên sinh là một nhật báo lớn, vững mạnh, có số lượng độc giả cao nhất và hơn hết, được phổ biến rộng răi khắp miền Nam. Trước cuối năm 72, lúc tôi c̣n phụ trách trang trong, viết feuilleton cho vài tờ báo ngày, quen biết giới phát hành báo chí nên biết rơ việc này. Tờ báo của Hà thi sĩ đă tập hợp, qui tụ một khối lượng đông đảo giới viết văn, thơ, b́nh luận… hữu danh, cùng nhiều kư giả chuyên nghiệp. Chỉ riêng về bộ môn VHNT người ta có thể kể: Phan Lạc Phúc - kư giả Lô Răng, Văn Quang, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Viên Linh, Nguyễn Đạt Thịnh, Đặng Trần Huân, Hà Huyền Chi, Du Tử Lê, Tường Linh, Lê Tất Điều… Chưa nói tới sự cộng tác, đóng góp thường xuyên của các anh em văn nghệ sĩ quân đội, các cây bút dân sự khắp nơi. Dĩ nhiên sự thành công của TT ít nhiều cũng có sự trợ giúp, tiếp sức… của một vị lăo thành khác: thi sĩ Cao Tiêu.]

Qua THLCD, chúng ta nhận ra nét riêng biệt ấy. Chúng biểu lộ rơ rệt qua hàng loạt âm thanh rực rỡ t́nh người, t́nh nhân loại, được thắp sáng bằng những ngọn lửa chân t́nh trong tim của người nghệ sĩ rất từ tâm, đôn hậu này. Tác giả THLCD luôn hướng thượng, thay v́ để tâm trí ḿnh vướng bận, căng thẳng với những buồn chán nội tâm, với những u hoài tồn đọng của quá khứ. Nếu nói theo La Fontaine th́ “theo cánh thời gian nỗi buồn rồi cũng bay đi”. Xin hăy đọc qua những lời mời gọi tha thiết, nhiệt t́nh, như những tiếng kêu thúc dục cấp bách được gói ghém, dàn trải - qua bài thơ mà SN đă ưu ái, thích thú tuyển chọn làm tựa đề cho thi tập:

1. Hỡi bầy chim trên khóm rừng già – hỡi đàn ngựa hoang trên cánh đồng khô – hăy thức dậy từ giờ - nghe tiếng hát và nghe lời giục giă – Hăy tiếp tục bước đi đi suốt một ngày – một tháng – một năm – một đời – Một đời – sống – chết – không nguôi – hăy mang đi những điều dang dở - hăy bước đi trên vô tận con đường – sẽ có ǵ trọn vẹn? – một niềm vui – mấy nỗi buồn!

2. Hỡi trái tim – đời đời là máu đỏ - đời đời là yêu thương – sao cả trăm năm – trên quê cha khốn khổ - trên đất mẹ nhọc nhằn – khổ đau và bội bạc.

3. Hỡi thân yêu – trăm ngh́n lần yêu dấu – cuộc biển dâu làm vỡ vụn tinh cầu – thời gian qua chưa đủ mờ dĩ văng – nên ḷng c̣n trên chóp đỉnh thương đau – nên ḷng c̣n trăm ngh́n điều muốn nói – nên t́nh c̣n trăm ngh́n điều mến thương – trong nỗi ngây ngất không cùng – hăy ném hồn lên đỉnh ngọn sầu đông – uống cạn sương mai giữa bầu trời lạnh giá.

4. Nếu im lặng như một chấp nhận – nếu bước đi như một an bài – nói làm ǵ – để một đời không nguôi thao thức – thêm nhọc nhằn cho toan tính ngày mai .

5. Hăy uống đi – uống cạn khối t́nh sầu nhung nhớ - hăy nghĩ về cuộc trùng phùng – là giả thuyết – ước mơ – hăy tạm quên ngày đau thương khổ nạn – để được yêu nhau hơn cả bao giờ.

6. Trời sẽ nắng cây rừng hoang sẽ dậy – bầy chim di sẽ vỗ cánh bay về - ngày sẽ tới và mặt trời sẽ mọc – Hỡi loài người vội vă tỉnh cơn mê.

[“Tiếng hót loài chim di”, trang 13]

Triển vọng và niềm tin về ngày mai hoan lạc tươi đẹp trên có thể đến với SN và mọi người VN yêu thương quê hương hay không, và bao giờ thực hiện được là một điều nan giải, khó tiên liệu. Khi mà đồng bào, ruột thịt nơi cố hương của anh c̣n ngày ngày, đêm đêm cất lên những lời xót xa, ai oán:

"đất đă bị nổ tung bởi những lời dối trá, dây ḥa b́nh c̣n thắt cổ người tin."

[trích bài hát “Tôi cố bám lấy đất nước tôi”]

Xin mời đọc lại lời tâm t́nh, tiếng kêu gọi tha thiết của THLCD về một viễn ảnh huy hoàng của đất nước, dù viễn ảnh rạng rỡ của phép lạ đó có thể không có thật, hoặc chỉ là một nỗi khao khát hư huyễn khó cơ hội thành tựu viên măn:

“Hăy tạm quên ngày đau thương khổ nạn– để được yêu nhau hơn cả bao giờ. - Trời sẽ nắng cây rừng hoang sẽ dậy – bầy chim di sẽ vỗ cánh bay về - ngày sẽ tới và mặt trời sẽ mọc – Hỡi loài người vội vă tỉnh cơn mê.”

Chẳng phải hy vọng vẫn luôn luôn là niềm tin, là nhân tố tạo sức sống cho con người đó ư? Nên, xin hăy cùng với SN đốt lửa ấm lên, nổi lửa thiêng lên, vun nén, giương cao ngọn lửa hồng trong trái tim, trong trí tuệ. Nên, xin hăy cùng nhau nguyện cầu và thắp sáng niềm tin ấy, để mong ước rồi một ngày nào đó, những cánh chim bỏ tổ ra đi sẽ có cơ hội cùng nhau quây quần, chắp cánh bay về t́m lại rừng xưa, tổ ấm, cành lá cũ… với những tiếng hót ngọt ngào, đằm thắm, vui vẻ hơn Tiếng hót loài chim di, mà tâm trạng hôm nay, tưởng chừng c̣n vương mang đây đó vài âm hưởng lạc loài, bơ vơ.

Những cụm lửa khói ác nghiệt của chiến tranh chắc cũng đă lụi tàn, tắt đi sau hơn 30 năm. Nỗi nhọc nhằn bao năm khổ nhục, cay đắng trong lao tù cải tạo và thời gian sau đó có thể cũng ch́m dần trong cố gắng lăng quên. Có c̣n chăng trong anh cũng chỉ là chút ít man mác hồi nhớ trong kư ức, để anh từ đó chiếu rọi, t́m thấy cho ḿnh một nguồn vui gần gũi hơn dưới mái ấm, hạnh phúc gia đ́nh:

“Em ạ - bỗng dưng ḿnh trẻ lại – Dẫu hồn nhiên phơi phới đă xa rồi – Nhớ thuở nào trái chín mộng nguyên tươi – Hoa lá đất trời – rộn ràng tở mở - Làm sao để quên – làm sao không nhớ – Buổi em về vành vạnh một vầng trăng – Có con mèo con quấn quít tung tăng – Rúc vào ḷng anh thở quen hơi ấm – Có con sáo – đậu trên vai anh mỗi sáng – chờ được mớm mồi trên những vuốt ve – Có con vành khuyên hót mỗi trưa hè – Có suối-tóc-mây phả mùi hương lạ - Anh quên mất những tháng ngày Xuân. Hạ - Chợt giật ḿnh - mây phủ khuất màu trăng – Buổi anh đi đời nổi sóng đất bằng – Người ră gánh con chim ngừng tiếng hót – Ta xa nhau giữa mùa-trăng-mật-ngọt – Anh đầu non em ở tận cuối nguồn – Anh bên trời ngày nắng cháy mưa tuôn – Con sáo bên sông cầm canh bến đợi – Khi anh về chắp lại đời trôi nổi – Thắp tiếp mùa trăng sáng thuở ban đầu – Mới đó – các con ḿnh khôn lớn thật mau – Em ạ - nghe tiếng trẻ gịn vui – bỗng dưng ḿnh trẻ lại.”

[“Niềm vui bất chợt,” trang 91]

 

2. Hoài niệm, chuyện người & chuyện thế sự - qua THLCD

Cũng bằng cảm quan sâu sắc trên, cũng bằng đôi mắt tinh tế ấy, SN đă bước ra khỏi thế giới nội tại để đi vào thế giới bên ngoài, xung quanh anh, hay nói ngắn gọn hơn là ngoại giới. Anh đă để tâm tư ḿnh ḥa nhập, ghi nhận lại những h́nh ảnh thay đổi cùng sự vận hành, chuyển biến của thế sự, của đời người qua những bước thăng trầm trong cuộc sống với sự hoài niệm pha lẫn niềm thương cảm:

“Em từ vườn cấm bước ra – nhặt ba hạt dẻ bỗng ̣a lên reo – biết đâu là phận giàu nghèo – biết đâu là chốn cung triều đế vương – Em từ pho truyện cải lương – bước ra sân khấu diễn tuồng Kiều nhi – mười lăm năm ấy c̣n ǵ – đố trong thiên hạ ai b́ kịp em – Em từ nệm ấm chăn êm – choàng tay với mộng vẽ thêm bóng h́nh – chợt khi nghĩ lại nghĩa t́nh – về soi gương cũ nhận ḿnh không ra – Em từ đài các kiêu sa – màn che trướng rủ lụa là gấm nhung – rồi khi đời nổi băo bùng – em ra giữa chợ hứng chung phận người…”

[trích “Chân dung,” trang 76]

Những khái niệm về các t́nh tự loạn lạc, đau khổ, cách trở… măi măi vẫn là những vấn nạn, nan đề trong kiếp nhân sinh. Các ư niệm này thường tác động mạnh mẽ vào tâm thức, kư ức, làm cho con người bị vây hăm, khốn đốn không ít trong ṿng ưu tư, ray rứt. Bên cạnh những hệ lụy ấy, sự giao tiếp, thân cận giữa người và người nhiều lúc cũng là một mối quan ngại. Bởi chưng nó chẳng phải lúc nào cũng trôi xuôi êm đềm theo ḍng thời gian. Bởi chưng “có ai lấy thước mà đo ḷng người”. Nhất là trong giai đoạn hiện tại, khi ḷng người c̣n chưa dứt, chưa mất hẳn chất “bạc như vôi”, và c̣n có nhiều sự phân hóa sâu sắc.

Dù từng trải, biết rơ nhân t́nh thế sự khi đầy khi vơi, nhưng với bản tính đôn hậu, từ tâm, SN lúc nào cũng hân hoan, ân cần mở rộng ṿng tay, cơi ḷng ḿnh trong những cuộc giao du, kết t́nh tri ngộ. Hơn ai hết, thi sĩ là người vốn dĩ cô đơn, cô độc nhất. Hơn ai hết, thi sĩ là người cần có bạn tri âm để chia sẻ, giải tỏa nỗi ḷng, giăi bày những thầm kín trong tâm hồn đa cảm. Qua bài thơ dưới đây, chúng ta thử t́m hiểu xem anh đă gặt hái được ǵ trong quá tŕnh giao lưu thân thiện ấy, đến đỗi thi nhân phải than thở, ngậm ngùi, “những điều trông thấy mà đau đớn ḷng”:

“Đôi lúc nh́n người ta chớp mắt – không dưng ḍng lệ lại tuôn tràn – vẽ vời ôm ấp bao nhiêu mộng – số mạng nào trong nghiệp trái oan? – Với người ta rót tràn canh rượu – nhúng cả càn khôn nghiêng biển vơi – giang hết đôi tay ḷng rộng mở - vui buồn nhân thế đám mây trôi – Bởi không nh́n được trong đôi mắt – biển ái sông mê sóng chập chùng – mộng lớn mộng con ch́m ảo giác – cuốn lùa vào tận đáy mê cung – Bè bạn nhân t́nh như chiếc lá – một cơn gió thoảng thổi bay vèo – trăm năm ngồi đợi người tri kỷ - danh lợi hề! bèo bọt cuốn theo.”

[trích “Bèo bọt,” trang 63]

Hay những hoạt cảnh bi hài hơn của một xă hội mà nói về mặt tâm lư, đạo đức truyền thống dân tộc xem ra có vẻ hay có phần đang bị rơi vào trạng thái lệch lạc, bất định:

“Ai đem em đến hoa kỳ - để em dứt nghĩa bỏ đi cho đành – Bắc thang lên hỏi trời xanh. Làm sao biết được gái lành gái hư? – Chàng ơi, câu hỏi chàng dư – em cần đi Mỹ nên hư đâu cần.”

[trích “Chùm ca dao sang Mỹ,” trang 78]

 

Mỗi người đều có một thân phận, một số mệnh riêng. Nhưng với những người bên này vĩ tuyến 17 đă từng phục vụ dưới màu cờ VNCH, dù chức vụ, cấp bậc, vị trí chỉ huy có thấp cao khác nhau bao nhiêu đi nữa, sau khi lănh thổ mất đi, họ vẫn chỉ có chung một mẫu số: tù đày, đói khổ, nhục nhằn. Khi nhắc đến giai đoạn buồn tủi, tồi tệ này, nhiều người trong nước cũng như hải ngoại cho đến nay, nghĩa là hơn 30 năm sau, vẫn c̣n lên án.

Nhân loại đang sống, đang biểu đạt, tư duy trên một vũ trụ, địa cầu được nhào nặn bằng nhiều loại ngôn ngữ, ngôn từ. Nhưng ngôn từ của SN chỉ có một nét đậm đặc. Đó là thứ ngôn ngữ mang đầy tính chất nhân bản, nhân ái. Ngay cả khi anh phê phán, hờn trách người và chế độ đă áp đặt trên vai anh những gánh nặng oan nghiệt, đă khắc ghi lại trong tim óc anh những ám ảnh đau buồn, những vết thương rướm máu. Với tác giả THLCD, không phải lên án, nhắc lại để hận thù, mà để mong ước xă hội, chế độ đó sẽ được tắm gội bằng những giọt nước trong lành của tấm ḷng nhân, và kỳ vọng chữ “NHÂN’ của bậc hiền giả Nguyễn Trăi, sẽ đến với mọi người, để từ đó sẽ có sự tiến hóa cho một tương lai rực rỡ, chói lọi trước mắt:

1. Nhớ xưa ta làm thơ trên núi – hát dậy rừng hoang gọi tới trời – khản cổ kêu từng tên vô lại – duỗi chân dập bóng lũ ma trơi – Ta thi gan sức cùng đe búa – xẻ đá viết đầy chuyện thế gian – mẩu sắn đi vào trang sử tích – bo bo rơ mặt buổi hung tàn – Ta t́m thấy chữ Nhân treo ngược – trong túi Ức Trai ở vệ đường – nghe tiếng oan cừu xưa vọng lại – oan hồn điểm mặt bọn vô lương – Mười năm ta trả xong tiền kiếp – xuống núi rao truyền những ngụ ngôn – chép bản t́nh ca vào tấu khúc - phổ vào nhân loại tấm ḷng nhơn.

2. Nhớ xưa em trầm cung khuê các – dơi bóng bên trời vọng cố nhân – em thắp t́nh yêu lên đỉnh tháp – soi ḷng nhau hẹn một mùa xuân – Mười năm ḍng chảy đầy oan nghiệt – mà bản t́nh ca vẫn rộn ràng – em nén u hoài trong ngấn lệ - những mùa đông tận những thu sang - Mười năm em lớn lên theo núi – sừng sững trên cao những tượng đài – những bức tranh thêu nàng tố nữ - vẽ đầy ước vọng của tương lai – Mười năm ta đến đây. Nơi hẹn – tiếp cuộc nhân duyên đủ ngọt bùi – ta bước lên thềm thiên kỉ mới – nhịp đời rộn ră tiếng reo vui.

[“Chuyện những mười năm”, trang 25]

Hoài niệm về những h́nh ảnh, bóng dáng thân thương cũ vẫn măi là một ư niệm khó phai mờ trong ḷng thế nhân. Trong khi phải đối diện với những biến động trầm kha, lo ứng biến với nhu cầu sinh tồn, người ta có thể ngỡ chúng đă bị nhạt nḥa, quên lăng. Thực ra, những kỷ niệm đó vẫn tích lũy hay im ĺm trong vô thức.. Chỉ cần tâm cơ vận động là chúng có cơ hội tuôn tràn ra mạnh mẽ, ào ào như thác đổ. Phải chăng hoài niệm là nhu cầu thiết yếu mà người làm thơ cần phải ôm ấp, trân trọng? Với SN, khái niệm này rơ ràng là chất liệu tốt, quí giá, để anh có thể kiến trúc, sáng tác nên những ḍng thơ hay, đẹp, mang mang niềm nhân ái, vọng mơ và đầy xúc cảm:

Em về. Phố núi vào đông. Lạnh – Phố núi c̣n không nắng sớm mai – Những giọt sương in h́nh cẩm thạch – Giấu trong sâu kín những u hoài – Em về phố núi không quay lại – Chắc nhớ vô cùng nắng phố xưa – Có thấy vấn vương niềm cố quận – Đêm về nằm khóc với vần thơ? – Phố xưa mấy lối chừ hiu quạnh – Cây lá bên đường cũng quạnh hiu – Ngọn gió vào đông chừng lạnh buốt – Chắc trời phố núi cũng buồn thiu – Chắc em ngồi nhớ thời thơ dại – Ngồi nhớ bâng quơ chuyện thuở nào – Ta vẫn trên tay ḍng lệ nóng – Của niềm tâm sự sớt chia nhau – Mai đây ta sẽ lên thăm núi – T́m lại âm vang một buổi chiều – Nghe tiếng thơ gieo vần điệu lạ – Gom vài đốm lửa sưởi thương yêu.

[“Người lên phố núi,” trang 100]

Xin đọc lại câu đầu của bài thơ để thấy thêm tính chất tân kỳ, mới mẻ trong phương thức tạo h́nh, đặt dấu lặng trong thi ca thất ngôn của SN. Thông thường tiết tấu của thể thơ này được diễn đạt qua 2-2-3, 3-2-2, 3-4, 4-3 hay 2-5, 5-2. Âm hưởng 2/4/1 anh dùng ở đây thật tuyệt. Nhất là cái đắc địa của ngữ từ “lạnh” đứng biệt lập, chơ vơ trong câu thơ 7 chữ. Nó thật sự gây được một ấn tượng buốt giá mạnh mẽ trong cảm giác của người thưởng ngoạn.

Tuy nói rằng “đôi khi ta nh́n ta tội nghiệp,” nhưng trí tuệ, tâm tư của tác giả THLCD luôn luôn biểu hiện trạng thái tỉnh thức, thăng hoa. Anh đem hiền ḥa, bao dung, yêu thương của ḿnh để dâng hiến cho người - người t́nh xưa, dù người ấy đă một lần phũ phàng ra đi và để lại trong ḷng anh những dấu tích ngậm ngùi, đớn đau khôn nguôi:

Mời Em trở lại vườn thơ – Vẫn đầy nỗi nhớ niềm mơ thuở nào – Vết thương ḷng dẫu c̣n đau – Cứ như t́nh vẫn dạt dào niềm vui – Đời qua mấy trận khóc cười – Cứ như phong vận một thời gấm nhung – Mời Em thổi đóm than hồng – Vẫn như hương lửa mặn nồng thuở xưa - Đường t́nh dầu dăi gió mưa - Vẫn như ḥ hẹn buổi chưa phụ phàng – Được thua, phú quư, nghèo nàn – Cứ như đời vẫn vẹn toàn ước mơ – Mời em ghé nụ môi hờ - Cảm ơn Em, mộng ghé bờ qua đêm.

[“Mời em,” trang 122]

Cơn lốc tháng tư đen, - cái mà nhà nước CS trong nước cho đến hôm nay vẫn c̣n lớn tiếng gọi là “đại thắng mùa Xuân”, đă cuốn trôi bao nhiêu người VN xa ĺa quê hương yêu dấu? Cụm từ huênh hoang mà đă từ lâu chính nhiều đảng viên cao cấp, nhiều văn nghệ sĩ, viên chức trí thức CS nghe qua cũng thấy khó chịu, cũng phải tán thán! Tiếp đến là từng làn sóng người ồ ạt ra đi bất chấp sinh mạng bấp bênh để “chạy trốn ḥa b́nh”. Dân số VN chẳng biết sẽ c̣n lại bao nhiêu nếu các quốc gia tự do đă không sớm đóng cửa biên giới, thôi tiếp nhận người tị nạn?!

Không phải ai cũng chấp nhận kiếp số, định mệnh đă an bài, đă chọn lựa để vui vẻ sống an nhàn, tận hưởng tự do, tiện nghi vật chất, để đổi lấy con đường lưu vong ngàn trùng xa cách thân nhân, tổ quốc. Giáo sư tiến sĩ Lư Công Tuấn – người VN vô gia cư [homeless] đă từ trần trong nỗi cô đơn, âm thầm bên một góc phố ở San José vào mùa Đông năm 02 - là một điển h́nh cụ thể, qua sự minh họa của SN, với những lời thơ chứa chan t́nh thương cảm:

Xuân này có người viễn xứ - hăm lăm năm biệt quê nhà – lang thang chân trời góc biển - ngậm ngùi đất tổ quê cha – Về đâu ơi người viễn xứ - khách du hay kẻ lạc loài – bốn phương đâu là huynh đệ - phương nào ngó thấy ngày mai – Hăm lăm năm đời lữ thứ - mịt mù sóng nước trùng xa – lênh đênh không bờ bến hẹn – giữa trời thống hận phong ba – Bao lâu trăng mờ lối cũ – bao lâu rồi đợi mùa xuân? - về đâu ơi người viễn xứ - ḷng mờ mấy nẻo phù vân – Nơi đây quê người xứ lạ - xuân về gió lạnh tuyết rơi – nỗi đau không v́ cơm áo – sao lê thân kẻ bụi đời? – Ră chân trên cồn cát mỏi – rạc rời băi bể nương dâu – bốn phương không là quán trọ - ơi người viễn xứ về đâu?

[“Người viễn xứ,” trang 127: viết cho H.O Lư Công Tuấn, GS Tiến sĩ, người VN homeless từ trần bên một góc phố mùa Đông năm 2002]

Động cơ sâu kín, bí ẩn nào đă khiến vị thức giả khoa bảng này gạt bỏ vị trí cao sang, từ chối một cuộc sống êm ả, để đi vào con đường lang thang nơi đầu đường xó chợ? Nguyên nhân nào đă đưa đẩy vị tiến sĩ này vào con đường tự đọa đày ḿnh? Nỗi hoài hương, t́nh quê sâu kín? Gia đ́nh bất ḥa, cuộc t́nh tan vỡ? Khinh thường lợi danh? V́ chán chê nền văn minh xă hội vật chất? Hoặc giáo sư là người thích phóng khoáng, tự do tuyệt đối, không muốn thân ḿnh bị g̣ bó, trói buộc trong một cuộc sống b́nh thường? Hay là tổng hợp của tất cả các nghi vấn, suy luận trên?

Hoa kỳ rộng lớn như vậy, việc những người chọn lối sống vô gia cư, hay v́ không có lợi tức tối thiểu để có một mái ấm che thân, trú ngụ để phải nương tựa vào lề đường kiếm sống là một hiện tượng thiên hạ thấy chẳng có ǵ mới lạ… Cư dân ở Austin – Texas, chắc c̣n nhớ nhân vật homeless lừng danh Leslie Cochran? Leslie là người vô gia cư, luôn chầu chực ăn xin nơi các hàng quán, tiệm tạp hóa. Anh ta là người mà thị trưởng đương nhiệm Kirk Watson, năm 2000 đă từng thành thật phát biểu nỗi lo âu cho chiếc ghế bành uy nghi của ḿnh trong ṭa thị chánh, khi Leslie nổi hứng nhảy ra tranh cử, với sự trợ giúp của Yclip.com. Nghe đâu chính cơ quan DAA [Downtown Austin Alliance] cũng đă “endorse” cho kẻ vô gia cư họ Cochran vào chức vụ quan trọng này.

Thỉnh thoảng cũng có người v́ nghề nghiệp đă phải dấn thân vào con đường gian khổ này. Chẳng hạn nhà Tâm lư học J. Udall của Four Corners Community Chapel ở Cumberland, RI. Ông đă từng rời bỏ căn biệt thự đầy đủ tiện nghi để lang thang, ḥa ḿnh sống chung với những người vô gia cư tại thành phố nhỏ nhất nước là Central Falls. Chỉ v́ ông muốn t́m hiểu thực chất và t́nh trạng của họ. Khi tôi vô t́nh gặp ông vào một buổi chiều mùa Đông giá rét năm 82 bên hông tiệm Cumberland Farms, ông đang ngồi co ro bên một túp lều con, thấp. Chiếc lều chật hẹp được dựng lên bằng vài miếng giấy b́a cứng dơ bẩn, với tấm nhựa cũ phủ qua, cột lại sơ sài. Thấy ông đang hàn huyên với một kẻ láng giềng “du thủ du thực” ngồi trong túp lều bên cạnh, tôi la cà lại chào hỏi, th́ ông cho biết ông đang thu thập “tài liệu, dữ kiện sống” cho các bài giảng, và để vận động chính quyền, các cơ quan từ thiện tiểu bang quan tâm hơn, dành nhiều ngân khoản hơn để cải thiện, cứu trợ cho thành phần sống bên lề xă hội này. Gót chân ông không phải chỉ dừng ở thành phố tí hon trên, mà c̣n trên các đường phố lân cận như Pawtucket, Woonsocket, Cranston… Udall chẳng phải là người duy nhất và đầu tiên thực hiện công việc trở thành loại “homeless tài tử”. Trong quốc gia giàu mạnh này, hàng năm, con số học giả, giáo sư xă hội học, tâm lư, thần học, nhân văn… tự ḥa ḿnh, dấn thân vào cảnh sống cơ cực ấy để viết sách, soạn luận án… không phải hiếm hoi lắm. Chưa kể lớp kư giả, columnist chuyên ngành, cần đề tài “nóng”, sống động cho các tờ báo khi có những biến động lớn có tác hại cho những người khốn khổ không nhà kia. Chẳng hạn như vào mùa băo tuyết ở miền Bắc. Chẳng hạn như vào mùa giông to, gió lớn ở các tiểu bang miền Nam. Hoặc những khi “trời hành cơn lụt mỗi năm” dọc theo vùng đồng bằng sông Mississippi dài thăm thẳm, ngút ngàn, chạy qua các đồng cỏ xanh óng ả của nhạc sĩ Irving Fields. Những cánh đồng cỏ mượt mà, thơ mộng, lúc nào cũng như mơ màng ngủ và sẵn sàng chờ đón những nụ hôn nồng ấm của các tia nắng trữ t́nh, cùng sự ve vuốt của những làn gió lăng mạn ban mai.

Sau khi đọc “Người viễn xứ” của SN, tôi đă nhiều lần tự vấn, suy tư để cố t́m đáp số. Sự lựa chọn hành tŕnh cô độc và cái chết của tiến sĩ Lư Công Tuấn – với tôi vẫn c̣n là một ẩn số. Với tŕnh độ, học vị đó, nếu thấy không c̣n thích thú với việc giảng dạy trên bục gỗ trong các giảng đường, giáo sư có thể xin trở thành chuyên gia tư vấn [consultant] hay chuyên viên phân tích [analyst] cho các công ty lớn, với những bổng lộc đáng kể. Cùng lắm cũng có thể xin một việc làm nhẹ, thích hợp với nghề chuyên môn, tŕnh độ của ḿnh. [1]


3. Lời kết

THLCD đă vẽ lại đậm nét những đoạn đường oan khiên, nhục nhằn, cũng như những hương vị ngọt ngào, thắm thiết mà tác giả đă kinh qua, chiêm nghiệm.

Thơ SN được cấu trúc chặt chẽ, hài ḥa và đầy nhạc tính, với những nhân dáng, h́nh ảnh sâu đậm, mà Robert Bly và nhóm thi hữu của ông như James Wright, Louis Simpson, William Stafford… đă tận dụng, khai thác và được họ mệnh danh là “deep images”. Những ḍng thơ dù mang sắc thái lăng mạn, trữ t́nh, hoặc thế sự, nước non được biểu tượng hóa [symbolizing style] của anh, đều luôn phảng phất, tiềm tàng rơ rệt tinh thần nhất quán của một bản thể tính hoài niệm [ontological remembrances]. Lời thơ có lúc thánh thoát, huyền diệu, chập chờn như tiếng hạ uy cầm, hay tiếng sáo chiều trên các cánh đồng mênh mông, có lúc trôi nổi, trầm buồn, nhàn nhă như những phím dương cầm được tŕnh tấu bằng những ngón tay điêu luyện trong các thính đường ấm cúng.

Ngoài những vần điệu, lời thơ thanh khiết, trong sáng, SN c̣n biết khéo léo vận dụng hài ḥa ngôn từ bác học, với qui ước b́nh dị vào nhiều chỗ đắc địa. Cho nên tứ thơ, toàn bộ tập thơ của anh thêm nổi bật, đặc sắc, dễ thẩm thấu vào nội tâm người đọc. Bằng thi pháp điêu luyện, cùng lối sắp xếp thi ảnh, thi ngữ mang nhiều tiết điệu như đă đề cập, SN xứng đáng là một nhà thơ tài năng đang được ái mộ trên thi đàn. Anh thường được nhiều đài phát thanh ca ngợi, giới thiệu. Bài viết được phổ biến trên đài VOA của cô Bích Huyền mới khoảng chừng 3 tuần lễ trước đây là một thí dụ điển h́nh.

Tóm lại, THLCD của SN là một tác phẩm hay, có giá trị, và chắc chắn là một viên gạch lớn, hoa mỹ, để chúng ta trân trọng lót, trải đường cho nỗ lực kiến tạo vững vàng công cuộc phát triển thi ca của nền Văn học hải ngoại nói riêng hay của nền Văn học VN nói chung.

 

Ngoại ô Columbus cuối 05/05

Phan Bá Thụy Dương


________________________________________


[1] Trước khi bài này được chuyển đi, anh SN - tác giả thi phẩm Người viễn xứ cho biết: TS Lư Công Tuấn nguyên là giáo sư Đại học Dược khoa Saigon. Sau hơn 3 năm tù cải tạo, ông được CS cho về làm việc trong Ban điều tra chất độc da cam, nhưng với tư cách công dân hạng hai. Khi phái đoàn USA sang VN làm việc chung, tiến sĩ được họ hứa hẹn nếu qua Mỹ, ông sẽ được trợ giúp. Ông sang Hoa kỳ theo diện H.O năm 95. Bị ‘shock” v́ chưa thích ứng với cuộc sống và nền văn hóa dị biệt, hơn nữa, bất măn, buồn phiền v́ phải kiếm sống bằng công việc lao động chân tay, nên tinh thần ông dần dần sa sút, trở nên sa lầy, khủng hoảng. Thêm vào đó, mọi sự trợ giúp cũng lơi dần theo thời gian khiến ông nản ḷng hơn và trở thành người vô gia cư.

Được biết hiện ở San José, nơi giáo sư từ trần trong lặng lẽ, có mấy người dược sĩ vốn là học tṛ cũ của ông. Có lúc ông đă tá túc tại nhà SN gần 2 năm trước khi gặp một người t́nh hờ. Họ đă sống chung với nhau gần một năm th́ chia tay. SN đă từng t́m giáo sư để khuyên nhủ, tâm t́nh, hầu mong ông phấn chấn t́m lại hướng đi. Nhưng anh đành buông xuôi bởi v́ vị khoa bảng kia đă bị cơn lốc thời thế đánh bại hoàn toàn từ tâm năo, không c̣n ư chí để vươn ḿnh.
 

 

Thơ văn

 

art2all.net