Thân Trọng Sơn
ĐÊM XUÂN SAY ĐẮM
Yu Dafu ( 1896 -
1945 )
( Uất Đạt Phu / Xuân phong trầm tuư đích văn thưởng )
郁达夫《 春风沉醉的晚上》
Đệ tử của Guo Moruo, rồi là bạn của Lỗ Tấn, Yu Dafu
đă tham gia vào mọi cuộc đấu tranh của giới tiên phong văn học những năm
1920, góp phần vào sự xuất hiện và phát triển của văn học Trung Quốc
mới. Từ những câu chuyện đầu tiên gây ra vụ bê bối về chủ đề và sự tự do
trong giọng điệu, ông đă xác định một phong cách hoàn toàn mới bằng cách
dẫn đầu một tác phẩm tự truyện mà ông đă mang theo từ Nhật Bản về.
Yu Dafu (郁达夫) sinh năm 1896 trong một gia đ́nh của những trí thức đến từ
Fuyang (浙江富阳, Chiết giang phú dương ), một thị trấn nhỏ bên bờ sông
Fuchun (富春, Phú xuân ), ở ngoại ô phía tây nam Hàng Châu, tỉnh Chiết
Giang. Cha và ông nội của ông là bác sĩ, nhưng cha mất khi ông mới ba
tuổi, giống như nhiều người khác vào thời điểm đó, Lỗ Tấn chẳng hạn,
khiến gia đ́nh rơi vào cảnh nghèo khó. Ông cũng nhớ ḿnh bị đói khi c̣n
nhỏ và có thể điều này đă ảnh hưởng đến sức khỏe của ông. Tuy nhiên, mẹ
ông đă cố gắng thuyết phục ba người con trai tiếp tục học tập nhờ học
bổng của chính phủ.
Năm 1903, khi mới 7 tuổi, Yu Dafu vào học tại một trường tư thục truyền
thống (私塾 Tư thục ) ở chính Fuyang, sau đó, vào năm 1905, trường tiểu
học Fuchun (công lập) (富春高等小学堂, Phú Xuân cao đẳng tiểu học đường ), một
trường học tiến bộ được thành lập vào năm đó bằng cách truyền vào một
trường học trước đó (春江书院) những nguyên tắc giảng dạy hiện đại được ủng
hộ trong giới cải cách thời đó, mở cửa cho phương Tây. Hiện được gọi là
'Trường tiểu học thực nghiệm Fuyang' (富阳市实验小学, Phú Dương thị thực nghiệm
tiểu học), trường tiếp tục mang lại giá trị văn minh cho giáo dục và tự
hào v́ đă đóng góp cho sự phát triển trí tuệ của thanh niên Yu Dafu. Ông
viết những bài thơ đầu tiên ở đó.
Năm 1910, ông rời khỏi cái kén của gia đ́nh để theo học tại trường Cao
đẳng Hàng Châu (杭州府中学堂, Hàng Châu phủ trung học đường ), nơi bạn cùng
lớp của ông là nhà thơ (tương lai) Xu Zhimo (徐志摩, Từ Chí Ma ), con của
một gia đ́nh chủ ngân hàng giàu có, theo học gần như chương tŕnh giảng
dạy giống như Yu Dafu. , từ nền giáo dục truyền thống đến mở cửa với
nước ngoài, một con đường khá điển h́nh của giới trí thức từ thời đại.
Tuy nhiên, ở tuổi mười lăm, Yu Dafu quan tâm đến thơ ca cổ điển Trung
Quốc và viết một số bài thơ được đăng trên nhiều tờ báo khác nhau.
Tuy nhiên, nó được đánh dấu bởi bầu không khí của thời đại, những năm
cải cách bị hủy bỏ và cuộc cách mạng đang diễn ra, cả về chính trị lẫn
văn học . Tác phẩm yêu thích của ông c̣n có tác phẩm có tính cách dân
tộc chủ nghĩa hoàn toàn phù hợp với thời đại: ví dụ như thơ tự sự của
một tác giả thế kỷ XVII, Wu Weiye hay Meicun (吴伟业/梅村, Ngô Vĩ Nghiệp Mai
Thôn ), người cũng thuộc về một thời kỳ chuyển tiếp lịch sử, trong
trường hợp triều đại của ông kể từ khi ông trải qua sự sụp đổ của nhà
Minh và rời bỏ quê hương Giang Nam để đến Bắc Kinh phục vụ triều đại nhà
Thanh mới; Tác phẩm của ông thấm đẫm nỗi buồn khi gợi lại sự vô trách
nhiệm của các vị hoàng đế cuối cùng của nhà Minh, điều này chắc chắn đă
khơi dậy sự đồng cảm nhất định ở chàng trai trẻ Dafu.
Cũng như thường lệ, ông vào Đại học Hàng Châu năm 1912 và bị đuổi học
vài tháng sau đó v́ tham gia một cuộc biểu t́nh của sinh viên, sau khi
Viên Thế Khải lật đổ Tôn Dật Tiên.
Bầu không khí ở Trung Quốc không thuận lợi cho những kẻ gây rối. Vào
tháng 9 năm 1913, anh trai của ông, Yu Mantuo ( 郁曼陀, Uất Man Đà ), đă
giành được học bổng để học luật tại Nhật Bản, Yu Dafu đă nối bước anh.
Nhật Bản là điểm đến của giới trí thức Trung Quốc đang thất vọng với
khát vọng tự do của ḿnh, những người t́m thấy ở đó một môi trường thuận
lợi cho mọi đổi mới. Sau vài tháng làm quen với khí hậu, đặc biệt là
ngôn ngữ, Yu Dafu bước vào năm dự bị vào tháng 7 năm 1914 để học Đại học
Hoàng gia Tokyo. Một năm sau, vào tháng 9 năm 1915, ông đến Đại học
Nagoya để học y khoa và trở lại Tokyo vào năm 1919, nơi ông được nhận
vào học tại trường Đại học Nagoya. Đại học Hoàng gia chuyên ngành kinh
tế chính trị.
Ở Tokyo c̣n có bông hoa của giới trí thức Trung Quốc, nơi tạo thành một
cộng đồng tinh thần háo hức đổi mới; Yu Dafu t́m thấy chính ḿnh với Guo
Moruo (郭沫若, Quách Mạt Nhược ), Zhang Ziping (张资平, Trương Tư B́nh), Cheng
Fangwu (成仿吾, Thành Phỏng Ngô), Zheng Boqi (郑伯奇, Trịnh Bá Kỳ) và nhà viết
kịch (tương lai) Tian Han (田汉), tất cả những người bạn mà ông đă cùng đi
dạo qua các buổi tối các quán rượu ở Tokyo, uống rượu, đọc thơ và thảo
luận, và với họ, ông sẽ bắt tay vào một công việc kinh doanh sẽ đánh dấu
nền văn học của những năm 1920, nhưng cũng vượt xa lịch sử văn hóa của
Trung Quốc hiện đại. Thật khó khăn khi tưởng tượng rằng chính nhân vật
này, trong kỳ nghỉ hè năm 1920, đă tuân theo nghi thức kết hôn do mẹ anh
sắp đặt trong thời gian làm một chuyến thăm ngắn tới Fuyang.
Vào tháng 6 năm 1921, Yu Dafu hợp tác với Guo Moruo và Cheng Fangwu để
thành lập công ty "Sáng tạo" ( 创造社, Sáng tạo xă ), với nhiệm vụ quảng bá
văn học mới. Cái này, suy giảm theo nhiều phong cách như các tác giả
tham gia phong trào, tuy nhiên ban đầu được đặc trưng bởi một số đặc
điểm thiết yếu phá vỡ truyền thống: tầm quan trọng quyết định được trao
cho tiếng nói của cá nhân, đối lập với tập thể, trên một mô h́nh lấy cảm
hứng từ Nietzsche, nhưng cũng bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lăng mạn, chủ
nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa biểu hiện.
Một tháng sau, Yu Dafu xuất bản tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ḿnh:
ba truyện, trước lời tựa, “Đuối nước” (《沉沦, Trầm luân 》), “Trở về phương
Nam” (《南迁, Nam thiên 》) và “A Grey Death Silver” (《银灰色的, Ngân khôi sắc
đích tử ), văn bản đầu tiên xuất hiện ngay lập tức, ở một số khía cạnh,
như một văn bản sáng lập và, do đó, được khen ngợi nhiều cũng như bị chê
bai . Đây là sự khởi đầu trong sự nghiệp văn chương của ông.
“ Tạp chí Sáng tạo” (《创造季刊, Sáng tạo quư san 》) có số đầu tiên ra mắt
vào tháng 5 và ngay lập tức bị các thành viên của “hiệp hội nghiên cứu
văn học” (文学研究会, Văn học nghiên cứu hội ), cũng được thành lập vào năm
1921, chỉ trích, nhưng để bảo vệ chủ nghĩa hiện thực trong văn học. Vào
tháng 7, ông đă đăng trên tạp chí “Sáng tạo”, một trong những truyện
ngắn nổi tiếng nhất của ḿnh: “ Đêm xuân say đắm” (《春风沉醉的晚上, Xuân phong
trầm đích văn thượng 》).
Năm 1923, sau vài tháng dạy tiếng Anh ở An Huy, ông rời Thượng Hải đến
Bắc Kinh, nơi ông được bổ nhiệm làm giáo sư thống kê tại Đại học Beida,
đồng thời tiếp tục công việc 'Sáng tạo'. Đó là lúc ông kết bạn với Lỗ
Tấn.
Năm 1925, ông được bổ nhiệm vào Đại học Vũ Xương. Đồng thời, ông trở
thành biên tập viên của tạp chí văn học hai tháng một lần 'Hongshui' hay
"The Flood" (《洪水, Hồng thuỷ 》), đồng thời tránh xa "Sáng tạo".
Năm 1926, ông đến giảng dạy tại Đại học Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu
(广州中山大学文学院, Quảng châu trung sơn đại học văn học viện ), lúc đó là nơi
tập trung của các nhà cách mạng, nơi nhiều thành viên của hội "Sáng tạo"
đến giảng dạy, bao gồm cả Guo Moruo, sau lệnh cấm của Chính phủ. báo của
nhóm; ông sẽ sớm được tham gia cùng với Lỗ Tấn. Sau đó, ông xuất bản hai
bài luận lư thuyết quan trọng, một về tiểu thuyết (《小说论, Tiểu thuyết
luận 》, một về sân khấu (《戏剧论, Hí kịch luận 》.
Năm 1930, Yu Dafu viết “Hoa Osmanthus muộn” (《迟桂花, Tŕ quế hoa 》), xuất
bản năm 1932 cùng với một tiểu thuyết gần như “Cô ấy là một người phụ nữ
yếu đuối” (《她是一个弱女子, Tha thị nhất cá nhược nữ tử 》), tái bản năm 1933
với tựa đề “Hăy tha thứ cho anh ấy” (《饶了她, Nhiêu liễu tha 》). Đây là một
tác phẩm trưởng thành khép lại một chu kỳ sáng tạo mănh liệt kéo dài 8
năm, chứng kiến sự xuất bản của những tác phẩm, tiểu luận và truyện ngắn
hay nhất của ông. Tiếp theo là khoảng thời gian tám năm khác, sau một
thời gian ngắn quay trở lại với chủ nghĩa cổ điển, các tác phẩm của ông
về cơ bản là chính trị.
Cuối năm 1938, ông trốn sang Singapore cùng vợ và con trai. Cho đến năm
1942, ông làm biên tập viên văn học cho nhật báo 'Sin Chew Daily'
(《星洲日报, Tinh châu nhật báo 》) ở đó. Trong ba năm này, ông đă xuất bản
khoảng bốn trăm bài báo về các chủ đề thời sự được xuất bản vào năm 1978
tại Đài Loan trong hai tác phẩm: 'Bài tuỳ bút của Yu Dafu ở biển Nam'
(《郁达夫南洋随笔, Uất Đạt Phu nam du tuỳ bút 》) và “Bài viết kháng chiến của Yu
Dafu” (《郁达夫抗战文录, Uất Đạt Phu kháng chiến văn lục 》).
Có cả một cộng đồng người Hoa trên đảo, sau đó tràn ngập làn sóng người
tị nạn từ Trung Quốc đại lục, bao gồm nhiều nghệ sĩ, nuôi dưỡng một ḍng
văn học Trung Quốc chống Nhật, được gọi là "văn học kháng chiến" (抗战文学),
bao gồm cả Yu Dafu trở thành nhân vật hàng đầu. Trong một bài xă luận
trên tờ Sin Chew Daily, ông mô tả lư do duy nhất hiện nay của ông là ǵ
:
“Đă hai năm sáu tháng kể từ khi cuộc chiến bảo vệ quê hương bắt đầu.
Chúng ta đă đến giai đoạn phải huy động toàn bộ lực lượng để bảo đảm
thắng lợi cuối cùng. Chúng ta phải phát huy khả năng chiến đấu của ḿnh
cả trên mặt trận văn học... Chúng ta phải tấn công những kẻ bại trận và
những kẻ cộng tác... Không được có sự chia rẽ giữa các chính trị gia,
binh lính và trí thức. Bây giờ chúng ta phải ghi nhớ mệnh lệnh này khi
viết. »
Ngay từ tập truyện ngắn đầu tiên vào năm 1921, Yu Dafu đă gây chấn động.
Đó là: “Đuối nước” (《沉沦, Trầm luân 》), “Trở về phương Nam” (《南迁, Nam
thiên 》), và “Cái chết màu xám bạc” (《银灰色的死, Ngân khôi sắc đích tử 》).
Chúng mang chủ đề và được viết theo phong cách khiến chúng trở thành tác
phẩm chưa từng có trong văn học hư cấu Trung Quốc, và do đó, mở ra một
con đường hoàn toàn mới.
Điều có vẻ thú vị hơn là nó đă mở ra cánh cửa cho lối viết chủ quan ở
ngôi thứ nhất, một lối viết tự truyện hoàn toàn đoạn tuyệt với phong
cách tiểu thuyết vẫn thịnh hành cho đến thời điểm đó. Yu Dafu là một
người lăng mạn, rất hâm mộ tác phẩm “Suy nghĩ của người đi bộ đơn độc”
của Jean-Jacques Rousseau mà ông đă dịch. Chủ nghĩa lăng mạn cũng không
phải là không có sự mơ hồ, nhưng áp dụng cho sự tự măn trong việc bộc lộ
những cảm xúc cá nhân nhất, một thành phần quan trọng của sự giải phóng
cá nhân được tuyên bố trong phong trào ngày 4 tháng 5.
Đối với lối viết đổi mới ở ngôi thứ nhất này, người ta đă nhiều lần nhấn
mạnh rằng Yu Dafu lấy cảm hứng từ “tiểu thuyết về cái tôi” đang thịnh
hành ở Nhật Bản lúc bấy giờ, loại shishôsetsu mà tất cả các nhà văn Nhật
Bản thời đó đă chiếm đoạt. ông đă chuyển thể nó thành phong cách cá
nhân, là người đầu tiên can thiệp vào những đoạn độc thoại nội tâm của
các nhân vật, nhật kư hoặc bài thơ của họ.
Nếu chúng ta cho rằng phần lớn văn học viễn tưởng hiện đại ở Trung Quốc
là khẳng định lối viết chủ quan ở ngôi thứ nhất, th́ chúng ta có thể nói
rằng nó bắt đầu từ những truyện ngắn đầu tiên này của Yu Dafu.
***
Ở đây chúng ta có những bài viết có chủ đề khó thay đổi. Ngay cả “Cô ấy
là một người phụ nữ yếu đuối” (《她是一个弱女子Tha thị nhất cá nhược nữ tử 》),
một trong những truyện ngắn cuối cùng của ông xuất bản năm 1932, cũng có
chủ đề tương tự về những t́nh yêu không trọn vẹn và t́nh dục chán nản, ở
đây đơn giản là công việc của ba người phụ nữ. Về phần cuối cùng, “Những
bông hoa Osmanthus muộn”, nó dường như thông báo một lối viết nhẹ nhàng
hơn, yên b́nh hơn, nhưng đó lại là một bài hát thiên nga.
Tuy nhiên, có một truyện ngắn đại diện cho một xu hướng hơi khác, mặc dù
được xuất bản chỉ muộn hơn ba năm so với ba truyện đầu tiên, một truyện
ngắn đề cập đến t́nh dục bị kiểm soát, mà Yu Dafu gọi là "truyện ngắn
mang màu sắc xă hội": " đêm xuân say đắm" ( .春风沉醉的晚 ); chính tác giả là
người đă truyền cảm hứng cho bộ phim của Lou Ye được tŕnh chiếu tại
Liên hoan phim Cannes năm 2009, sử dụng cùng tựa đề, mặc dù được dịch
khác nhau: “Đêm say xuân”. Thật thú vị khi đọc và phân tích nó và xem
tại sao Lou Ye ( (娄烨, Lâu Diệp ) lại chọn nó làm tài liệu tham khảo. ( 1
)
_________
( 1 ) Bộ phim thứ năm của đạo diễn Lâu Diệp (娄烨), ra mắt vào tháng 5 năm
2009 tại Liên hoan phim Cannes, lấy tựa tiếng Trung là truyện ngắn của
Yu Dafu, nhưng dịch khác: “Đêm say xuân”.
Tuy nhiên, đây không phải là sự chuyển thể từ truyện ngắn. Lâu Diệp chỉ
đọc một đoạn văn cho một nhân vật trong phim nghe. Trên thực tế, ông chủ
yếu sử dụng tài liệu tham khảo về một tác giả đă gây ra vụ bê bối vào
thời đó v́ sự tự do của ḿnh.
Biểu hiện và là biểu tượng của một thời kỳ lên men trí tuệ mănh liệt gắn
liền với sự giải phóng tinh thần đang diễn ra trong những năm 1920-1930.
Trong một cuộc phỏng vấn đăng trên tuần báo Shidai Zhoukan (时代周刊, Thời
đại chu san ), Lâu Diệp nhấn mạnh di sản lịch sử này, liên kết bộ phim
của ông với truyền thống chủ nghĩa cá nhân đặc trưng của thời đại này.
Nó c̣n vượt xa điều đó.
Yu Dafu trở nên nổi tiếng nhờ những bài viết mô tả chi tiết sang trọng
vào thời điểm đó, những trải nghiệm thân mật có tính chất khiêu dâm, bắt
đầu từ năm 1921, với việc xuất bản cuốn sách đầu tiên của ông. Chu Tả
Nhân (周作人), anh trai của Lỗ Tấn, sau đó đă bảo vệ ông bằng cách nói rằng
tính khêu gợi của cuốn tiểu thuyết có mục đích nghệ thuật là đấu tranh
chống lại đạo đức thông thường, và các lư thuyết của Freud đă coi t́nh
dục là một yếu tố sáng tạo có tầm quan trọng hàng đầu. Đối với Yu Dafu
và những người bạn của ông, có một triệu chứng là việc đàn áp t́nh dục
đi đôi với đàn áp kinh tế và xă hội đang thịnh hành vào thời điểm đó ở
Trung Quốc, và việc chống lại nó tương đương với việc tố cáo thói đạo
đức giả của xă hội Trung Quốc.
Do đó, Lou Ye có một quan điểm tương tự, chuyển sang thời đại chúng ta,
nghĩa là đi xa hơn nữa trong các yêu cầu giải phóng t́nh dục và giải
phóng xă hội nói chung. Nhưng thật trớ trêu là để tượng trưng cho chủ đề
này, ông đă chọn một truyện ngắn mà chính xác th́ nó lại vắng mặt và đề
cập đến một điều ǵ đó hoàn toàn khác.
* * *
“ Đêm xuân say đắm” là một truyện
ngắn củaYu Dafu (郁达夫) viết vào tháng 7 năm 1923, tức là một trong những
truyện ngắn đầu tiên của ông được xuất bản ở Thượng Hải sau khi ông trở
về từ Nhật Bản.
Đó là một truyện ngắn viết ở ngôi thứ nhất, bị ảnh hưởng rơ ràng bởi
phong cách tự truyện của shishôsetsu Nhật Bản, “tiểu thuyết về bản
thân”, lúc đó đang thịnh hành ở Nhật Bản; Tuy nhiên, nó rơ ràng khác với
phong cách các truyện ngắn trước đây của tác giả, những truyện đă tạo
nên danh tiếng cho ông như một nhà văn chuyên viết scandal thông qua
quyền tự do viết lách và các chủ đề được xử lư, đặc biệt là “Đuối nước”
(《沉沦, Trầm luân 》).
Không có điều đó trong tin tức này. Người kể chuyện, “tôi”, là một nhà
văn nghèo sống ở khu ổ chuột ở Thượng Hải đang cố gắng bán một số bản
dịch, trong một khu ổ chuột nơi anh chỉ có chỗ để ngồi, trên một trong
những căn nhà.
B́a sách vẽ hai chồng sách quăn góc là “đồ nội thất” duy nhất anh c̣n
lại. Không có quần áo tươm tất, anh chỉ ra ngoài vào ban đêm, việc thiếu
ngủ và thiếu ăn đă khiến anh suy yếu đến mức thậm chí c̣n khó tập trung
vào một cuốn sách.
Mối liên hệ duy nhất của anh với thế giới bên ngoài là một công nhân trẻ
làm việc tại một nhà máy thuốc lá sống trong căn pḥng liền kề; cô ấy
đại diện cho một loại thiên thần thuần khiết trong một thế giới vũng bùn
mà anh ấy tôn trọng trước mọi khó khăn, và đặc biệt là sự thôi thúc của
chính anh ấy. Có một thứ chủ nghĩa lăng mạn kéo dài trong mô tả về vũ
trụ khốn khổ nhưng thuần khiết này, nằm trong một căn gác xép dưới mái
nhà giống như 'bohemia' của Murger.
Sự đoàn kết, dựa trên sự nghèo đói chung của xă hội, giữa người công
nhân trẻ và nhà văn vô danh, dẫn đến sự đồng lơa giữa họ, cũng là sự
phản ánh tư tưởng xă hội chủ nghĩa theo tinh thần của thời đại bấy giờ;
như Ermei trẻ tuổi nói: “À, nhưng thế th́ bạn cũng giống tôi! » . Tuy
nhiên, cô có việc làm c̣n anh th́ không... Vực thẳm giai cấp vẫn c̣n đó.
Những “đêm xuân say đắm” của nhan đề – biểu hiện của nó xuất hiện ở phần
thứ ba – rốt cuộc chỉ là một đoạn ngắn ngủi của sự hưng phấn cuồng nhiệt
trước sự xuất hiện của mùa xuân, nhưng không có hậu quả: truyện ngắn kết
thúc bằng một suy tư không ảo tưởng TRÊN tương lai và miêu tả bầu trời
buồn vô hạn. Xét về độ say, “Đêm xuân say đắm” là câu chuyện về một sự
sa sút mà dường như không có kết quả nào có thể xảy ra, và vượt xa sự
thất vọng về khát vọng cá nhân, như thường được tŕnh bày. Đó là một
cuộc khủng hoảng hiện sinh sinh ra từ sự phản đối trực diện đối với xă
hội, và do đó, không bền vững.
“Đêm xuân say đắm” kết thúc bằng cảnh nhân vật lang thang về đêm, không
có hồi kết, giống như hầu hết các truyện ngắn của Yu Dafu.
* * *
1.
Tôi sống ở Thượng Hải sáu tháng mà không t́m được việc làm, và v́ không
có việc làm nên tôi đă chuyển nhà ba lần. Lần đầu tiên tôi sống, trên
phố chùa Tĩnh An, trong một pḥng giam chưa bao giờ nh́n thấy mặt trời,
một nhà tù giống như một cái lồng chim không có hàng rào. Ngoại trừ một
số thợ may trông hung dữ như bọn cướp, hầu hết hàng xóm của nhà tù không
song sắt này đều là những học giả khốn khổ, hoàn toàn vô danh; nên tôi
gọi nơi này là “Phố Grab Vàng”. Tôi đă ở trong “con mương” này trong một
tháng. Lúc đó tiền thuê nhà tăng đột ngột, tôi buộc phải chuyển mấy cuốn
sách quăn góc của ḿnh để ở trong một quán trọ nhỏ mà tôi biết gần
trường đua. Nhưng sau đó, nhiều ràng buộc khác nhau buộc tôi phải chuyển
đi, thuê một căn pḥng rất nhỏ trên đường Dengtuo, trên bờ phía bắc cầu
Baidu, trong khu phố tồi tàn đối diện Xinrili.
Từ mặt đất đến mái nhà, vài dăy nhà trên đường Đăng Đà này cao chưa tới
hai mét. Pḥng tôi ở tầng trên thấp đến mức nếu tôi muốn đứng dậy vươn
vai, cả hai tay tôi sẽ xuyên qua trần nhà đen bụi. Khi bạn bước vào từ
con hẻm, trước tiên bạn bước vào căn pḥng nơi người chủ ở. Sau đó, bạn
phải luồn qua đống vải, hộp thiếc, chai thủy tinh và sắt vụn để sau vài
bước, bạn sẽ đến được một chiếc thang dựa vào tường bị mất vài bậc và
cho phép bạn đi lên lầu, qua một cái lỗ tối rộng khoảng sáu mươi cm.
Tầng trên tối tăm và có kích thước bằng một chiếc khăn tay bỏ túi; tuy
nhiên, người chủ đă chia nó thành hai căn pḥng nhỏ: căn pḥng hướng ra
ngoài được cho một công nhân làm việc tại nhà máy thuốc lá N. thuê, căn
pḥng của tôi là căn đầu tiên có cầu thang bộ lên; v́ tôi phải đi qua đó
để vào hoặc ra pḥng khác nên tiền thuê nhà của tôi được giảm bớt phần
nào.
Cuộc gặp đầu tiên của tôi với người hàng xóm ở pḥng bên cạnh diễn ra
vào đúng buổi chiều tôi chuyển đến. Vào mùa xuân, hoàng hôn buông xuống
rất nhanh, khoảng năm giờ, tôi thắp nến để cất đi mấy cuốn sách nhàu nát
vừa mang từ quán trọ về. Tôi bắt đầu bằng cách làm hai cọc, một cọc nhỏ
và một cọc lớn hơn, sau đó phủ lên cọc lớn hơn bằng hai tấm bảng vẽ dài
khoảng 60 cm. V́ tôi đă bán hết đồ đạc của ḿnh nên chồng sách với những
tấm bảng này sẽ dùng làm bàn viết vào ban ngày và vào buổi tối có thể
dùng làm giường ngủ. Sau khi sắp xếp xong bảng vẽ, tôi ngồi hút thuốc
trên chồng sách nhỏ nhất, trước chiếc bàn được làm bằng chồng sách kia,
quay lưng về phía khe mở 'thang'. Đang hút thuốc, tôi đang chăm chú nh́n
ngọn lửa của ngọn nến th́ chợt nghe thấy tiếng động ở gần cái thang,
dưới cửa sập. Quay đầu lại, tôi chỉ thấy cái bóng dài của ḿnh chiếu ở
đó, không nh́n thấy ǵ khác, nhưng những ǵ tôi nghe được cho tôi biết
có người đang tiến tới.
Sau khi nh́n vào bóng tối vài giây, tôi thấy h́nh trái xoan của một
khuôn mặt nhợt nhạt hiện ra, rồi đến bức tượng bán thân gầy g̣ của một
người phụ nữ. Tôi hiểu ngay rằng đó là người hàng xóm của tôi ở tầng
trên. Quả thực, khi tôi đang t́m chỗ ở, người chủ giải thích với tôi
rằng, ngoài anh ta, ngôi nhà chỉ có một người giúp việc cho mỗi cư dân,
ở tầng trên. Điều tôi thích một mặt là giá thuê vừa phải nhưng cũng
không có vợ con ở địa chỉ này nên tôi nhận pḥng ngay. Khi người hàng
xóm của tôi đă lên đến đỉnh thang, tôi đứng dậy cúi đầu nói với cô ấy:
“Xin lỗi, sáng nay tôi mới chuyển đến, tôi hy vọng chúng ta sẽ sống ḥa
thuận.”
Cô không trả lời, chỉ nh́n tôi một cách kiên quyết với đôi mắt đen như
hạt huyền, rồi bước đến cửa, mở chốt và bước vào. Chúng tôi chỉ trao
nhau một cái nh́n, nhưng không biết tại sao, tôi nghĩ cô ấy đă khơi dậy
sự thương hại. Sống mũi cao, khuôn mặt trái xoan rất nhợt nhạt, vóc dáng
nhỏ nhắn và gầy g̣, mọi thứ dường như đều là nét đáng thương của một
người nào đó, nhưng lúc đó tôi đă đủ lo cho cuộc sống của ḿnh mà không
thấy tiếc nuối, đối với người công nhân đă có việc làm. Thế là, sau vài
phút, tôi quay lại ngồi yên trên chồng sách nhỏ, ngắm nh́n ánh nến.
Hơn một tuần trôi qua như thế; sáng nào cô ấy cũng đi làm rất sớm, lúc
bảy giờ và trở về khi công việc xong, vào khoảng hơn sáu giờ một chút;
cô luôn thấy tôi ngồi trên đống sách nh́n chằm chằm vào ngọn nến hoặc
ngọn đèn dầu. Không nghi ngờ ǵ nữa, chính thái độ của tôi đă khơi dậy
sự ṭ ṃ của cô về trạng thái tinh thần của tôi. Một ngày nọ, khi cô đi
làm về, tôi đứng dậy như thường lệ để cho cô đi qua th́ khi cô đến gần
tôi, cô đột nhiên dừng lại. Liếc nh́n tôi, cô lắp bắp hỏi tôi, như thể
có điều ǵ khiến cô sợ hăi: “Ngày nào anh cũng đọc sách ǵ thế?” ( cô ấy
có giọng Tô Châu rất nhẹ, khiến tôi có một cảm giác khó tả; tôi chỉ có
thể phiên âm lời cô ấy sang ngôn ngữ thông thường.)
Tuy nhiên, khi nghe câu hỏi của cô, tôi cảm thấy ḿnh đỏ mặt, v́ dù suốt
ngày tôi ngồi ngốc nghếch ở đó, với mấy cuốn sách nước ngoài mở trước
mặt, đầu óc tôi thực sự bối rối đến mức tôi không thể nhớ bất cứ điều
ǵ, không một ḍng hay thậm chí một câu. Đôi khi, tôi chỉ sử dụng trí
tưởng tượng của ḿnh để lấp đầy khoảng trống giữa các ḍng bằng những
h́nh thù kỳ lạ. Vào những lúc khác, tôi hài ḷng khi lướt qua những h́nh
ảnh minh họa được chèn vào văn bản và nảy ra những tưởng tượng viển
vông. Lúc này, do thiếu ngủ và thiếu ăn nên tôi đă hơi ốm yếu. Hơn nữa,
tài sản duy nhất mà tôi sở hữu là chiếc áo bông của tôi đă sờn rách đến
mức cuối cùng, tôi không dám ra ngoài đi dạo giữa ban ngày và v́ không
có một chút ánh sáng nhỏ nào lọt vào pḥng tôi nên tôi buộc phải thắp
một ngọn nến hay đèn dầu vào mọi thời điểm trong ngày, đêm và ngày, khi
đó không chỉ cơ thể tôi yếu đi mà cả mắt tôi cũng vậy.
Trong hoàn cảnh này, làm sao nghe cô hỏi tôi câu hỏi này, tôi có thể
không đỏ mặt? Thế là tôi trả lời cô ấy rất lảng tránh: “Tôi không đọc,
không làm ǵ cả, nhưng nếu tôi chỉ ngồi đây và không làm ǵ th́ trông
tôi sẽ ngu ngốc nên tôi trải những cuốn sách này ra trước mặt. »
Nói xong, cô nh́n tôi một lúc lâu, có vẻ ṭ ṃ, rồi, như thường lệ, rời
đi về pḥng. Tuy nhiên, tôi không thể nói rằng suốt những ngày đó tôi
không đi t́m việc làm và tôi hoàn toàn không làm ǵ cả, điều đó sẽ sai.
Đôi lúc, đầu óc tôi sáng suốt hơn một chút nên tôi dịch vài bài thơ ngắn
bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, cũng như một vài truyện ngắn tiếng Đức,
chưa đến bốn ngh́n kư tự, và vào ban đêm, khi mọi người đă ngủ say, tôi
đă đi gửi chúng đến các nhà xuất bản mới mà không gây ồn ào. V́ từ lâu
tôi đă mất hết hy vọng t́m được việc làm nên tất cả những ǵ tôi c̣n lại
là khả năng sử dụng bộ năo khô khan của ḿnh để cố gắng tưởng tượng ra
một giải pháp. Nếu bản dịch của tôi làm hài ḷng một nhà xuất bản và nếu
chúng được xuất bản th́ tôi sẽ kiếm được một khoản tiền nhỏ. Ngoài ra,
kể từ khi chuyển đến phố Dengtuo, trong cuộc tṛ chuyện đầu tiên với cô
ấy, tôi đă đăng ba hoặc bốn bản dịch.
2.
Khi bạn sống ở Thượng Hải trong sự hỗn loạn đen tối của Khu tô giới,
không dễ để nhận thấy sự thay đổi của các mùa hoặc ngày tháng trôi qua.
Sau khi chuyển đến đường Đặng Đà, tôi chỉ có cảm giác rằng chiếc áo bông
cũ kỹ của ḿnh mỗi ngày một nặng hơn, mỗi ngày một ấm hơn một chút, nên
tôi tự nhủ: “Chắc hẳn mùa xuân đă đến đây được một thời gian rồi! »
Nhưng không có một xu trong túi, tôi không thể đi đâu cả. Tôi bị buộc
phải ngồi cả ngày lẫn đêm trong bóng tối của căn pḥng, dưới ánh đèn.
Một hôm, chắc hẳn là đă xế chiều, tôi đang ngồi như thế th́ người hàng
xóm của tôi bước vào, trên tay cầm hai gói giấy ; khi tôi đứng dậy để
cho cô đi qua, cô đặt một trong những gói hàng lên bàn tôi và nói với
tôi:
“Gói này là bánh ḿ nho khô, để sang một bên, ngày mai sẽ ăn. Tôi cũng
mua chuối, mời anh vào pḥng tôi ăn nhé. »
Cô dường như đă từ bỏ sự nghi ngờ ban đầu của ḿnh. Căn pḥng đầy nắng,
đơn giản nhưng sạch sẽ. Trong khi đang ăn, cô gái hỏi: tại sao anh lại ở
đây? tại sao anh không t́m việc làm? không có bạn bè hay gia đ́nh à?...
Những câu hỏi này đột nhiên khiến tôi nhận ra sự tồn tại của ḿnh đă trở
thành như thế nào. Bởi v́ tôi càng ngày càng chán nản hơn nên cuối cùng
tôi đă quên mất những quan niệm cơ bản về: “Tôi là ai? », “Cuộc sống của
tôi bây giờ là thế nào? », “Trong thâm tâm, tôi hạnh phúc hay bất hạnh?
". Khi cô ấy hỏi tôi những câu hỏi này, ngày qua ngày, tôi sống lại điều
kiện sống khốn khổ đă từng là của tôi trong sáu tháng trước đó, và tôi
chỉ có thể không nói nên lời. Nh́n thấy tôi như vậy, chắc cô ấy tưởng
tôi là một kẻ khốn khổ, không gia đ́nh, không nơi nương tựa. Vẻ cô đơn
buồn bă ngay lập tức hiện lên trên khuôn mặt cô, và cô nói với tôi với
một tiếng thở dài không thể nhận ra:
“À! Vậy anh có giống tôi không nhỉ? »
Cô có quyền đặt các câu hỏi. Cô nói rằng cô làm việc ở nhà máy thuốc lá,
mười giờ một ngày, kiếm được 9 nhân dân tệ một tháng, chi 4 nhân dân tệ
cho thực phẩm, số tiền này gần như không đủ để cô trả tiền thuê nhà; cô
ấy ghét nhà máy và yêu cầu nó ngừng thải khói. Sau đó người kể chuyện
trở về pḥng của ḿnh.
Kể từ tối hôm đó, mỗi lần về nhà vào buổi tối, cô đều trao đổi với tôi
đôi câu. Nhờ đó tôi biết được rằng cô tên là Chen Ermei, quê ở vùng phía
đông Tô Châu, nhưng lớn lên ở một trong những ngôi làng ở ngoại ô Thượng
Hải; bố làm việc ở nhà máy thuốc lá nhưng đă qua đời mùa thu trước. Cô
sống với bố trong căn pḥng này và hàng ngày họ cùng nhau đến nhà máy;
cái chết của ông đă khiến cô cô đơn khủng khiếp. Tháng đầu tiên đi làm
sớm, cô khóc suốt dọc đường, đến tối lại khóc suốt đường về. Cô năm nay
mười bảy tuổi, không có anh chị em hay họ hàng thân thích. Trước khi cha
mất, ông đă đưa mười lăm tệ cho ông già ở tầng dưới để lo tang lễ cho
ông, và ông ấy đă làm đúng như vậy.
Cô nói: ông ấy là một người đàn ông tốt, ông chưa bao giờ có ác ư với
tôi nên tôi vẫn có thể tiếp tục làm việc như khi bố tôi c̣n sống; Ngược
lại, ở nhà máy, có một quản đốc tên Li là người xấu tính: biết bố tôi đă
chết, ông ta liên tục t́m cách ngược đăi tôi.
Do đó, tôi đă biết được hầu hết mọi thứ về cuộc đời của cô ấy, và của
cha cô ; mặt khác, c̣n mẹ cô th́ sao? Bà ấy đă qua đời hay c̣n sống? Và
nếu c̣n th́ bà đang ở đâu? Cô chưa bao giờ nói với tôi về điều này.
3.
Thời gian dường như đă thay đổi. Những ngày gần đây, không khí ngột ngạt
trong căn pḥng nhỏ bé tối tăm của tôi, thế giới đơn độc vốn là của tôi,
đă trở thành một cái ḷ nướng thực sự, đến mức khiến tôi choáng váng và
cảm thấy khó chịu; mỗi khi giao mùa, khi hết xuân báo trước hè, tôi lại
thấy lo lắng bệnh hoạn: tôi gần như phát điên. Đó là lư do tại sao vào
những ngày đó, khi màn đêm buông xuống, khi sự phấn khích trong ngày đă
lắng xuống, tôi muốn ra ngoài đi dạo. Một ḿnh trên đại lộ, tôi bước
chậm răi trước mặt, ngắm nh́n đám sao lấp lánh trên dải hẹp bầu trời
xanh thẫm phía trên, trong khi để tâm trí tự do lang thang; nó đă giúp
tôi rất nhiều. Bị cuốn vào cuộc phiêu lưu, trong những đêm xuân say sưa
này, tôi bước đi không mục đích và chỉ trở về vào lúc b́nh minh. Kiệt
sức, tôi ngủ ngay, đến trưa hôm sau. Thậm chí nhiều lần tôi c̣n đang ngủ
th́ Ermei đánh thức tôi khi cô đi làm về, và lúc đó tôi mới dậy; ngủ đủ
giấc, tôi thấy sức khỏe của ḿnh được cải thiện từng chút một. Trong khi
đó, cho đến lúc đó, dạ dày của tôi hầu như không thể chịu đựng được nửa
pound bánh ḿ, nhưng với bài tập tôi thực hiện trong những chuyến đi bộ
đêm, tôi đă sớm có thể nuốt được cả pound. T́nh h́nh tài chính của tôi
bị ảnh hưởng nặng nề nhưng bộ năo của tôi được nuôi dưỡng tốt nên có thể
tập trung tốt hơn nhiều.
Bởi vậy, khi về đến nhà, trước khi đi ngủ, tôi có viết vài truyện ngắn
thuộc thể loại Edgar Poe, đọc lại thấy khá hay. Sau khi xem lại và sao
chép nhiều lần, tôi đăng chúng lên, rồi dù mỗi lần tràn đầy hy vọng nhỏ
nhoi nhưng tôi nhanh chóng quên chúng sau vài ngày nghĩ lại số bản dịch
tôi đă gửi mà sau đó không có tin tức.
Khi cô hàng xóm Ermei đi làm, suốt ngày tôi ngủ rất ngon lành, măi đến
cuối ngày khi cô về, tôi mới có cơ hội gặp cô, nhưng thực sự không biết
tại sao tôi có ấn tượng rằng cô ấy đă quay trở lại thái độ nghi ngờ ban
đầu đối với tôi. Đôi khi cô ấy nh́n tôi rất lâu, trong đôi mắt đen trong
veo của cô ấy ánh lên một tia trách móc và khuyên nhủ.
[ Một ngày nọ, cô chạy lên lầu để nói với anh rằng người đưa thư đang
đợi anh ở tầng dưới: đó là một lá thư gởi bảo đảm - một phiếu chuyển
tiền trị giá 5 nhân dân tệ cho một bản dịch đă được xuất bản. Tuy nhiên,
khi ra ngoài - giữa ban ngày - để lấy nó, anh nhận ra trời nóng không
chịu nổi nên quyết định mua một chiếc áo mỏng. Đang vui vẻ và mải mê suy
nghĩ, anh suưt bị một chiếc xe đẩy đâm phải... Đi mua sắm xong, anh
không c̣n tiền thuê nhà nên quyết định tận dụng đến cùng, bằng cách mua
ít bánh kẹo để có chút ǵ chia sẻ với Ermei. Anh ngủ quên ở góc bàn
trong khi đợi cô ấy...]
4.
[ Ermei về nhà rất muộn, lúc 10 giờ tối v́ phải làm thêm giờ. Trong khi
nhấm nháp những viên sôcôla anh mang về, cuối cùng cô giải thích thái độ
của cô: cô tin rằng anh đă bắt đầu đi chơi với những tên trộm và bọn cặn
bă của khu ổ chuột, và đó là lư do tại sao anh lại đi ra ngoài vào ban
đêm và đă mua một chiếc áo mới. Choáng váng, anh giải thích với cô rằng
anh đă nhận được năm nhân dân tệ cho một bản dịch... Sau đó, cô xin lỗi
anh một cách thẳng thắn đến mức người kể chuyện cảm thấy khao khát được
ôm cô ấy một cách mănh liệt, nhưng rồi anh ấy đă b́nh tâm và đưa cô trở
lại pḥng cô. Ngồi lại một ḿnh, anh đánh giá sự tồn tại của ḿnh và
thấy nó vô vọng... ]
“Đúng là cô gái này thật đáng thương, nhưng hiện tại hoàn cảnh tôi c̣n
tệ hơn cô ấy; Cô không thích công việc của ḿnh và làm nó dưới sự ép
buộc . Tôi lại rất muốn t́m được một việc, nhưng cuối cùng tôi không
thể. Vậy phải lao động chân tay phải không? À à, nhưng tôi thậm chí c̣n
không đủ sức để đẩy .
“Tôi có thể tự sát. Nhưng nếu đủ can đảm th́ tôi đă làm từ lâu rồi. Tuy
nhiên, v́ tôi vừa nhắc đến ư tưởng đó nên chứng tỏ tôi vẫn c̣n một chút
ư chí.
“A a a a! Tài xế xe đẩy này ngày hôm nay! Hắn c̣n gọi tôi là ǵ nữa?
“Con chó màu vàng. Thực ra th́ cái tên này cũng không tệ chút nào! “
Do đó, tôi đă bị tấn công bởi một đám những ư tưởng lộn xộn và rời rạc,
nhưng cuối cùng chúng đă không xảy ra, không mang lại cho tôi giải pháp
nào có thể giúp tôi thoát khỏi nghèo đói. Tôi nghe thấy tiếng c̣i nhà
máy, chắc đă nửa đêm rồi. Sau đó tôi đứng dậy, mặc chiếc áo bông cũ sờn,
thổi nến rồi ra ngoài đi dạo.
Trong khu phố đổ nát này, mọi người đang ngủ, mọi thứ đều yên tĩnh.
Trong dăy ṭa nhà hiện đại dọc theo đường Dengtuo, đối diện với Xinrili,
một vài ngọn đèn nhiều màu sắc vẫn được thắp sáng đây đó, và, ở đó, có
ai đó đang chơi đàn balalaika. Trong không khí đêm lạnh lẽo, những đoạn
nhạc du dương, một không khí u sầu, chạm tới tôi trong im lặng sâu lắng;
có lẽ đó là một cô gái di cư người Nga trẻ đi hát để kiếm tiền. Bầu trời
bị bao phủ bởi những đám mây xám xịt, có nơi vỡ vụn, giống như những xác
chết đang thối rữa chất đống ở đó. Nơi đám mây tan vỡ, một vài ngôi sao
xuất hiện, nhưng xung quanh, bầu trời tối tăm dường như ẩn chứa nỗi buồn
vô tận.
Ngày 15 tháng 7 năm 1923 .
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu ( theo bản tiếng Pháp của Brigitte Duzan )
tháng 9 / 2024
Nguồn:
http://www.chinese-shortstories.com/Nouvelles_de_a_z_YuDafu_Enivrantes_nuits_de_printemps.htm
Trang Thân Trọng
Sơn
art2all.net |