Thân Trọng Sơn
 

 

NGƯỜI TRÙNG TÊN

Willa Cather
( 1873 - 1947 )

 

 

“The fact that I was a girl never damaged my ambitions to be a pope or an emperor."
― Willa Cather

“ Việc tôi là con gái không bao giờ làm tổn hại đến tham vọng trở thành giáo hoàng hay hoàng đế của tôi.”

 

 

          Willa Cather, tên khai sinh là Wilella Sibert Cather, là một nhà văn người Mỹ nổi tiếng với những tiểu thuyết về cuộc sống trên vùng đồng bằng Great Plains, bao gồm O Pioneers!, The Song of the Lark và My Ántonia. Năm 1923, bà được trao giải Pulitzer cho tác phẩm One of Ours, một tiểu thuyết lấy bối cảnh Thế chiến thứ nhất.

Willa Cather và gia đ́nh chuyển từ Virginia đến Quận Webster, Nebraska khi bà chín tuổi. Sau đó, gia đ́nh định cư tại thị trấn Red Cloud. Ngay sau khi tốt nghiệp Đại học Nebraska–Lincoln, Cather chuyển đến Pittsburgh trong 10 năm, tự nuôi sống bản thân bằng nghề biên tập viên tạp chí và giáo viên tiếng Anh trung học. Ở tuổi 33, bà chuyển đến Thành phố New York, nơi bà sinh sống trong suốt quăng đời c̣n lại, mặc dù bà cũng đi du lịch khắp nơi và dành nhiều thời gian ở nơi nghỉ dưỡng mùa hè của ḿnh trên Đảo Grand Manan, New Brunswick. Bà đă dành 39 năm cuối đời với người bạn đời của ḿnh, Edith Lewis, trước khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú và qua đời v́ xuất huyết năo. Cather và Lewis được chôn cất cùng nhau tại Jaffrey, New Hampshire.

Cather được công nhận là một tiểu thuyết gia về biên giới và trải nghiệm tiên phong. Bà đă viết về tinh thần của những người định cư chuyển đến các tiểu bang phía tây, nhiều người trong số họ là những người nhập cư châu Âu vào thế kỷ 19. Các chủ đề chung trong tác phẩm của bà bao gồm nỗi nhớ và sự lưu vong. Cảm giác về địa điểm là một yếu tố quan trọng trong tiểu thuyết của bà: phong cảnh và không gian gia đ́nh trở thành sự hiện diện năng động, mà các nhân vật của bà đấu tranh và t́m thấy cộng đồng.

Cather đă khẳng định vị thế là một nhà văn lớn của Mỹ, nhận Giải thưởng Pulitzer năm 1923 cho cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh Thế chiến thứ nhất, One of Ours. Bà tiếp tục với tác phẩm nổi tiếng Death Comes for the Archbishop vào năm 1927, bán được 86.500 bản chỉ trong hai năm. Tác phẩm đă được đưa vào danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20 của Thư viện hiện đại.

Hai trong số ba cuốn tiểu thuyết khác của bà trong thập kỷ này—A Lost Lady và The Professor's House—đă nâng cao vị thế văn học của bà một cách đáng kể. Bà được mời đến thuyết tŕnh trước công chúng hàng trăm lần, kiếm được tiền bản quyền đáng kể và bán bản quyền chuyển thể thành phim cho A Lost Lady. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết khác của bà trong thập kỷ này, My Mortal Enemy, xuất bản năm 1926, lại không nhận được sự hoan nghênh rộng răi—và cả bà lẫn người bạn đời của bà, Edith Lewis, đều không nhắc đến tác phẩm này một cách đáng kể sau này trong cuộc đời họ.

Bất chấp thành công của ḿnh, bà cũng phải chịu nhiều lời chỉ trích gay gắt, đặc biệt là xung quanh One of Ours. Người bạn thân của bà, Elizabeth Shepley Sergeant, coi cuốn tiểu thuyết này là sự phản bội thực tế của chiến tranh, không hiểu cách "thu hẹp khoảng cách giữa tầm nh́n lư tưởng về chiến tranh của Cather ... và ấn tượng khắc nghiệt của riêng tôi về chiến tranh khi sống". Tương tự như vậy, Ernest Hemingway đă phản đối cách bà miêu tả chiến tranh, viết trong một lá thư năm 1923, "Cảnh cuối cùng [của cuốn tiểu thuyết] trong những câu thơ thật tuyệt vời phải không? Bạn có biết nó đến từ đâu không? Cảnh chiến đấu trong Birth of a Nation. Tôi đă xác định từng tập, Catherized. Người phụ nữ tội nghiệp, bà ấy phải lấy kinh nghiệm chiến tranh của ḿnh ở đâu đó". 

Năm 1929, bà được bầu vào Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ.


The Namesake được xuất bản trên Tạp chí McClure vào năm 1907. "Lần đầu tiên tôi cảm thấy sức hút của chủng tộc, ḍng máu và họ hàng, và cảm thấy những điều không bắt đầu từ tôi đập mạnh trong tôi. Cứ như thể mặt đất dưới chân tôi đă nắm lấy và bám rễ vào tôi, và đang đổ tinh túy của nó vào tôi."

Nhan đề "The Namesake" (1) của Willa Cather ám chỉ mối liên hệ giữa một người và người cùng tên, đặc biệt là một người họ hàng đă khuất. Trong trường hợp này, câu chuyện của Cather có liên quan đến người chú bên mẹ của bà, William Silbert Boak, người đă chết trong Nội chiến. Nhan đề cũng khám phá các chủ đề về bản sắc, di sản và tác động của lịch sử đối với cá nhân.

The Namesake được lấy cảm hứng từ người chú ruột của bà, William Silbert Boak, người đă chết trong Nội chiến. V́ lư do đó, nó được coi là 'một trong những tác phẩm hư cấu tự truyện nhất của Cather'. Truyện ngắn này có liên quan đến bài thơ The Namesake của Willa Cather, cũng đề cập đến chủ đề Nội chiến, được kể từ góc nh́n của một nhà điêu khắc.

Chuyện kể về Charles Bentley, một trong những học tṛ của Hartwell, sắp rời đi. Sau khi đến một nhà hàng cao cấp, Maxim's, tất cả mọi người tụ tập tại nhà của Hartwell, người tiếp tục kể câu chuyện cuộc đời ḿnh. Cha của ông, một người Mỹ, chuyển đến Ư để t́m cảm hứng cho các tác phẩm điêu khắc của ḿnh. Chú của ông ở lại Mỹ và qua đời trong Nội chiến ngay sau đó. Năm mười một tuổi, mẹ ông qua đời và ông được gửi đi làm học việc tại một xưởng điêu khắc ở Rome cho đến năm hai mươi mốt tuổi. Khi ông mười bốn tuổi, cha ông qua đời. Khi đến tuổi trưởng thành, ông chuyển đến Paris, nơi ông học với nhiều bậc thầy hơn, và cuối cùng đă thực hiện một chuyến đi đến Mỹ để thăm nơi sinh của cha ḿnh ở Tây Pennsylvania. Mặc dù lúc đầu ông không cảm thấy thoải mái với sự tàn phá mà công nghiệp hóa đă gây ra cho cảnh quan, nhưng ông sớm biết rằng chú của ḿnh đă được chôn cất trong vườn. Sau đó, trên gác xép, ông t́m thấy một chiếc rương có tên ḿnh trên đó và nhận ra rằng đó là của chú ḿnh. Cảm giác thân thiết đă được khơi dậy; đó là lư do tại sao ông cảm thấy việc trở về nhà luôn là điều ǵ đó đặc biệt.

Đây là câu chuyện về văn hóa, chủng tộc và di sản và cách những yếu tố này định h́nh thái độ của chúng ta và định hướng cuộc sống của chúng ta trong một xă hội luôn thay đổi.
 

 

          Bảy người chúng tôi, những sinh viên, ngồi vào một buổi tối trong xưởng vẽ của Hartwell trên Đại lộ St. Michel. Tất cả chúng tôi đều là đồng hương; một người từ New Hampshire, một người từ Colorado, một người khác từ Nevada, một số người từ vùng đất nông trại của Trung Tây, và bản thân tôi th́ từ California. Lyon Hartwell, mặc dù sinh ra ở nước ngoài, nhưng như mọi người đều biết, chỉ đơn giản là "từ Mỹ". Ông ấy dường như, gần như hơn bất kỳ người đàn ông nào khác c̣n sống, có ư nghĩa với tất cả mọi thứ—từ đại dương này đến đại dương khác. Khi ông ấy ở Paris, xưởng vẽ của ông ấy luôn mở cửa cho bảy người chúng tôi ở đó vào buổi tối hôm đó, và chúng tôi đă xâm phạm vào thời gian rảnh rỗi của ông ấy thường xuyên như chúng tôi nghĩ là được phép.

Mặc dù chúng tôi đang trong phạm vi của sự thân mật dễ dàng nhất trong tất cả các mối quan hệ, và mặc dù nhà điêu khắc vĩ đại, ngay cả khi ông ấy im lặng hơn b́nh thường, luôn là người chủ nhà nồng nhiệt nhất, nhưng, vào buổi tối đáng nhớ đó, khi ánh nắng mặt trời tắt dần trên màu nâu bóng của cây dẻ ngựa bên dưới cửa sổ, một sự buồn tẻ dễ nhận thấy đă ngáp dài trong cuộc tṛ chuyện của chúng tôi.

Chúng tôi thực sự có phần chán nản, v́ một người trong số chúng tôi, Charley Bentley, sắp phải rời xa chúng tôi vô thời hạn, để đáp lại lệnh triệu tập cấp bách từ nhà. Ngày mai, xưởng làm việc của anh ấy, ngay bên kia hành lang từ Hartwell, sẽ được chuyển giao cho người khác, và hành lư của Bentley thậm chí bây giờ đă chất đống trong sự cam chịu chán nản trước cửa nhà anh ấy. Những kiện hàng và hộp khác nhau dường như thực sự đè nặng lên chúng tôi khi chúng tôi ngồi trong căn pḥng hiếu khách của người hàng xóm, buồn tẻ dành thời gian cho đến khi anh ấy rời đi để bắt chuyến tàu tốc hành mười giờ đến Dieppe.

Chúng tôi đă trải qua một ngày rất thoải mái, v́ Bentley đă biến nó thành dịp để tổ chức một bữa trưa hơi khoa trương tại Maxim's. Có mười hai người chúng tôi ngồi vào bàn, và hai chàng trai Ba Lan trẻ tuổi th́ khát nước, c̣n chàng Gascon th́ giải trí một cách tuyệt vời, đến gần năm giờ chúng tôi mới đặt ly rượu mùi xuống lần cuối, và người hầu bàn đỏ bừng, đầy mồ hôi, đă bỏ túi phần thưởng cho những dịch vụ khó khăn và kéo dài của ḿnh, cúi chào chúng tôi một cách niềm nở ở cửa, vung khăn ăn và gạt những lọn tóc đen ướt trên vầng trán hồng hào của ḿnh. Những vị khách của chúng tôi đă đến muộn trong các cuộc hẹn của họ, những người c̣n lại trong chúng tôi trở về cùng Bentley—chỉ để đối mặt với cảnh tượng ảm đạm trước cửa pḥng anh ta. Chỉ cần liếc nh́n căn pḥng trống trải của anh ta cũng đủ để làm dịu đi cái nắng của buổi chiều, và chúng tôi chạy khắp hành lang thành một đoàn và cầu xin Lyon Hartwell cho chúng tôi vào.

Bentley đă nói rất ít về điều đó, nhưng tất cả chúng tôi đều biết ư nghĩa của việc được gọi về nhà đối với anh ấy. Mỗi người chúng tôi đều biết điều đó có ư nghĩa ǵ đối với bản thân ḿnh, và mỗi người đều cảm thấy một chút cảm giác cơ hội nhanh chóng đến khi nh́n thấy một người khác bị loại khỏi cuộc đua. Chưa bao giờ tṛ chơi có vẻ hấp dẫn đến vậy, cơ hội được chơi tṛ đó lại là một phần may mắn không đáng có, không thể tin được như vậy.

Tôi nghĩ, chắc là vào khoảng giữa tháng Mười, v́ tôi nhớ rằng những cây sung gần như trơ trụi trong Vườn Luxembourg sáng hôm đó, và những sân thượng quanh các tượng nữ hoàng của Pháp rải rác những chiếc lá nâu gịn. Những bông hồng đỏ thắm, suốt mùa hè trên giá của bà bán hoa già ở góc phố, đă nhường chỗ cho hoa thược dược và hoa cúc tím. Những tia sáng đầu tiên của bộ đồ trang điểm mùa thu lóe lên từ những cỗ xe ngựa; những chiếc mũ nhỏ tuyệt đẹp gật đầu chào một người dọc theo đại lộ Champs-Elysées; và ở Khu phố thỉnh thoảng có một chiếc khăn lông vũ, màu đỏ, đen hoặc trắng, lướt qua tay áo khoác của một người trong ánh hoàng hôn vui tươi của buổi tối sớm. Không khí mùa thu trong lành, nắng ấm cả ngày tràn ngập tiếng người và tiếng xe ngựa, tiếng reo ḥ chào hỏi; lời chào của những sinh viên trở về với mái tóc nâu và bộ râu sau kỳ nghỉ, tin đồn về những người trở về từ Trouville, từ St. Valery, từ Dieppe, từ khắp Bretagne và bờ biển Norman. Khắp nơi đều tràn ngập niềm vui trở về, sự trở lại với cuộc sống, công việc và vui chơi. Tôi đă cảm thấy ngay từ sáng sớm rằng đây là mùa buồn nhất trong tất cả các mùa có thể nói lời tạm biệt với thành phố tuổi trẻ cổ xưa đó, và với góc nhỏ của nó ở bờ biển phía nam, nơi mà kể từ thời Trung cổ - vâng, và trước đó - đă trở thành vùng đất đặc biệt của tuổi trẻ.

Tôi có thể nhớ lại chính tư thế của chúng tôi khi chúng tôi thư giăn trong pḥng của Hartwell tối hôm đó, với Bentley thỉnh thoảng vội vă đi đến pḥng làm việc hoang vắng của ḿnh qua hành lang - như thể bị ám ảnh bởi cảm giác đă quên mất điều ǵ đó - hoặc dừng lại để chọc ngoáy một cách lo lắng vào những con vẹt mà anh ấy đă để lại cho Hartwell, cả lồng mạ vàng và tất cả. Bản thân chủ nhà của chúng tôi ngồi trên ghế dài, đôi vai to như đồng của ông tựa vào cửa sổ, cái đầu bù xù, chiếc mũi khoằm và chiếc cằm dài của ông được cắt gọn gàng dưới ánh sáng xám.

Sự quan tâm mơ màng của chúng tôi, trong chừng mực có thể nói là tập trung vào bất cứ điều ǵ, tập trung vào bức tượng mới của Hartwell, đứng trên khối đá sẵn sàng được đúc bằng đồng, được dự định làm tượng đài cho một số chiến trường của Mỹ. Ông gọi đó là "The color Sergeant" ( Trung Sĩ cầm cờ ). Đó là h́nh tượng một người lính trẻ đang chạy, nắm chặt các nếp gấp của một lá cờ, cán cờ đă bị bắn mất. Chúng tôi đă biết nó trong mọi giai đoạn phát triển của nó, và hành động và cảm giác tuyệt vời của thứ đó đă có một ư nghĩa đặc biệt đối với nửa tá chúng tôi thường tụ tập tại pḥng của Hartwell—mặc dù, trên thực tế, có nhiều điều khiến người ta nản ḷng cũng như khiến người ta phấn khích, trong trường hợp của một người đàn ông đă làm được nhiều điều trong một lĩnh vực vô cùng khó khăn; người đă ném lên đồng tất cả sức mạnh không ngừng nghỉ, đông đúc của con sóng phiêu lưu vẫn đang dâng lên về phía tây trên đất nước của chúng ta qua những đại dương. Chúng tôi nhớ lại "Scout", "Pioneer", "Gold Seekers" của ông ấy và những tượng đài mà ông đă đầu tư vào một và một số anh hùng của Nội chiến với phẩm giá và sức mạnh thuyết phục như vậy.

"Ông ta lấy đâu ra sức mạnh để thực hiện một ư tưởng như vậy?" Bentley buồn bă nhận xét, cau mày nh́n vào bức tượng đất sét. "Treo cổ tôi đi, Hartwell, nếu tôi không nghĩ rằng chỉ v́ ông không thực sự là người Mỹ, nên ông mới có thể nh́n nhận như vậy."

Người đàn ông to lớn dịch chuyển một cách khó chịu vào cửa sổ. "Đúng vậy," ông ta trả lời với nụ cười, "có lẽ có điều ǵ đó trong đó. Quyền công dân của tôi hơi muộn và đầy cảm xúc trong quá tŕnh nở rộ của nó. Tôi muốn kể cho anh nghe về điều đó, Bentley." Ông đứng dậy một cách do dự, và sau một lúc do dự, ông quay lại pḥng làm việc và bắt đầu lục lọi đống rác ở các góc pḥng.

Trước viễn cảnh Hartwell có bất kỳ biểu hiện cá nhân nào, chúng tôi liếc nh́n nhau đầy nghi vấn; v́ mặc dù ông ấy khiến chúng tôi cảm thấy ông thích có chúng tôi ở bên, chúng tôi luôn bị giữ khoảng cách bởi sự e dè nhất định của ông. Có những dịp hiếm hoi - khi ông đang trong cơn say công việc hoặc ư tưởng - khi ông quên mất sự e thẹn, nhưng những lần đó quá đặc biệt đến nỗi không có lời nịnh hót nào quyến rũ bằng việc được Hartwell tâm sự trong chốc lát. Ngay cả trong vấn đề ư kiến - loại tiền tệ phổ biến nhất trong nhóm của chúng tôi - ông cũng keo kiệt và dễ bị định tính. Không người đàn ông nào từng bảo vệ bí mật của ḿnh hiệu quả hơn. Do đó, có một sức hấp dẫn kỳ lạ, mănh liệt về những buổi tối hiếm hoi khi ông ấy phá vỡ sự khiêm tốn quá mức, hoặc sự e thẹn, hoặc nỗi buồn này, và đă, như thể, tự ḿnh cam kết.

Khi Hartwell trở về từ pḥng sau, ông ấy mang theo một tấm vải bạt chưa đóng khung và đặt trên giá vẽ gần bức tượng đất sét của ḿnh. Chúng tôi đến gần nó, v́ bóng tối đang nhanh chóng bao trùm. Mặc dù ánh sáng yếu ớt, chúng tôi vẫn nhận ra ngay cậu bé "Trung sĩ cầm cờ" của Hartwell. Đó là bức chân dung của một chàng trai rất đẹp trai trong bộ quân phục, đứng cạnh một con ngựa chiến đang chồm lên một cách không thể tin được. Không chỉ trong khuôn mặt rạng rỡ và đôi mắt sáng ngời, mà trong từng đường nét của cơ thể trẻ trung của cậu đều có một năng lượng, một sự hào hiệp, một niềm vui sống, khiến người ta phải dừng lại và thách thức.

"Vâng, đó là nơi tôi nảy ra ư tưởng đó," Hartwell nhận xét, quay trở lại chỗ ngồi của ḿnh bên cửa sổ. "Tôi đă muốn làm điều đó trong nhiều năm, nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy chắc chắn về bản thân ḿnh. Tôi sợ sẽ bỏ lỡ nó. Ông ấy là chú của tôi, anh cùng cha khác mẹ của cha tôi, và tôi được đặt tên theo ông. Ông đă tử trận trong một trong những trận đánh lớn của năm Sáu mươi bốn, khi tôi c̣n là một đứa trẻ. Tôi chưa bao giờ gặp ông - chưa bao giờ biết ông cho đến khi ông mất cách đây hai mươi năm. Và rồi, một đêm nọ, tôi đă hiểu ông ấy như chúng ta vẫn hiểu những người đang sống—một cách sâu sắc, chỉ trong một khoảnh khắc."

Ông dừng lại để gơ tàn thuốc ra khỏi chiếc tẩu ngắn của ḿnh, đổ đầy lại, và trầm ngâm hút thuốc trong vài phút với hai tay đặt trên đầu gối. Sau đó, ngả người ra sau giữa những chiếc đệm và nh́n ra ngoài cửa sổ một cách vô hồn, ông bắt đầu câu chuyện của ḿnh. Khi ông tiếp tục đi sâu hơn vào trải nghiệm mà ông đang cố gắng truyền đạt cho chúng tôi, giọng ông trầm xuống và đôi khi tràn đầy cảm xúc, đến nỗi tôi gần như nghĩ rằng ông ấy đă quên mất sự hiện diện của chúng tôi và đang nhớ lại thành tiếng. Ngay cả Bentley cũng quên mất sự lo lắng của ḿnh trong sự kinh ngạc và ngồi nín thở dưới sự mê hoặc của người đàn ông đang thở ra những kư ức của ḿnh vào lúc chạng vạng.

"Mới chỉ mười lăm năm trước vào mùa xuân năm ngoái, lần đầu tiên tôi về nhà, và việc Bentley phải cắt bỏ như thế này khiến tôi nhớ lại tất cả.

Tôi sinh ra ở Ư, các bạn biết đấy. Cha tôi là một nhà điêu khắc, mặc dù tôi dám nói rằng các bạn chưa từng nghe nói đến ông. Ông là một trong những người đầu tiên sang Ư sau Story và Powers (2),—đến Ư v́ 'Nghệ thuật', đơn giản là để nhấc một chú chim óng ánh, sẵn sàng từ cành cây bản địa của nó. Câu chuyện của họ được kể lại, đủ để cung cấp thông tin, bởi một số đồ vật bằng đá cẩm thạch ngây thơ ở Metropolitan. Cha tôi đă đến đây một thời gian trước khi Nội chiến nổ ra, và bị gia đ́nh coi là kẻ phản bội v́ ông không về nhà để nhập ngũ. Người anh cùng cha khác mẹ của ông, đứa con duy nhất của cuộc hôn nhân thứ hai của ông nội tôi, đă nhập ngũ lúc mười lăm tuổi và bị giết vào năm sau. Tôi mười tuổi khi tin tức về cái chết của ông đến với chúng tôi. Mẹ tôi mất vào mùa đông năm sau, và tôi được gửi đến một trường ḍng Tên, trong khi cha tôi, bản thân đă bị bệnh, ở lại Rome, đục đẽo những thiếu nữ Ấn Độ và các nữ thần bằng đá cẩm thạch của ḿnh, vẫn u ám t́m kiếm thứ mà ông đă khiến ḿnh trở nên bất hạnh lưu vong nhất.

"Ông mất khi tôi mười bốn tuổi, nhưng thậm chí trước đó tôi đă được giao làm việc cho một nhà điêu khắc người Ư. Ông có một mong muốn gần như bệnh hoạn là tôi sẽ tiếp tục công việc của ông, trong điều kiện, như ông thường chỉ ra với tôi, thuận lợi hơn nhiều. Ông để tôi cho người bạn thân duy nhất của ông, một quư ông người Mỹ trong lănh sự quán tại Rome, và chỉ thị của ông là tôi sẽ được giáo dục ở đó và sống ở đó cho đến khi tôi hai mươi mốt tuổi. Sau khi đủ tuổi, tôi đến Paris và học với một bậc thầy này đến bậc thầy khác cho đến khi tôi gần ba mươi tuổi. Sau đó, gần như lần đầu tiên, tôi phải đối mặt với một nhiệm vụ mà tôi không thích.

Ông tôi mất khi đă cao tuổi, để lại một người chị gái tàn tật của cha tôi hoàn toàn cô đơn trên thế giới. Bà đă phải chịu đựng căn bệnh năo trong nhiều năm, một căn bệnh suy giảm dần các chức năng khiến bà gần như bất lực. Tôi quyết định đến Mỹ và nếu có thể, đưa bà trở về Paris, nơi tôi dường như đang trên đường thực hiện điều mà người cha tội nghiệp của tôi mong muốn cho tôi.

"Tuy nhiên, khi đến nơi sinh của cha tôi, tôi thấy rằng điều này không nên nghĩ đến. Việc tách sinh vật nhút nhát, yếu đuối, co rúm này, già đi gấp đôi v́ năm tháng và bệnh tật, khỏi nơi bà đă bám rễ suốt cuộc đời, chẳng khác ǵ sự tàn bạo. Việc để bà cho những người lạ chăm sóc cũng vô t́nh không kém. Rơ ràng là tôi không thể làm ǵ khác ngoài việc ở lại và chờ đợi căn bệnh chậm răi và không đau đớn đó diễn ra. Tôi đă ở đó hơn hai năm.

"Ngôi nhà của ông tôi, nơi ở của cha tôi trước đây, nằm trên bờ cao của một con sông ở Tây Pennsylvania. Thị trấn nhỏ cách đó mười hai dặm xuôi ḍng, nơi mà ông cố tôi thường lái xe ḅ kéo của ḿnh vào những ngày họp chợ, đă trở thành, trong hai thế hệ, một trong những thành phố sản xuất lớn nhất thế giới. Trong hàng trăm dặm xung quanh chúng tôi, những sườn đồi thoai thoải được tạo thành từ những tổ ong với các giếng khí đốt và trục than; các giàn khoan dầu kêu cót két trong mọi thung lũng và đồng cỏ; những con suối chảy chậm và đổi màu v́ dầu thô, và không khí thấm đẫm mùi hôi thối của nó. Các nhà máy sản xuất kính và sắt lớn đă mọc lên và ngược ḍng sông gần đến tận cửa nhà chúng tôi; khói bốc lên nghi ngút trên đầu chúng tôi, và tiếng va chạm của chúng luôn văng vẳng bên tai chúng tôi. Tôi đă bị nhấn ch́m vào chính sự rực cháy của năng lượng con người. Nhưng, mặc dù thần kinh tôi râm ran với nỗ lực sốt sắng, đầy nhiệt huyết bùng nổ trong chính không khí xung quanh tôi, không có động mạch lớn nào trong số này có vẻ nuôi dưỡng tôi; cuộc sống hỗn loạn này không sưởi ấm tôi. Ở mọi phía đều là những con sông lớn lầy lội, những ngọn núi gồ ghề mà gỗ đang bị xé toạc một cách tàn nhẫn, những vùng đất hoang dă rộng lớn và những khe núi giống như những vết thương trên mặt đất; ở khắp mọi nơi, ánh sáng chói của năng lượng không ngừng đó theo tôi như một ngọn đèn pha và dường như thiêu đốt và thiêu rụi tôi. Tôi chỉ có thể ẩn ḿnh trong khu vườn rậm rạp, nơi mà sự cố duy nhất là một chiếc lá rơi hoặc tiếng chim hót.

"Trang trại Hartwell đă được bán dần dần, cho đến khi tất cả những ǵ c̣n lại của nó chỉ là khu vườn và vườn cây ăn quả. Ngôi nhà, một cấu trúc gạch vuông, nằm giữa một khu vườn lớn dốc về phía con sông, kết thúc ở một bờ cỏ cao khoảng bốn mươi feet so với mép nước. Khu vườn giờ đây chỉ c̣n là một mớ cây bụi bị bỏ hoang; ẩm ướt, xơ xác, và có màu xanh lam lục đậm đặc trưng của thảm thực vật ở những nơi khói bụi, nơi ánh nắng mặt trời chiếu vào nhưng hiếm khi, và sương mù h́nh thành vào đầu buổi tối và kéo dài đến cuối buổi sáng. Tôi sẽ không bao giờ quên nó như lần đầu tiên tôi nh́n thấy, khi tôi đến đó trong cái lạnh của tháng Sáu lạc hậu. Cỏ dài, rậm, dày và mềm rơi xuống thành từng đợt, luôn ướt cho đến giữa trưa. Những lối đi rải sỏi được viền bằng những bụi tử đinh hương lớn, hoa cam giả và ṿng hoa cô dâu. Phía sau ngôi nhà là một vườn hoa hồng bị bỏ quên, được bao quanh bởi một bức tường đá thấp mà những chồi dài rủ xuống và đan xen. Chúng đă quấn những xúc tu màu hồng, đầy gai, từng lớp một, quanh ổ khóa và bản lề của cánh cổng sắt gỉ sét. Ngay cả hiên nhà và ngay cả cửa sổ cũng ẩm ướt và rậm rạp cây cối: cây tử đằng, cây kim ngân, và cây dây leo kèn. Khu vườn được trồng đầy cây, đặc biệt là phần nằm phía trên sông. Vỏ cây keo già bị đen v́ khói liên tục bốc lên thung lũng, và những tán lá lông vũ của chúng, chuyển động vui vẻ và màu vàng và tươi vui, có vẻ đặc biệt quư giá dưới bầu trời u ám đó. Có những cây sung và cây sồi đồng; những cây táo cong queo, quá già để ra quả; và những cây lê rụng, treo một quả cứng, sắc nhọn vào tháng Mười; tất cả đều có tán lá đặc biệt phong phú và tươi tốt, và màu sắc đặc biệt sống động.

Những cây sồi quanh nhà là những cây cổ thụ khi ông cố tôi xây dựng cabin của ḿnh ở đó, hơn một thế kỷ trước, và khu vườn này gần như là nơi duy nhất trong nhiều dặm dọc theo con sông mà bất kỳ sự phát triển rừng nguyên sinh nào vẫn c̣n tồn tại. Khói từ các nhà máy gây tử vong cho những cây lớn hơn, và ngay cả những cây này cũng có vẻ ngoài của những thứ bị nguyền rủa - hơi cúi về phía thị trấn và dường như chờ đợi với cái đầu cúi xuống trước sức mạnh đang lao tới, gào thét đó.

"Xung quanh con sông cũng có một sự im lặng kỳ lạ, một sự khuất phục bi thảm - nó có màu ch́ và u ám, và nó trôi qua cửa nhà chúng tôi một cách im lặng măi măi.

"Tôi ngồi đó mỗi tối, trên hiên nhà cao nh́n xuống, ngắm nh́n những đường viền mờ nhạt của những ngọn đồi dốc ở bờ bên kia, ánh đèn nhấp nháy trên đảo, nơi có một nhà thuyền, và lắng nghe tiếng gọi của những người lái thuyền qua sương mù. Sương mù đến chắc chắn như đêm, được làm trắng bởi ánh trăng hoặc ánh sao. Những chiếc tẩu nước bằng thiếc cứ thế tung toé, tung toé suốt buổi tối, và gió, khi nổi lên, chỉ là tiếng thở dài của những cành cây già và hơi thở khó nhọc trong đám cỏ rậm.

"Lúc đầu, tôi ngồi đó để nghĩ về những người bạn xa xôi và cuộc sống cũ của ḿnh; nhưng sau một thời gian, tôi chỉ ngồi đó để ngắm nh́n những ngày tháng trôi qua, như ḍng sông dường như cuốn trôi chúng đi.

"Ở trong ngôi nhà đó, tôi chưa bao giờ cảm thấy thoải mái. Tháng này qua tháng khác, nhưng tôi không cảm thấy có mối liên hệ nào với bất cứ thứ ǵ ở đó. Dưới mái nhà nơi cha và ông tôi sinh ra, tôi vẫn hoàn toàn tách biệt. Những căn pḥng u ám không bao giờ nói chuyện với tôi, đồ đạc cũ kỹ dường như không bao giờ nhuốm màu chủng tộc. Bức chân dung của cậu con trai này là thứ duy nhất mà tôi có thể đến gần, là mối liên hệ duy nhất với bất cứ thứ ǵ tôi từng biết trước đây.

"Có rất nhiều nét của cha tôi trên khuôn mặt, nhưng đó là cha tôi đă biến đổi và được tôn vinh; sự bất măn do dự của ông ch́m trong một loại chiến thắng. Ngay từ ngày đầu tiên ở ngôi nhà đó, tôi liên tục hướng về người họ hàng đẹp trai này của ḿnh, tự hỏi ông đă sống và hy vọng như thế nào; ông đă t́m thấy điều ǵ ở đó để trông như vậy, để nhảy múa vui vẻ như vậy, sau ngần ấy năm.

"Từ bà già nhút nhát, u ám mà tôi đă đến để theo dơi cuộc sống của bà, tôi biết rằng ở sân sau, gần vườn hoa hồng cũ, có một cây keo mà chú tôi đă trồng. Sau khi ông mất, khi cây vẫn c̣n là một cây non mảnh khảnh, mẹ ông đă cho dựng một chiếc ghế xung quanh cây, và bà thường ngồi đó vào những buổi tối mùa hè. Ngôi mộ của ông nằm dưới những cây táo trong vườn cây ăn quả cũ.

"D́ tôi không thể kể cho tôi nhiều hơn thế này. Có những ngày bà dường như không nhớ ǵ đến ông cả.

"Tôi biết được câu chuyện của cậu bé này từ một người lính già trong làng. Ông già kể với tôi rằng Lyon mới mười bốn tuổi khi đợt nhập ngũ đầu tiên diễn ra, nhưng ngay cả khi đó cậu vẫn háo hức muốn đi. Cậu có mặt ở quảng trường ṭa án mỗi tối để xem những tân binh tập trận, và khi đại đội quê nhà được lệnh xuất phát, cậu cưỡi ngựa vào thành phố để xem những người đàn ông lên tàu và vẫy tay chào tạm biệt họ. Năm sau, cậu ở nhà với một gia sư, nhưng khi cậu mười lăm tuổi, cậu đă giữ lời hứa với cha mẹ và nhập ngũ. Cậu là trung sĩ của trung đoàn và đă tham gia một cuộc tấn công vào công sự của một pháo đài khoảng một năm sau khi nhập ngũ.

"Người cựu chiến binh cho tôi xem một bản tường thuật về cuộc tấn công này do một trong những người đồng đội của chú tôi viết cho tờ báo làng, người đă chứng kiến vai tṛ của chú trong cuộc giao tranh, có vẻ như khi đại đội của chú đang chạy hết tốc lực qua vùng đất thấp hướng về ngọn đồi kiên cố, một quả đạn pháo đă nổ trên đầu họ. Người này, đang chạy bên cạnh chú tôi, thấy lá cờ rung chuyển và ch́m xuống như thể đang rơi xuống, và nh́n thấy bàn tay và cẳng tay của cậu con trai đă bị mảnh đạn nổ xé toạc. Cậu trai, ông nghĩ, không nhận ra mức độ thương tích của ḿnh, v́ cậu đă cười, hét lên điều ǵ đó mà người đồng đội của ḿnh không nghe thấy, cầm lá cờ bằng tay trái và chạy lên đồi. Họ đă đi lên một cách ngoạn mục qua các công sự, nhưng ngay khi chú tôi, lá cờ tung bay, lên đến đỉnh bờ kè, một quả đạn pháo thứ hai đă cuốn bay cánh tay trái của chú ở nách, và chú ngă qua bức tường với lá cờ rơi xuống xung quanh.

"Chính v́ câu chuyện này luôn hiện hữu trong tôi, v́ tôi không thể rũ bỏ nó, nên tôi bắt đầu đọc những cuốn sách mà ông tôi đă sưu tầm về Nội chiến. Tôi thấy rằng cuộc chiến này chủ yếu do các chàng trai tham gia, rằng có nhiều người đàn ông nhập ngũ ở độ tuổi mười tám hơn bất kỳ độ tuổi nào khác. Khi tôi nghĩ về những chiến trường đó—và tôi đă nghĩ về chúng rất nhiều vào những ngày đó—luôn có vinh quang của tuổi trẻ trên họ, niềm đam mê mănh liệt, hào phóng khuấy động những hàng dài trên hành tŕnh, những tiểu đoàn áo xanh trên đồng bằng. Tiếng kèn, bất cứ khi nào tôi nghe thấy kể từ đó, đối với tôi luôn có vẻ như chính cổ họng vàng son của thời thơ ấu đă dành trọn cho nó một cách vui vẻ, đáng kinh ngạc.

"Tôi thường tự hỏi tại sao người chú của tôi, người dường như có tất cả sự quyến rũ và rực rỡ được phân bổ cho gia đ́nh ḿnh và đă sống hết ḿnh trong một giờ huy hoàng, lại để lại quá ít dấu vết trong ngôi nhà nơi ông sinh ra và nơi ông chờ đợi số phận của ḿnh. Dù tôi có t́m kiếm thế nào, tôi cũng không thể t́m thấy bất kỳ lá thư nào của ông, không có quần áo hay sách vở nào có thể là của ông. Ông đă mất được hai mươi năm, nhưng dường như không có ǵ c̣n sót lại ngoại trừ cái cây ông đă trồng. Thật khó tin và tàn nhẫn khi không có kư ức vật lư nào về ông c̣n sót lại để được trân trọng giữa những người thân của ông, không ǵ ngoài h́nh ảnh buồn tẻ trong năo của người chị lớn tuổi đó. Tôi thường đi dạo trong vườn vào buổi tối, tự hỏi rằng không có hơi thở nào của ông ấy, không có tiếng vọng của tiếng cười, tiếng gọi ngựa hay tiếng c̣i gọi chó của ông ấy nán lại trên những con đường rợp bóng cây nơi những bông hồng nhạt tỏa ra mùi hương đồng quê, đẫm sương. Đôi khi, dưới ánh sao mờ, tôi nghĩ rằng tôi đă nghe thấy trên băi cỏ bên cạnh ḿnh tiếng bước chân nhẹ hơn của chính tôi, và dưới ṿm đen của những cây tử đinh hương, tôi đă tưởng tượng rằng ông ấy sẽ đi cùng tôi.

"Tôi phát hiện ra rằng, có một ngày trong năm mà d́ tôi đă chờ đợi, và ngày đó nổi bật so với những tháng mà d́ tôi sống đều giống nhau. Vào ngày 30 tháng 5, d́ tôi đă khăng khăng bắt tôi mang lá cờ lớn từ gác xép xuống và treo nó lên cột cờ cao bên cạnh cây Lyon trong vườn. Vào buổi sáng muộn hơn, d́ tôi đă cùng tôi mang một số bông hoa trong vườn đến ngôi mộ trong vườn cây ăn quả, một ngôi mộ chỉ lớn hơn một đứa trẻ một chút.

"Khi tôi đang t́m lá cờ trên gác xép, tôi đă để ư thấy một chiếc rương da có khắc tên tôi, nhưng không thể t́m thấy ch́a khóa. D́ tôi cả ngày không c̣n thờ ơ như thường lệ; d́ dường như nhận ra rơ hơn tôi là ai và muốn tôi ở bên d́. Tôi không có cơ hội quay lại gác xép cho đến sau bữa tối hôm đó, khi tôi mang một chiếc đèn lên lầu và dễ dàng mở được ổ khóa của chiếc rương.

"Tôi t́m thấy tất cả những thứ tôi đă t́m kiếm; chắc hẳn là được mẹ ông cất đi, và vẫn thoang thoảng mùi hoa oải hương và lá hoa hồng; quần áo của ông, vở bài tập, thư từ quân đội, đôi ủng đầu tiên, roi cưỡi ngựa, thậm chí là một số đồ chơi của ông. Tôi lấy chúng ra và nhẹ nhàng đặt chúng lại. Khi tôi sắp đóng nắp, tôi cầm một bản sao của Æneid (3), trên trang đầu có viết bằng nét chữ nghiêng của một đứa trẻ,

"Lyon Hartwell, tháng 1 năm 1862.

"Tôi nhớ ông ấy đă ra trận vào năm Sáu mươi ba.

"Tôi đoán là chú tôi không giỏi tiếng Latin cho lắm, v́ các trang sách bị quăn mép, cọ xát và xen kẽ, lề sách loang lổ các bản phác thảo bằng bút ch́—kèn đồng, lưỡi lê xếp chồng và xe pháo. Khi đặt cuốn sách xuống, tôi t́nh cờ lướt qua các trang sách đến cuối, và trên trang trống ở cuối sách, tôi lại nh́n thấy tên chú, và một bức vẽ—có chữ viết tắt tên chú và ngày tháng—lá cờ Liên bang; phía trên, được viết theo kiểu ṿm và cùng một kiểu chữ không định dạng:

" Oh, say, can you see by the dawn's early light. What so proudly we hailed at the twilight's last gleaming? " (4)

"Đó là một bản phác thảo nét thô, cứng như bằng gỗ, không khác ǵ những nét khắc từ một ḍng chữ Ai Cập nào đó, nhưng ngay khi nh́n thấy nó, gió và lá cờ dường như đă chạm vào đó. Tôi cầm cuốn sách, thổi tắt đèn và chạy xuống vườn.

"Cuối cùng, dường như tôi đă biết chú tôi; đă ở bên ông trong khoảnh khắc vô t́nh, vô thức đó và đă biết ông như chính ông lúc đó.

"Khi tôi ngồi đó trong sự vội vă của nhận thức này, gió bắt đầu nổi lên, khuấy động những tán lá cây keo nhẹ trên đầu tôi và mang theo, tươi hơn trước, mùi gỗ của những bông hồng nhạt tràn ngập khu vườn nhỏ bị bỏ quên. Sau đó, khi nó trở nên mạnh mẽ hơn, nó mang theo âm thanh của một thứ ǵ đó thở dài và khuấy động trên đầu tôi trong bóng tối thơm ngát.

"Tôi nghĩ về một trong những vị Thần Số Mệnh buồn bă, thần mà dân Hy Lạp tin rằng đă theo dơi từ khi sinh ra những người được đánh dấu là sẽ chết một cách dữ dội hoặc không đúng lúc. Ồ, tôi có thể thấy chú tôi, ở đó trong ánh sáng ban mai, cuốn sách của ông đặt trên đầu gối, đôi mắt sáng ngời nh́n thẳng về phía trước, và bên cạnh ông là h́nh bóng nghiêm trọng của vị Thần Số Mệnh ẩn dưới lớp vải liệm, đôi mắt dơi theo ông, nhưng nh́n xa hơn nhiều—nh́n thấy những ǵ ông chưa từng thấy, nh́n ra khoảnh khắc tuyệt vời đó vào phút cuối, khi ông lảo đảo trên những người đồng đội của ḿnh trên bức tường đất.

"Trong khi đó, lá cờ mà tôi đă treo lên vào buổi sáng phất phới, gấp nếp, nhấp nhô và lắc lư nhẹ nhàng trong bóng tối—trên bầu trời đen kịt những đám mây mưa đến nỗi tôi chỉ có thể nh́n thấy phía trên ḿnh một vệt mờ của một thứ ǵ đó chuyển động nhẹ nhàng, đầy lo lắng.”

“Trải nghiệm của đêm đó, đến với một người đàn ông đă chết một cách quá choáng ngợp, gần như xé tôi ra từng mảnh. Đó là cảm giác mà các nghệ sĩ biết khi chúng ta, hiếm khi, đạt được sự thật trong tác phẩm của ḿnh; cảm giác hợp nhất với một sức mạnh to lớn nào đó, về mục đích và sự an toàn, về việc vui mừng v́ chúng ta đă sống. Lần đầu tiên tôi cảm thấy sức hút của chủng tộc, huyết thống và họ hàng, và cảm thấy đập trong tôi những điều không bắt đầu từ tôi. Như thể mặt đất dưới chân tôi đă nắm lấy và bám rễ vào tôi, và đang đổ tinh túy của nó vào tôi. Tôi ngồi đó cho đến khi b́nh minh ló dạng, và suốt đêm dài, cuộc sống của tôi dường như đang chảy ra khỏi tôi và chảy xuống đất."

Hartwell hít một hơi dài, nhấc đôi vai nặng nề của ông lên, rồi lại hạ chúng xuống. Ông dịch chuyển một chút và đối mặt trực diện hơn với đám đông im lặng, rải rác trước mặt ông. Bóng tối khiến chúng tôi gần như vô h́nh với nhau, và, ngoại trừ một ṿng đỏ thỉnh thoảng của đầu thuốc lá di chuyển lên từ tay ghế, ông có thể nghĩ rằng tất cả chúng tôi đều đang ngủ.

"Và v́ vậy," Hartwell trầm ngâm nói thêm, "tôi tự nhiên cảm thấy hứng thú với những người sắp về nhà. Đó luôn là một trải nghiệm."

Không ai nói ǵ, và một lát sau có tiếng gơ cửa rất to, người gác cổng đến lấy hành lư của Bentley và thông báo rằng xe đă ở bên dưới. Bentley lấy mũ và áo khoác, bảo Hartwell chăm sóc cẩn thận đôi giày của ḿnh, nắm tay từng người chúng tôi và nhanh chóng đi xuống những cầu thang dài. Chúng tôi đi theo anh ấy ra phố, nói những lời chúc tốt đẹp, và thấy anh ấy bắt đầu lái xe qua thành phố sáng đèn đến Gare St. Lazare.


THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
Tháng 4 / 2025

Nguồn
https://americanliterature.com/author/willa-cather/short-story/the-namesake/
 

_____

 

Chú thích của a2a :

(1). Đọc thêm về chi tiết liên quan đến "The Namesake "

 https://storyoftheweek.loa.org/2017/11/the-namesake.html


(2). "Story and Powers": Thomas Story và Hiram Powers là hai nhà điêu khắc người Mỹ sang sống tại Ư . Story hỗ trợ những nhà ái quốc Ư và Powers, sống tại Florence, nổi tiếng với bức tượng cẩm thạch " The Greek Slave", biểu tượng của sự tranh đấu cho độc lập của Hy Lạp.

(3). The Aeneid là bài thơ của thi sĩ La Mă Virgil, viết trong khoảng 29 - 19 BC về huyền thoại Aeneas, người Trojan sống sót trận tấn công thành Troy, lưu vong qua Ư và trở thành ông tổ của người La Mă


(4). "Oh, say, can you see by the dawn's early light What so proudly we hailed at the twilight's last gleaming?" ( Ồ ḱa, các người có thấy dưới ánh sáng sớm rạng đông những ǵ mà chúng ta đă tự hào chào đón trong ánh hoàng hôn  hôm trước chăng ? )

Đây là hai câu đầu của bài thơ mà Francis Scott Key, một luật sư và thi sĩ tài tử, người đă thảo bài thơ sau khi chứng kiến lá cờ Mỹ vẫn tung bay trên kỳ đài Fort McHenry vào lúc rạng đông, sau trận giao tranh và dưới trận mưa pháo liên tục suốt 25 giờ trước đó từ quân đội Anh ở Baltimore, Maryland tháng 9 năm 1814. Bài thơ được mang tên "Defence of Fort M'Henry", nhạc dựa trên ca khúc "To Anacreon in Heaven" của nhạc sĩ người Anh, John Stafford Smith. Măi đến năm 1931, nhạc khúc này mới được chính thức trở thành quốc ca của Hoa Kỳ với tên "Star-Spangle Banner" .


Nguồn: kennedy-center.org  ;  en.wikipedia.org



 

 

Trang Thân Trng Sơn

art2all.net