BA VỚI MỘT LÀ MỘT
Ambrose Bierce sinh năm 1842 tại Ohio, là con thứ 10 trong một gia đ́nh có tới 13 người con. Lúc ông c̣n nhỏ, gia đ́nh chuyển đến Warsaw, rồi Elkhant, Indiana. Cha mẹ ông không giàu có ǵ nhưng rất ham mê văn chương, và ảnh hưởng giáo dục quan trọng nhất Ambrose Bierce thu nhận là từ tủ sách trong nông trại của gia đ́nh. Năm 17 tuổi, ông vào học ở Học viện Quân sự Kentucky, sớm hoà nhập với lối sống và kỷ luật quân đội. Khi sắp xảy ra Nội chiến Hoa Kỳ, ông rời học viện và trở về Indiana (1860). Ông gia nhập quân đội ngay sau khi Tổng thống Lincoln kêu gọi 75000 quân t́nh nguyện, và trực tiếp chiến đấu tại nhiều mặt trận. Với quân hàm trung uư, ông phục vụ trong bộ chỉ huy của tướng W.B. Hazen, với tư cách kỹ sư địa h́nh, nghiên cứu địa h́nh và chuẩn bị bản đồ hành quân. Tháng 6/1864 ông bị thương và năm sau th́ giải ngũ. Trở lại đời sống dân sự, ông bắt đầu theo đuổi niềm đam mê viết lách thời trẻ bằng việc viết báo, ban đầu là những tiểu luận và chuyện phiếm. Ít lâu sau, ông tham gia ban biên tập tạp chí News-Letters, có cơ hội gặp và làm quen với nhiều nhà báo, nhà văn nổi tiếng, trong đó có Mark Twain.
Cuối thập niên 1880, ông chuyển dần sang viết
truyện ngắn và công bố tác phẩm đầu tiên The Haunted Valley ( Thung lũng
bị ma ám ) trên tờ Overland Monthly. Năm 1888, hai vợ chồng ông ly dị. Năm sau con trai 18 tuổi của ông chết. Những chuyện buồn này, tuy thế, không ngăn cản mạch sáng tác của ông. Ông xuất bản tác phẩm quan trọng Tales of Soldiers and Civilians ( Truyện kể về người lính và thường dân ), là tuyển tập những truyện ngắn về đề tài chiến tranh, có tiếng vang lớn trên văn đàn. Mùa thu năm 1913, ông đi thăm lại những chiến trường ngày trước đă tham gia. Ông đi qua biên giới nước Mexico, trong bức thư gửi từ Chihuahua đề ngày 26/12 năm đó, ông kết thúc với ḍng chữ: “ Về phần tôi, ngày mai tôi sẽ rời nơi đây để đi tới một nơi chưa biết. “ Và sau đó ông biến mất. Có nhiều tin đồn, nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của ông, nhưng đến nay không có thông tin chính xác và rơ ràng về những ngày cuối cùng của con người bí ẩn này. Vừa là nhà báo, vừa là nhà văn, Ambrose Bierce sáng tác nhiều thể loại, tiểu luận, châm biếm, thơ, và nổi tiếng hơn cả với truyện ngắn. Hai mảng đề tài lớn trong truyện ngắn Ambrose Bierce là chiến tranh và truyện kinh dị.
Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse. Hoàn cảnh gia đ́nh có phần khiêm tốn, sống nhờ vào việc canh tác một mảnh đất nhỏ và chẳng ph́ nhiêu ǵ. Không có người nô lệ nào, họ không được xếp vào loại " những người khá giả nhất " trong làng xóm, nhưng họ vẫn là những người lương thiện, có giáo dục, lịch sự và đáng tôn trọng như những gia đ́nh khác nếu không kể tới quyền lực sở hữu người nô lệ. Ông Lassiter vốn nghiêm khắc đến mức thường xem sự tận tuỵ không tính toán như là bổn phận, và che giấu tính khí ân cần và thân thiết. Ông cứng cỏi như những người tử v́ đạo, nhưng bên trong cái vỏ bọc đó ẩn giấu một kim loại quư hơn, có thể nóng chảy ở nhiệt độ thấp hơn, tuy nhiên không hề tô điểm hay làm mềm đi cái vẻ bên ngoài cứng rắn. Do tính di truyền, và cũng do môi trường sống, phần nào tính t́nh nghiêm khắc của ông cũng ảnh hưởng đến những thành viên khác trong gia đ́nh. Nhà Lassiter, tuy không phải là chẳng có chút t́nh cảm gia đ́nh nào, thực sự chỉ là thành tŕ của nghĩa vụ, và nghĩa vụ, - ôi, nghĩa vụ lạnh lùng như cái chết. Khi cuộc nội chiến xảy ra, trong gia đ́nh này, cũng như bao gia đ́nh khác trong tiểu bang, bùng nổ những t́nh cảm đối nghịch. Người con trung thành với quân Liên bang, những người khác cương quyết chống lại. Sự chia rẽ bất hạnh này tạo ra một sự đau xót không chịu nổi trong gia đ́nh, và khi đứa con, đứa em lầm lỗi rời nhà đi theo mục đích đă chọn là tham gia đội quân Liên bang, không một ai ch́a tay ra bắt, không ai nói một lời từ giă, không một câu chúc lành nào dành cho anh trước khi anh ra đi đến một thế giới mà chưa biết số phận nào đang chờ đợi. Hướng về Nashville, nơi quân của tướng Buell chiếm đóng, anh xin gia nhập ngay vào đơn vị đầu tiên gặp được, trung đoàn kỵ binh Kentucky, và tuần tự vượt qua những nấc thang trong binh nghiệp, từ binh nh́ đến chiến sĩ kỵ binh từng trải. Một kỵ binh giỏi thực thụ là đàng khác, tuy là khi kể về ḿnh anh không hề nhắc đến, mà chỉ do các đồng đội c̣n sống sót của anh nói lại thôi. Bởi Barr Lassiter đă đáp lại “ Có mặt “ khi viên trung sĩ tên gọi Thần Chết điểm danh. Hai năm sau ngày nhập ngũ, trung đoàn của anh quay trở về nơi anh từ đó ra đi. Cả vùng quanh đó đều bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do bị liên tục ( và đồng thời ) chiếm đóng bởi các lực lượng tham chiến, và một cuộc giao tranh đẫm máu đă xảy ra ngay cạnh nhà gia đ́nh Lassiter. Những chuyện này chàng kỵ binh không hề hay biết. Về đóng quân gần nhà, anh mong ước được gặp lại cha mẹ và chị, hy vọng rằng đối với họ, cũng như với chính anh, sự thù hận bất thường thuở trước nay do thời gian và xa cách đă nguôi ngoai đi. Được phép nghỉ, anh vội lên đường vào buổi chiều cuối hạ, và khi vầng trăng tṛn vừa ló dạng, anh đă đặt chân lên lối đi rải sỏi dẫn đến căn nhà nơi anh sinh ra. Lính tráng thời chiến thường già đi rất nhanh, và với tuổi trẻ th́ hai năm là một quăng thời gian khá dài. Barr Lassiter tưởng như ḿnh đă già, và nghĩ là về nhà sẽ thấy khung cảnh đổ nát, hoang tàn. Thế nhưng, có vẻ như chẳng có ǵ thay đổi. Nh́n lại mỗi đồ vật thân thiết quen thuộc, anh thấy ḷng xúc động vô cùng. Tim anh đập liên hồi, anh gần như nghẹt thở v́ cảm xúc, cổ họng thấy đau rát. Anh vô t́nh rảo bước, hầu như là đang chạy, cái bóng dài của anh phải gắng hết sức mới giữ được vị trí bên cạnh anh. Ngôi nhà không bật đèn, cửa để mở. Khi anh tiến gần tới, dừng bước để định thần, cha anh bước ra, đầu để trần đứng dưới ánh trăng.“ Cha ơi! “, anh kêu to, lao tới trước, tay dang ra. “ Cha ơi! “ Ông già nghiêm khắc nh́n thẳng mặt anh, đứng yên một lát rồi rút lui vào bên trong không nói không rằng. Thất vọng chán chường, nhục nhă, bị tổn thương không chịu nổi và suy sụp hẳn, người lính buông ḿnh xuống chiếc ghế thô, tay run run ôm lấy đầu. Nhưng, không thể chịu như thế được, người lính thiện chiến không thể chấp nhận sự cự tuyệt như một thất bại. Anh đứng dậy đi vào nhà, đi thẳng tới gian “ pḥng khách “. Gian pḥng chỉ sáng lờ mờ nhờ cánh cửa sổ hướng đông không có màn che. Trên chiếc ghế đẩu thấp cạnh ḷ sưởi, là đồ gỗ duy nhất trong pḥng, mẹ anh đang ngồi, chăm chú nh́n vào bếp ḷ đầy than đen và tro nguội. Anh lên tiếng nói với bà, nhẹ nhàng, ân cần và ngại ngùng, nhưng bà không trả lời, cũng không nhúc nhích, không có chút ǵ tỏ vẻ ngạc nhiên. Thực ra, có lẽ đă đủ thời gian để chồng bà báo tin đứa con tội lỗi trở về. Anh tới gần hơn và sắp nắm lấy cánh tay bà th́ chị anh đi vào từ pḥng bên cạnh, nh́n thẳng vào mặt anh, đi ngang qua anh không có vẻ đă nhận biết, rồi rời pḥng bằng cánh cửa khuất sau lưng anh. Anh quay đầu lại để nh́n rơ người chị, khi chị đă đi khuất anh lại hướng nh́n về mẹ. Nhưng bà cũng bỏ đi khỏi nơi này. Barr Lassiter sải chân đến cánh cửa mà anh đă bước qua để đi vào. Ánh trăng lung linh trên băi cỏ như mặt biển gợn sóng. Hàng cây và những chiếc bóng đen của chúng lay động như có gió thổi. Con đường lát sỏi nhoè đi những đường viền trông có vẻ gập ghềnh và không an toàn để bước lên. Người lính trẻ nhận ra những ảo giác đó đều do nước mắt. Anh cảm nhận chúng trên má, và thấy chúng đang lóng lánh trên ngực áo. Anh rời khỏi căn nhà và quay trở về doanh trại. Ngày hôm sau, không có chủ ư rơ rệt ǵ, không có cảm giác chính xác nào, anh lại t́m về ngôi nhà cũ lần nữa. Đi được nửa đường, anh gặp bạn cũ Bushrod Albro, bạn nồng nhiệt chào hỏi anh. “ Tôi về thăm nhà cũ đây,” anh nói. Bạn nh́n anh thật nhanh, nhưng không nói ǵ. “ Tôi biết là gia đ́nh tôi không thay đổi ǵ, nhưng...”, anh nói tiếp. “ Có thay đổi đấy, “ Albro ngắt lời, mọi thứ đều thay đổi. " Ḿnh sẽ đi với bạn được không? Vừa đi ta vừa nói chuyện.” Nhưng Albro chẳng nói ǵ. Thay v́ ngôi nhà, họ chỉ nh́n thấy những nền gạch cháy đen, bao quanh một khu vực những đống tro đă đông cứng với những vết lơm do nước mưa tạo thành. Lassiter vô cùng kinh ngạc. “ Ḿnh không biết nói với bạn thế nào đây”, Albro nói.” Trong trận đánh cách đây một năm, nhà bạn đă bị một quả bom của quân Liên bang thiêu rụi.” “ Vậy cả nhà ḿnh - họ đâu cả rồi?”
“ Trên thiên đàng, hy vọng vậy. Tất cả đều chết do
quả bom đó.” THÂN TRỌNG SƠN
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh
|