GUILLAUME APOLLINAIRE
Viết nhà thơ nhưng thực ra Ông còn là nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình nghệ thuật. Là người Pháp gốc Ba Lan, sinh ở Roma, Ý, mẹ là một phụ nữ quý tộc chạy sang Ý sau cuộc bạo loạn 1863-1864 ở Ba Lan, bố không biết là ai. Năm 1887, ông và mẹ cùng em trai chuyển về Monaco.
Từ năm 1899 chuyển về sống tại Paris, làm thơ, viết báo. Có lần Ông bị bắt vào tù vì bị nghi có tham gia vụ ăn cắp bức hoạ Mona Lisa nổi tiếng ở bảo tàng Louvre nhưng một tuần được thả vì không có chứng cứ.
Năm 1912 ông cùng các bạn thành lập tạp chí Chiều Paris - Les Soirées de Paris - (rồi năm sau làm chủ bút). Bài thơ nổi tiếng Le Pont Mirabeau và trường ca Zone đưa Apollinaire lên vị trí số một trong các nhà thơ đương thời.
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Ông tình nguyện ra trận và bị thương nặng do trúng mảnh đạn pháo vào đầu.
Apollinaire mất ở Paris vào năm Ông 36 tuổi vì bệnh cúm trong thời gian có dịch cúm Tây Ban Nha.
Apollinaire được coi là nhà thơ khơi dòng cho trường phái Siêu thực (Surréalisme), cách tân thơ tự do. Có những bài thơ ông sáng tác theo kiểu tạo hình (calligramme).
Tác phẩm của Apollinaire khá phong phú, một trong những tác phẩm nổi tiếng là Alcools, mở đầu với bài thơ dài, Zone. Đây là lời tâm sự trầm buồn của một người thất tình, bài thơ “ lạ lùng “ của Apollinaire, gắn liền với thành phố Paris.
À la fin tu es las de ce monde ancien Bergère ô tour Eiffel le troupeau des ponts bêle ce matin.
Apollinaire như đang bay liệng trên thành phố Paris và tưởng tháp Eiffel là một kẻ chăn cừu ( con gái ) và những cây cầu rải rác là những con cừu. Cừu nào ở Paris?
Maintenant tu marches dans Paris tout seul parmi la foule Des troupeaux d’autobus mugissants près de toi roulent L’angoisse de l’amour te serre le gosier. Những đàn cừu ô tô buýt kêu rống chạy gần mi Nỗi khắc khoải tình yêu bóp cổ họng mi.
Chàng lại tiếp tục đi.
Aujourd’hui tu marches dans Paris les femmes sont ensanglantées. Hôm nay mi đi bộ ở Paris những người đàn bà loang máu.
Những chuyến đi giang hồ như thế vẫn tiếp tục.
J’ai vécu comme un fou et j’ai perdu mon temps. Tôi đã sống như một thằng điên và đã lãng phí thời gian.
Buồn nản, chán chường, chỉ còn cách uống rượu tiêu sầu thôi.
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie Ta vie que tu bois comme une eau-de-vie.
Đây có thể xem như hai câu hay nhất của bài thơ với những chỗ lặp lại và lối chơi chữ với eau-de-vie.
Apollinaire hẳn đã lấy câu này làm nhan đề cho cả tập Alcools.
Cả bài Zone có quá nhiều hình ảnh lạ lùng hoà nhập trộn lẫn vào nhau khiến biên giới không gian thời gian mờ nhạt đi, không còn thứ tự thường lệ nữa. Zone là một bài rất dài ( 164 câu ), làm nản lòng ai muốn dịch.
Ngắn hơn và không kém phần nổi tiếng là các bài Le Pont Mirabeau và L’Adieu ( ít nhất đối với người đọc Việt Nam ).
Hãy đọc bài thứ nhất trước.
Ai đã từng đến thủ đô nước Pháp ắt đã biết sông Seine chảy qua thành phô này từ Đông sang Tây với 37 cây cầu bắc qua con sông. Mỗi cầu có một vẻ đẹp riêng. Cầu cổ nhất có tên là Cầu Mới ( Pont Neuf ).
Cầu đẹp nhất là Pont Alexandre III.
Cây cầu biểu hiện cho tình yêu đôi lứa là Pont des Arts, nơi đây vô số cặp tình nhân từ bốn phương đổ về gắn trên thành cầu những chiếc ổ khóa tình yêu. Với thời gian, số lượng ổ khoá ngày càng nhiều trở nên nặng nề, nguy hiểm cho cây cầu và làm mất vẻ đẹp của cầu. Thế nên thành phố đã phải cho gỡ tất cả các ổ khoá để bảo tồn cầu.
Cầu Mirabeau là cây cầu không có gì đặc biệt nhưng vẫn nổi tiếng nhờ bài thơ của Apollinaire. Trên cầu có tấm bảng khắc mấy câu đầu của bài thơ.
Trong bài thơ, Apollinaire ngụ ý nói về mối tình đoạn tuyệt của mình với Marie Laurencin, một nữ hoạ sĩ. Tác giả thường đi qua cầu này với nàng hoạ sĩ.
Nhan đề mang tên một cây cầu, nhưng Apollinaire không mô tả đúng nghĩa cây cầu, ông chỉ mượn cây cầu làm cái cớ để nói về nơi gặp gỡ, hò hẹn trước đây để từ đó gợi lên sự trôi đi của thời gian như nước dòng sông Seine chảy. Cây cầu biểu tượng cho những gì kết nối như tình yêu giữa hai con người.
Cây cầu, dĩ vãng và những mối tình xưa. Les jours s’en vont je demeure.
Sau Apollinaire, nhà thơ Hoài Khanh cũng có cái cảm giác như thế:
Rồi em lại ra đi như đã đến Dòng sông kia vẫn cứ chảy xa mù Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu. ( Ngồi lại bên cầu ).
Và còn Cao Quảng Văn nữa. Nhà thơ xứ Huế cũng đã từng chia sẻ kinh nghiệm đó:
Mênh mang chiều chảy về đâu Ngày run bóng xế, bên cầu lá rơi. Cánh chim khuất nẻo xa rồi Người mang theo cả ngậm ngùi trời mây Gió về đâu, lạnh bên đầy Bèo trôi lờ lững Đêm ngày nước xuôi…
Tìm đâu từ thuở yêu người Hồn đau mấy thuở…môi cười mà đau! Mang đi xa mãi về đâu Chiều nay nhạt nắng, bên cầu mình tôi… ( Nhạt nắng bên cầu ).
U ẩn, ngậm ngùi biết mấy.
Hai câu thơ
Vienne la nuit sonne l’heure Les jours s’en vont je demeure
được lặp lại nhiều lần tạo nên một âm điệu than thở. Je demeure ( Anh vẫn còn đây ) nói lên nỗi cô đơn của tác giả.
Sous le pont Mirabeau coule la Seine Et nos amours Faut-il qu’il m’en souvienne La joie venait toujours après la peine
Vienne la nuit sonne l’heure Les jours s’en vont je demeure
Les mains dans les mains restons face à face Tandis que sous Le pont de nos bras passe Des éternels regards l’onde si lasse
Vienne la nuit sonne l’heure Les jours s’en vont je demeure
L’amour s’en va comme cette eau courante L’amour s’en va Comme la vie est lente Et comme l’Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l’heure Les jours s’en vont je demeure
Passent les jours et passent les semaines Ni temps passé Ni les amours reviennent Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l’heure Les jours s’en vont je demeure.
1912
Bài thơ rất khó dịch vì làm sao chuyển tải cho được
nhạc điệu độc đáo với những dòng hụt bỏ lửng để vắt qua dòng dưới như
dòng nước chảy triền miên. Đã có nhiều người dịch theo cách hiểu, cách
cảm của riêng mình. Sau đây là một bản dịch thể hiện cách cảm của cá
nhân dẫu biết khó mà lột tả hết cái hay của nguyên tác. Cầu Mirabeau
Dưới cầu Mirabeau dòng Seine trôi Và tình đôi ta Chẳng biết anh còn nên nhớ Niềm hân hoan luôn đến sau nỗi buồn phiền
Đêm hãy đến giờ hãy điểm Tháng ngày qua anh vẫn còn đây
Tay trong tay chúng ta cứ đối mặt nhau Trong khi dưới Cầu vòng tay bắc qua mãi
Dòng nước mệt mỏi vì những tia nhìn thiên thu. Đêm hãy đến giờ hãy điểm
Tháng ngày qua anh vẫn còn đây Tình yêu ra đi như dòng nước chảy Tình yêu ra đi Dòng đời sao mà lê thê
Khát vọng sao quá dữ dội Đêm hãy đến giờ hãy điểm
Tháng ngày qua anh vẫn còn đây Ngày qua rồi tuần lại qua Mà quá khứ Và những mối tình không trở lại
Dưới cầu Mirabeau dòng Seine trôi mãi Đêm hãy đến giờ hãy điểm
Tháng ngày qua anh vẫn còn đây
Cùng trích trong tập Alcools ( Rượu ), ngoài
một số bài quen thuộc khác như Zone, La chanson du Mal-Aimé,
Les Colchiques… còn một bài nổi tiếng nữa đối với bạn đọc Việt Nam:
l’Adieu. Mọi người đều biết rõ bản dịch của Bùi Giáng và bài hát
Mùa thu chết của nhạc sĩ Phạm Duy, không ghi lời dịch của ai. Cả Bùi
Giáng và Phạm Duy đều gây nhiều tranh cãi về cách hiểu cách dịch của họ.
L’Adieu J’ai cueilli ce brin de bruyère L’automne est morte souviens-t’en Nous ne nous verrons plus sur terre Odeur du temps brin de bruyère Et souviens-toi que je t’attends
Bài thơ được đăng lần đầu trên báo Le Festin d’Europe, số 2, tháng 12 / 1903.
Hãy lưu ý tác giả viết L’Adieu, không phải Adieu. Adieu là thán từ (interjection), còn đây là danh từ: Sự vĩnh biệt, và nhan đề này đã tự nó báo trước một chuyện tình buồn, chia lìa lứa đôi, kể về hai người xa cách nhau trên cõi đời vì cái chết. Chàng vào nghĩa trang thăm nàng và tâm sự ( tất nhiên chỉ trong tâm tưởng, như những lời độc thoại, giữa cảnh trời thu buồn với những cành hoa thạch thảo mọc quanh mộ ).
Apollinaire cố ý bỏ hết các dấu chấm câu và mỗi từ đều được chọn lọc kỹ. Câu đầu thôi cũng gây khó cho người dịch: động từ cueillir chia ở thì quá khứ và ce brin de bruyère ( cọng thạch thảo này ). Chỉ chừng đó cũng thấy thật không ổn khi viết “ Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo “. Cueillir là hái và brin là cọng. Sao lại là ngắt, mà ngắt một cụm lại càng không được. Chỉ ngắt một cành, một cọng thôi chứ cụm thì ngắt sao được. Cụm thì phải bứng, phải nhổ.
Đưa tay anh ngắt cọng ngò Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ.
Bản dịch
LỜI VĨNH BIỆT
Anh đã hái cọng thạch thảo này Mùa thu đã chết em hãy nhớ Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời Mùi thời gian cọng thạch thảo Và em hãy nhớ rằng anh chờ em.
*** Ngoài những bài nhắc đến bên trên, trong tập Alcools còn nhiều bài khác nhưng khuôn khổ bài viết này không cho phép nói hết để điểm qua một tập khác Le bestiaire ou Cortège d’Orphée ( Ngụ ngôn cầm thú hay đoàn tuỳ tùng của Orphée.)
Đây là một tập gồm 30 bài thơ ngắn ( in năm 1811 ). Theo kiểu Thơ ngụ ngôn của La Fontaine, mỗi bài thơ phác hoạ chân dung một con vật. Có 4 bài cùng tên Orphée, những bài khác là Con mèo, sư tử, thỏ, lạc đà, chuột, voi, sâu, ruồi, châu chấu, cá voi, mực, bồ câu, công, cú, bò… Người đọc có thể nhận ra sự đa dạng trong chủ đề các bài thơ: lời tâm sự buồn, ít nhiều cay đắng ( Chim bồ câu, Dê Tây Tạng ), khát vọng về cuộc sống chừng mực, nhiều chia sẻ ( Con mèo ), suy nghĩ về sự sáng tạo trong thơ ( Châu chấu ), suy nghĩ về thân phận nhà thơ ( con sâu )…Orphée theo thần thoại Hy lạp là một thi sĩ, nhạc sĩ đã sáng tạo ra hoặc cải tiến cây đàn lyre, có thể mê hoặc được tất cả các loài thú hoang.
Tập thơ Le Bestiaire là tập thơ đầu tiên của Apollinaire, không lôi cuốn như tập Alcools, nhưng thỉnh thoảng lại loé lên vài câu khiến người đọc giật mình:
Le chat Je souhaite dans ma maison Une femme ayant sa raison Un chat passant parmi les livres Des amis en toute saison Sans lesquels je ne peux pas vivre.
Mèo. Tôi mong ước trong nhà mình Có một người đàn bà luôn biết điều Có một con mèo lượn lờ qua đống sách
Mà thiếu họ tôi không sống nổi. Le lion Ô lion, malheureuse image Des rois chus lamentablement, Tu ne nais maintenant qu’en cage À Hambourg, chez les Allemands.
Sư tử Này sư tử, hình ảnh khốn khổ Của ngai vàng sụp đổ thảm thương Giờ đây mi chỉ sinh trong chuồng Bên Đức quốc nơi vùng Hambourg.
L’écrevisse Incertitude, ô mes délices Vous et moi nous nous en allons Comme s’en vont les écrevisses, À reculons, à reculons.
Tôm Nghi ngại, ôi thú vui của ta Cùng nhau ta cùng bước đi ra Như những con tôm đang búng nước
Cứ đi giật lùi, lui tới, lùi xa. Le poulpe Jetant son encre vers les cieux Suçant le sang de ce qu’il aime Et le trouvant délicieux, Ce monstre inhumain, c’est moi-même.
Bạch tuộc Mực phóng lên các tầng trời Miên man hút máu những loài nó ưa Thấy máu ngon lành tuyệt vời
Quỷ bất nhân ấy là người chính ta. La chenille Le travail mène à la richesse Pauvres poètes, travaillons! La chenille en peinant sans cesse
Devient le riche papillon. Con sâu Làm việc dẫn tới sang giàu Hỡi nhà thơ khổ hãy lao động nhiều Sâu kia vất vả ngày đêm
Mới thành con bướm mỹ miều lượn bay. La carpe Dans vos viviers, dans vos étangs, Carpes, que vous viviez longtemps! Est-ce que la mort vous oublie
Poissons de la mélancolie. Cá chép. Vốn sống trong hồ trong ao Cá chép mày sống thiệt lâu Hay là thần chết quên mất
Cá mày là giống đa sầu. La colombe Colombe, l'amour et l'esprit Qui engendrâtes Jésus-Christ, Comme vous j'aime une Marie. Qu'avec elle je me marie.
Chim câu Hỡi bồ câu, tình yêu và thần linh Từng sinh thành nên Chúa Ki tô Yêu Marie tôi cũng như các vị
Cùng nàng, chồng vợ kết duyên lành. La souris Belles journées, souris du temps, Vous rongez peu à peu ma vie, Dieu! Je vais avoir vingt-huit ans, Et mal vécus, à mon envie.
Chuột Ôi ngày đẹp, chuột thời gian Mi gặm mi nhắm ăn mòn đời ta Trời ơi, cũng gần hăm tám rồi mà Mà sao vẫn sống dật dờ bấy lâu.
La puce Puces. amis, amantes mêmes! Qu’ils sont cruels ceux qui nous aiment! Tout notre sang coule pour eux, Les bien-aimés sont malheureux.
Rệp. Rệp, bạn, hay là người tình Những người thương ta mà sao quá dữ Máu ta chảy cả trong người họ Những người yêu quý càng khổ đau.
La sauterelle Voici la fine sauterelle La nourriture de Saint Jean Puissent mes vers être comme elle,
Le régal des meilleures gens. Châu chấu Đây nàng châu chấu mảnh mai Thức ăn hàng ngày của Thánh Saint Jean Thơ mình mong được như nàng
Trở thành tiệc lớn của người khôn ngoan. Le dauphin Dauphins, vous jouez dans la mer, Mais le flot est toujours amer, Parfois, ma joie éclate-t-elle?
La vie est encore cruelle. Cá heo Này cá heo, các người vui chơi trên biển Mà sóng nước bao giờ cũng đắng cay Một đôi lúc, niềm vui có bừng nở?
Cuộc đời vẫn ác độc như xưa. La méduse Méduses, malheureuses têtes Aux chevelures violettes Vous vous plaisez dans les tempêtes,
Et je m’ y plais comme vous faites. Sứa Sứa ơi, cái đầu tội nghiệp Mái tóc một màu tím ngắt Sứa vui trong cơn bão tố
Và ta cũng thấy vui vui. Le paon En faisant la roue, cet oiseau Dont le pennage traîne à terre Apparaît encore plus beau
Mais se découvre le derrière. Công Chim công đuôi kéo dài thòng Đến khi công múa đuôi vòng tròn xoe Hình ảnh trông thật đẹp sao
Nhưng rồi để hở đàng sau mất rồi. Le hibou Mon pauvre cœur est un hibou Qu’on cloue, qu’on décloue, qu’on recloue De sang, d’ardeur, il est à bout
Tous ceux qui m’aiment, je les loue. Con cú Tim tôi là con cú hôi Bị người đâm, rút, rồi người lại đâm Cạn cả máu, hết nhiệt tâm,
Ai yêu tôi, tôi hết lòng ngợi khen. Le bœuf Ce chérubin dit la louange Du paradis, où, près des anges Nous revivrons, mes chers amis,
Quand le bon Dieu l’aura permis. Bò Thiên sứ nói lên lời ngợi ca Chốn thiên đường gần các thiên thần Các bạn ơi, chúng mình sống lại
Khi được phép của Chúa nhân từ. Les sirènes Saché-je d’où provient, Sirènes, votre ennui Quand vous vous lamentez, au large, dans la nuit? Mer, je suis comme toi, plein de voix machinées
Et mes vaisseaux chantants se nomment les années. Những nàng tiên cá Hỡi các nàng tiên cá, ta có biết chăng Các em ưu phiền, ngoài biển rộng, trong đêm? Và biển cả, cũng như người, ta cũng đầy tiếng nói mưu toan
Và những con tàu rộn rã của ta mệnh danh tháng năm. Đọc thơ Apollinaire và dịch vài bài, chỉ là vài nét chấm phá để mong chia sẻ phần nào sự mến mộ. Nhà thơ tuy sống không lâu nhưng ảnh hưởng của Ông thật lớn, khó nói hết được trong mấy trang giấy…
|