Thân Trng Sơn

 

NHÀ CỦA THẨM PHÁN

Bram Stoker
Nhà văn Ireland
( 1847 - 1912 )

 


 


          “ Thật may mắn biết bao khi có những người có cuộc sống không sợ hăi, kinh hoàng; đối với người đó, giấc ngủ là một điều may mắn đến hàng đêm và không mang lại điều ǵ ngoài những giấc mơ ngọt ngào.”

“ How blessed are some people, whose lives have no fears, no dreads; to whom sleep is a blessing that comes nightly, and brings nothing but sweet dreams.”

Abraham Bram Stoker là một nhà văn người Ireland, tác giả cuốn tiểu thuyết kinh dị Dracula. Đương thời ông được biết nhiều hơn với tư cách là trợ lư cá nhân của Sir Henry Irving và quản lư của Sân khấu Lyceum ở West End của Irving.

 

Ban đầu, ông là một nhà phê b́nh sân khấu của một tờ báo Ireland. Ông mất năm 1912 do mấy điều ḥa vận động và được hỏa táng. Kể từ khi qua đời, kiệt tác Dracula đă trở thành một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của nền văn học Anh, đă được chuyển thể thành phim và kịch. Trong thời gian này ông cũng viết truyện, và “ Cốc pha lê “ đă được xuất bản năm 1872.

 

Kiệt tác của Stoker, cuốn Dracula được xuất bản năm 1897, chủ yếu được viết dưới dạng nhật kư do các nhân vật ghi chép . Trong bản thảo gốc của Dracula, lời tựa của tác giả tuyên bố “ Đây là một tác phẩm phi hư cấu. Tôi khá tin rằng không có nghi ngờ ǵ về các sự kiện được mô tả ở đây thực sự đă diễn ra. “ Câu chuyện kể về một ma cà rồng Transylvanian, sử dụng sức mạnh siêu nhiên, t́m đường đến Anh và làm nạn nhân của những người vô tội để có được máu mà sống. Dưới sự chỉ huy của Tiến sĩ Abraham Van Helsing, người cố vấn của Seward và là chuyên gia về các căn bệnh khó hiểu, Harker và những người bạn của ḿnh, sau nhiều cuộc phiêu lưu dựng tóc gáy, cuối cùng đă có thể chế ngự và tiêu diệt Dracula. Ảnh hưởng của cuốn tiểu thuyết này đối với các h́nh ảnh ma cà rồng trong văn hóa đại chúng phương Tây rất lớn và lâu dài.


Những câu chuyện của ông tận dụng yếu tố siêu nhiên để khám phá đạo đức và cái chết. Stoker chịu ảnh hưởng rất lớn từ bạn bè và những người đương thời trong và ngoài nước, bao gồm Whitman, Wilde và Dickens.

“ Nhà của Thẩm phán” của Bram Stoker là một câu chuyện ma tinh túy được sáng tác từ trí tưởng tượng và tài năng miêu tả của chính Stoker. Câu chuyện giống như một cuộc tranh luận dân gian giữa niềm tin cá nhân và chủ nghĩa hoài nghi. Người đọc sẽ nhận thấy - giống như trong Dracula hay truyện ngắn “Người khách của Dracula” – rằng Stoker đặt nặng niềm tin và tính cụ thể của cách kể chuyện truyền miệng, cho dù đó có phải là phát minh thuần túy hay không.

Stoker sinh năm 1847 và mất năm 1912 - khi kinh dị Gothic và tiểu thuyết kỳ lạ rất phổ biến. Ông cũng là sinh viên chuyên ngành toán học tại trường Cao đẳng Trinity. Điều này giúp chúng ta hiểu rơ hơn về mục đích theo đuổi của Malcolm Malcolmson. Nó cũng cho chúng ta cái nh́n thoáng qua về tâm trí của một người có hiểu biết rất rơ ràng về sức mạnh của toán học và sự hấp dẫn hợp lư của nó. Tuy nhiên, giống như tác giả Washington Irving, Stoker rơ ràng cũng có niềm đam mê với văn hóa dân gian và kể chuyện. Sở thích của ông tạo ra sự phân đôi rơ ràng giữa sinh viên và thị trấn trong “Nhà của Thẩm phán”. Bản thân câu chuyện là một trong những chủ nghĩa hoài nghi và cố định về tính hai mặt của thế giới. Đó là một câu chuyện về khoa học và lư trí, đồng thời là một câu chuyện về bí ẩn và phép thuật.

“ Nhà của Thẩm phán" là một câu chuyện ma kinh điển. Truyện được xuất bản lần đầu vào ngày 5 tháng 12 năm 1891, số đặc biệt về Giáng sinh của tuần báo Illustrated Sporting and Dramatic News. Sau đó nó được tái bản trên Dracula's Guest and Other. Những câu chuyện kỳ lạ (1914).


Truyện được đặt trong một khung cảnh biệt lập, có thể thấy rơ điều này khi tác giả miêu tả nó là "...sự hoang tàn là thuật ngữ duy nhất truyền tải bất kỳ ư tưởng phù hợp nào về sự biệt lập của nó". Ẩn dật, v́ đây là yếu tố điển h́nh của truyện ma thế kỷ 19.


Trong câu chuyện, một sinh viên đến một thị trấn nhỏ để t́m một nơi yên tĩnh để ở trong khi chuẩn bị cho kỳ thi của ḿnh. Làm sáng tỏ những mê tín dị đoan ở địa phương, anh chuyển đến một biệt thự cổ hoang vắng nơi một thẩm phán treo cổ khét tiếng từng sống.


* * *


          Khi Khi thời gian thi đến gần, Malcolm Malcolmson quyết định đi đâu đó để đọc sách một ḿnh. Anh sợ những điểm thu hút của bờ biển, và anh cũng sợ sự cô lập hoàn toàn ở nông thôn, v́ từ lâu anh đă biết nó rất quyến rũ, và v́ vậy anh quyết tâm t́m một thị trấn nhỏ khiêm tốn nào đó, nơi sẽ không có ǵ làm anh phân tâm. Anh kiềm chế không hỏi ư kiến của bất kỳ người bạn nào, v́ lập luận rằng mỗi người sẽ giới thiệu một số địa điểm mà anh biết và nơi anh đă quen. V́ Malcolmson muốn tránh xa bạn bè nên anh không muốn bị bạn bè chú ư đến, v́ vậy anh quyết tâm t́m kiếm một nơi cho riêng ḿnh. Anh đóng gói hành lư với một số quần áo và tất cả những cuốn sách anh ta cần, rồi lấy vé cho cái tên đầu tiên trên bảng giờ địa phương mà anh ta không biết.


Khi kết thúc cuộc hành tŕnh kéo dài ba giờ, anh xuống Benchurch, anh cảm thấy hài ḷng v́ cho đến nay anh đă xóa sạch dấu vết để chắc chắn có một cơ hội yên b́nh để theo đuổi việc học của ḿnh. Anh đi thẳng đến quán trọ có căn nhà nhỏ im ĺm và nghỉ qua đêm. Benchurch là một thị trấn chợ, và cứ ba tuần lại có lần đông đúc đến mức quá mức, nhưng trong thời gian c̣n lại của 21 ngày, nó hấp dẫn như một sa mạc, Malcolmson nh́n quanh một ngày sau khi đến để cố gắng t́m những khu biệt lập hơn, thậm chí c̣n có một quán trọ yên tĩnh như 'The Good Traveller'. Chỉ có một nơi khiến anh thích thú và nó chắc chắn thỏa măn những ư tưởng ngông cuồng nhất của anh về sự yên tĩnh; trên thực tế, yên tĩnh không phải là từ thích hợp để miêu tả nó - sự hoang tàn là thuật ngữ duy nhất truyền tải bất kỳ ư tưởng phù hợp nào về sự cô lập của nó. Đó là một ngôi nhà cũ xiêu vẹo, xây nặng nề theo phong cách Jacobean, với đầu hồi và cửa sổ nặng nề, nhỏ bất thường và được đặt cao hơn thông thường ở những ngôi nhà như vậy, và được bao quanh bởi một bức tường gạch cao được xây dựng ồ ạt. Quả thực, khi xem xét, nó trông giống một ngôi nhà kiên cố hơn là một ngôi nhà b́nh thường. Nhưng tất cả những điều này đều làm Malcolmson hài ḷng. Anh nghĩ, “ Đây chính là nơi mà ḿnh đang t́m kiếm, và nếu có cơ hội sử dụng nó th́ ḿnh sẽ rất vui.” Niềm vui của anh càng tăng lên khi anh nhận ra rằng hiện tại nó không có người ở.

Từ bưu điện, anh biết được tên của người đại diện, người này hiếm khi ngạc nhiên trước đơn xin thuê một phần ngôi nhà cũ. Ông Carnford, luật sư và người đại diện địa phương, là một quư ông lớn tuổi vui vẻ và thẳng thắn thú nhận rằng ông rất vui khi thấy bất kỳ ai sẵn ḷng sống trong ngôi nhà.

“Nói thật với anh,” ông ta nói, “thay mặt cho chủ sở hữu, tôi sẽ rất vui mừng khi cho phép bất cứ ai được miễn tiền thuê căn nhà trong nhiều năm nếu chỉ để người dân ở đây quen với việc thấy nó có người ở. Nó đă bỏ hoang quá lâu đến nỗi một loại định kiến ngớ ngẩn nào đó đă h́nh thành về nó, và điều này có thể được giải quyết tốt nhất bằng cách có người đến ở đó - nhất là," ông nói thêm với cái nh́n ranh mănh về phía Malcolmson, "bởi một học giả như anh, người muốn sự yên tĩnh của nó trong một thời gian.”

Malcolmson nghĩ không cần thiết phải hỏi người đại diện về 'thành kiến vô lư'; anh biết ḿnh sẽ có thêm thông tin, nếu cần, về chủ đề đó từ các nguồn khác. Anh trả tiền thuê nhà ba tháng, lấy biên lai và tên của một bà già có lẽ sẽ đảm nhận chuyện giúp việc cho anh, rồi ra về với ch́a khóa trong túi. Sau đó, anh đến gặp bà chủ quán trọ, một người vui vẻ và tốt bụng nhất, và xin lời khuyên của bà về vấn đề dự trữ và thực phẩm mà anh có thể cần. Bà giơ tay ngạc nhiên khi anh nói nơi anh sẽ ờ.


“ Không phải Nhà Thẩm phán chứ! “ bà ấy nói, và mặt tái đi khi nói. Anh giải thích địa chỉ của ngôi nhà và nói rằng anh không biết tên của nó. Khi anh kể xong, bà trả lời:

“ Phải, chắc chắn rồi - chắc chắn là đúng nơi đó! Chắc chắn đó là Nhà của Thẩm phán.” Anh yêu cầu bà kể cho anh nghe về địa điểm đó, tại sao lại có tên như vậy và những ǵ phản đối nó. Bà nói với anh rằng nó được gọi như vậy ở địa phương v́ nó đă có đó cách đây nhiều năm - bà không thể nói được bao lâu, v́ bản thân bà đến từ một vùng khác của đất nước, nhưng bà nghĩ nó phải cách đây một trăm năm hoặc hơn - nơi ở của một thẩm phán vô cùng đáng sợ v́ những bản án khắc nghiệt và sự thù địch của ông ta đối với các tù nhân tại Assizes. Về phần bản thân ngôi nhà th́ bà không thể nói được điều ǵ. Bà đă thường xuyên hỏi nhưng không ai có thể cho biết; nhưng có cảm giác chung là có điều ǵ đó, và về phần ḿnh, bà sẽ không đánh cuộc vào ở trong nhà đó dù một giờ để được thắng hết tiền ở Ngân hàng Drinkwater. Sau đó bà xin lỗi Malcolmson v́ cuộc nói chuyện làm phiền của ḿnh.

“ Thật tệ cho tôi, thưa ông - một quư ông trẻ nữa chứ  - hăy thứ lỗi cho tôi khi tôi nói rằng ông không nên sống ở đó một ḿnh. Nếu ông là con trai tôi - và xin thứ lỗi cho tôi khi nói rằng - ông sẽ không được ngủ ở đó một đêm nào, nếu tôi phải tự ḿnh đến đó và kéo chiếc chuông báo động lớn trên mái nhà!” Nhân vật tốt bụng này rơ ràng rất nghiêm túc và có ư định tử tế đến mức Malcolmson, mặc dù thích thú, cũng cảm động. Anh tử tế nói với bà rằng anh đánh giá cao sự quan tâm của bà dành cho anh và nói thêm:

“ Nhưng, bà Witham thân mến, thực sự bà không cần phải quan tâm đến tôi! Một người đàn ông đang đọc Tripo toán học có quá nhiều điều phải suy nghĩ nên không thể bị làm phiền bởi bất kỳ "điều ǵ đó" bí ẩn này, và công việc của anh ta thuộc loại quá chính xác và tầm thường nên không cho phép anh ta có bất kỳ góc nào trong tâm trí dành cho những điều bí ẩn, bất kỳ loại nào. Tiến tŕnh điều ḥa, Hoán vị và Tổ hợp, và Hàm Elliptic có đủ những điều bí ẩn đối với tôi rồi! “

 

Bà Witham vui ḷng đảm nhận công việc anh nhờ, c̣n anh th́ tự ḿnh đi t́m bà già đă được giới thiệu cho anh. Khi anh quay trở lại Nhà Thẩm phán cùng bà, sau khoảng thời gian vài giờ, anh thấy chính bà Witham đang đợi cùng với một số người đàn ông và những cậu bé mang bưu kiện, và một người đàn ông làm bọc đệm có một chiếc giường trong ô tô, v́ bà nói, mặc dù bàn ghế có thể rất ổn, một chiếc giường không được trải sàn có lẽ đă năm mươi năm th́ không thích hợp cho xương non nằm. Rơ ràng là bà ṭ ṃ muốn xem bên trong ngôi nhà; và mặc dù rơ ràng là sợ 'thứ ǵ đó' đến nỗi chỉ cần một âm thanh nhỏ nhất, bà đă bám chặt lấy Malcolmson, người mà bà chưa bao giờ rời xa dù chỉ một giây, đă đi khắp nơi.

Sau khi xem xét ngôi nhà, Malcolmson quyết định ở trong pḥng ăn lớn, đủ rộng để phục vụ mọi yêu cầu của anh; và bà Witham, với sự giúp đỡ của bà giúp việc, bà Dempster, tiến hành thu xếp mọi việc. Khi những chiếc ḥm mây được mang đến và mở ra, Malcolmson thấy rằng bà đă có sự suy tính tử tế trước khi gửi từ nhà bếp của ḿnh đủ đồ dùng để dùng trong vài ngày. Trước khi đi bà bày tỏ đủ mọi lời chúc tốt đẹp; và khi tới cửa bà quay lại và nói:

- Và có lẽ, thưa ông, v́ căn pḥng rộng và nhiều gió nên tốt nhất nên đặt một trong những tấm b́nh phong quanh giường ông vào ban đêm - tuy nhiên, thành thật mà nói, tôi sẽ chết giấc nếu bị nhốt trong pḥng có quá nhiều những "thứ" , những "thứ" mà đầu của chúng ở ba bề bốn bên và cả trên đầu cứ chăm chăm nh́n tôi!' H́nh ảnh mà bà vừa khơi khiến bà căng thẳng quá mức, bỏ chạy không tự chủ được.

Bà Dempster khịt mũi một cách trịch thượng khi bà chủ nhà biến mất, và nhận xét rằng về phần ḿnh, bà không sợ tất cả những tṛ hề trong vương quốc.

“Tôi sẽ nói cho ông biết nó là ǵ, thưa ông,” bà nói; “ Ma quỷ là tất cả các loại, tất cả các thứ - ngoại trừ ma quỷ! Chuột lớn chuột nhỏ và bọ cánh cứng; những cánh cửa ọp ẹp, những tấm đá phiến lỏng lẻo, những tấm kính vỡ và những tay nắm ngăn kéo cứng ngắc, chúng sẽ lọt ra ngoài khi ông kéo chúng ra rồi rơi xuống vào lúc nửa đêm. Hăy nh́n vào ván ốp tường của căn pḥng! Nó đă cũ - hàng trăm năm tuổi rồi! Ông có nghĩ rằng ở đó không có chuột và bọ cánh cứng không! Và thưa ông, ông có tưởng tượng rằng ông sẽ không nh́n thấy ai trong chúng không? Tôi nói cho ông biết, chuột là ma quái, và ma quái là chuột; và ông không được nghĩ ǵ khác!'

'Bà Dempster,” Malcolmson nghiêm túc nói, cúi chào bà một cách lịch sự, “bà biết nhiều hơn một Wrangler (nhà toán học) cấp cao! Và hăy để tôi nói rằng, như một dấu hiệu đánh giá cao sự đúng đắn không thể nghi ngờ của cái đầu và trái tim của bà, khi tôi đi, tôi sẽ trao cho bà quyền sở hữu ngôi nhà này và để bà ở đây một ḿnh trong hai tháng cuối cùng của thời gian tôi thuê nhà bởi v́ tôi chỉ cần bốn tuần cho mục đích của tôi thôi.'

“ Xin thành thật cảm ơn ông! “ bà ấy trả lời, "nhưng tôi không thể ngủ xa nhà một đêm. Tôi đang tham gia Hội từ thiện Greenhow, và nếu tôi ngủ cách xa pḥng ḿnh một đêm, tôi sẽ mất tất cả những ǵ ḿnh có để sống ở đó. Các quy tắc rất nghiêm ngặt; và có quá nhiều người đang mong kiếm chỗ trống nếu tôi có thể gặp phải bất kỳ rủi ro nào trong vấn đề này. Chỉ v́ điều đó thôi, thưa ông, tôi rất sẵn ḷng đến đây và chăm sóc ông suốt thời gian ông lưu trú."

“Người phụ nữ tốt bụng của tôi,” Malcolmson vội vàng nói, “tôi đến đây nhằm mục đích t́m kiếm sự yên tĩnh; và hăy tin tôi rằng tôi biết ơn ngài Greenhow quá cố v́ đă tổ chức tổ chức từ thiện đáng ngưỡng mộ của ḿnh - bất kể đó là ǵ - đến nỗi tôi buộc phải từ chối cơ hội chịu đựng một h́nh thức cám dỗ như vậy! Bản thân Thánh Anthony cũng không thể cứng rắn hơn được nữa!'

Bà già cười ngặt nghẽo. 'À, các quư ông trẻ tuổi,' bà nói, 'ông không sợ hăi vô ích đâu; và có vẻ như ông sẽ có được tất cả sự yên tĩnh mà ông muốn ở đây.' Bà bắt đầu công việc dọn dẹp của ḿnh; và khi màn đêm buông xuống, khi Malcolmson đi dạo về - anh luôn mang theo một trong những cuốn sách để đọc khi đi dạo - anh thấy căn pḥng đă được quét dọn và ngăn nắp, ngọn lửa đang cháy trong ḷ sưởi cũ, đèn thắp sáng và bàn ăn được trải rộng ra cho bữa tối với món ăn tuyệt vời của bà Witham. “Quả thực đây là sự thoải mái,” anh nói trong khi xoa tay.

Khi ăn xong bữa tối và nhấc khay sang đầu bên kia của chiếc bàn ăn lớn bằng gỗ sồi, anh lại lấy sách ra, đặt củi mới vào lửa, hạ ngọn đèn và bắt đầu ch́m đắm trong một câu thần chú thực sự làm việc chăm chỉ. Anh tiếp tục không ngừng nghỉ cho đến khoảng mười một giờ, khi anh nghỉ việc một lát để sửa lửa, đèn và pha cho ḿnh một tách trà. Anh luôn là người thích uống trà, và trong thời gian học đại học, anh đă làm việc muộn và uống trà muộn. Phần c̣n lại đối với anh là một điều xa xỉ vô cùng, và anh tận hưởng nó với một cảm giác ngon lành, thoải mái đầy khoái cảm. Ngọn lửa mới bùng lên và lấp lánh, ném những cái bóng kỳ lạ xuyên qua căn pḥng rộng lớn cũ kỹ; và khi nhấm nháp tách trà nóng của ḿnh, anh ấy tận hưởng cảm giác bị cô lập khỏi đồng loại. Sau đó, lần đầu tiên anh bắt đầu nhận thấy tiếng ồn ào của lũ chuột.

'Chắc chắn rồi,' anh nghĩ, 'chúng không thể làm được điều đó trong suốt thời gian ta đọc. Nếu có th́ ta chắc chắn đă nhận ra điều đó!' Lúc này, khi tiếng ồn tăng lên, anh tự hài ḷng rằng nó thực sự mới. Rơ ràng là lúc đầu lũ chuột sợ hăi trước sự hiện diện của người lạ, ánh sáng của lửa và đèn; nhưng thời gian trôi qua chúng đă trở nên táo bạo hơn và bây giờ đang hành xử như thói quen.


Chúng bận rộn biết bao! và lắng nghe những tiếng động lạ! Lên xuống sau tấm ván ốp tường cũ, trên trần và dưới sàn, chúng chạy đua, gặm nhấm và cào cấu! Malcolmson mỉm cười một ḿnh khi nhớ lại câu nói của bà Dempster, 'Ma quỷ là chuột, và chuột là ma quỷ!' Trà bắt đầu có tác dụng kích thích trí tuệ và thần kinh, anh vui vẻ nh́n thấy một khoảng thời gian dài làm việc nữa phải làm trước khi màn đêm trôi qua, và với cảm giác an toàn mà nó mang lại, anh cho phép ḿnh hưởng thụ một điều tốt đẹp xa xỉ là nh́n quanh pḥng. Anh cầm chiếc đèn trong một tay và đi khắp nơi, tự hỏi rằng tại sao một ngôi nhà đẹp đẽ và cổ kính đến thế đă bị bỏ quên quá lâu. H́nh chạm khắc bằng gỗ sồi trên các tấm ván ốp tường rất đẹp, trên và xung quanh cửa ra vào và cửa sổ trông rất đẹp và có giá trị hiếm có. Có một số bức tranh cũ trên tường, nhưng chúng phủ đầy bụi bẩn đến nỗi anh không thể phân biệt được bất kỳ chi tiết nào của chúng, mặc dù anh đă giơ chiếc đèn cao nhất có thể qua đầu. Đây đó, khi đi ṿng quanh, anh thấy một vết nứt hoặc lỗ nào đó bị chặn lại trong giây lát bởi khuôn mặt của một con chuột với đôi mắt sáng lấp lánh trong ánh sáng, nhưng ngay lập tức nó biến mất, và một tiếng rít và một tiếng chạy trốn theo sau. Tuy nhiên, điều khiến anh ấn tượng nhất là sợi dây của chiếc chuông báo động lớn trên mái nhà, treo ở góc pḥng, phía bên phải ḷ sưởi.

Anh kéo một chiếc ghế gỗ sồi có lưng cao chạm khắc đến gần ḷ sưởi và ngồi xuống uống tách trà cuối cùng. Khi việc này xong, anh nhóm lửa và quay lại công việc của ḿnh, ngồi ở góc bàn, với ngọn lửa ở bên trái. Trong một thời gian, lũ chuột làm phiền anh phần nào v́ sự chạy nhảy liên tục của chúng, nhưng anh đă quen với tiếng ồn như người ta quen với tiếng tích tắc của đồng hồ hoặc tiếng nước chảy ầm ầm; và anh ấy đắm ch́m trong công việc đến nỗi mọi thứ trên thế giới, ngoại trừ vấn đề mà anh đang cố gắng giải quyết, đều biến mất .

Anh chợt nh́n lên, vấn đề của anh vẫn chưa được giải quyết, và trong không khí có cảm giác về thời gian trước b́nh minh, thật đáng sợ đối với cuộc sống đầy nghi ngờ. Tiếng ồn ào của lũ chuột đă chấm dứt. Quả thực, đối với anh, dường như nó đă chấm dứt gần đây và chính sự dừng lại đột ngột đó đă khiến anh băn khoăn. Ngọn lửa đă tắt nhưng vẫn tỏa ra ánh sáng đỏ thẫm. Khi nh́n, anh bắt đầu bất chấp sự b́nh tĩnh của ḿnh.

Trên chiếc ghế gỗ sồi chạm khắc có lưng cao, cạnh bên phải ḷ sưởi là một con chuột khổng lồ, đang nh́n chằm chằm vào anh bằng đôi mắt đầy nguy hiểm. Anh ra hiệu cho nó như muốn đuổi nó đi, nhưng nó không nhúc nhích. Sau đó anh làm động tác ném thứ ǵ đó. Nó vẫn không nhúc nhích mà nhe những chiếc răng trắng to lớn một cách giận dữ, và đôi mắt hung ác của nó sáng lên dưới ánh đèn càng thêm vẻ báo thù.


Malcolmson cảm thấy kinh ngạc, và chộp lấy cái que cời trong ḷ sưởi để giết nó. Tuy nhiên, trước khi anh có thể tấn công nó, con chuột, với một tiếng rít nghe như tập trung sự căm ghét, nhảy lên sàn, và chạy theo sợi dây của chuông báo động, biến mất trong bóng tối ngoài phạm vi bóng râm của chụp đèn màu xanh lục. Ngay lập tức, thật kỳ lạ, tiếng chạy ồn ào của lũ chuột trên ván ốp tường lại bắt đầu.

Lúc này tâm trí của Malcolmson đă khá rối bời; và khi tiếng gà gáy chói tai bên ngoài báo cho anh biết trời sắp sáng, anh lên giường và ngủ.

Anh ngủ say đến nỗi thậm chí không bị đánh thức khi bà Dempster bước vào dọn pḥng cho anh. Chỉ đến khi bà dọn dẹp chỗ ở, chuẩn bị sẵn bữa sáng cho anh và gơ nhẹ vào cái b́nh phong để sát giường th́ anh mới tỉnh dậy. Anh vẫn hơi mệt sau một đêm làm việc vất vả, nhưng một tách trà đặc chẳng mấy chốc đă giúp anh tỉnh táo và cầm theo cuốn sách, anh ra ngoài đi dạo buổi sáng, mang theo vài chiếc bánh sandwich để anh không phải quay lại cho đến khi trở về vào giờ ăn tối. Anh t́m thấy một lối đi yên tĩnh giữa những cây du cao bên ngoài thị trấn, và ở đây anh đă dành phần lớn thời gian trong ngày để nghiên cứu về Laplace. Khi trở về, anh đến gặp bà Witham và cảm ơn ḷng tốt của bà. Khi bà nh́n thấy anh đi qua cửa sổ lồi lắp kính h́nh kim cương trong pḥng riêng, bà bước ra đón anh và mời anh vào. Bà nh́n anh ḍ xét và lắc đầu khi nói:

“ Ông không được lạm dụng nó, thưa ông. Sáng nay ông xanh xao hơn thường ngày. Thức quá muộn và làm việc trí óc quá sức đều không tốt cho bất kỳ người đàn ông nào! Nhưng hăy nói cho tôi biết, ông đă qua đêm như thế nào? Tốt phải không, tôi hy vọng? Nhưng thật t́nh ! thưa ông, tôi rất vui khi bà Dempster nói với tôi sáng nay rằng ông vẫn ổn và ngủ ngon khi bà ấy bước vào.”

'Ồ, tôi ổn thôi,' anh mỉm cười trả lời, 'những "điều ǵ đó" vẫn chưa làm tôi lo lắng. Chỉ có chuột; và chúng ồn ào, tôi nói cho bà biết, chúng ở khắp mọi nơi. Có một con quỷ già trông độc ác ngồi trên ghế của tôi cạnh ḷ sưởi và không chịu đi cho đến khi tôi chọc cái que cời lửa về phía nó, rồi nó chạy lên dây của chuông báo động và đi đến đâu đó trên tường hoặc trần nhà - tôi không thể nh́n thấy ở đâu, trời tối quá'.

Bà Witham nói: “Xin thương xót chúng tôi, một con quỷ già đang ngồi trên chiếc ghế cạnh ḷ sưởi! Hăy bảo trọng ! Xin đừng giễu cợt vậy.”

'Ư bà là thế nào? Nói đi, tôi không hiểu.”

'Một con quỷ già! Có lẽ chính là con quỷ già. Đó đó! thưa ông, ông không nên đùa giỡn,” v́ Malcolmson đă bắt đầu cười phá. 'Các bạn trẻ nghĩ rằng thật dễ cười vào những điều khiến người lớn tuổi phải rùng ḿnh. Không sao đâu, thưa ông ! đừng bận tâm! Lạy Chúa, ông sẽ cười suốt. Đó chính là điều tôi mong muốn !' và người phụ nữ tốt bụng cười rạng rỡ đồng cảm với sự vui vẻ của anh, và nỗi sợ hăi của bà biến mất trong giây lát.

“ Ôi, tha thứ cho tôi!' Malcolmson nói, 'Đừng nghĩ tôi thô lỗ; nhưng ư tưởng đó khiến tôi choáng ngợp - rằng đêm qua chính con quỷ già đó đă ngồi trên ghế!' Và với ư nghĩ đó anh lại cười. Sau đó anh về nhà ăn tối.

Tối nay việc chuột chạy trốn bắt đầu sớm hơn; thực sự nó đă diễn ra trước khi anh đến, và chỉ dừng lại khi sự hiện diện của anh bởi sự tươi mát của anh làm chúng bối rối. Sau bữa tối, anh ngồi bên đống lửa một lúc và hút thuốc; rồi sau khi dọn bàn xong, bắt đầu làm việc như trước. Đêm nay lũ chuột làm phiền anh nhiều hơn đêm trước. Làm thế nào mà chúng chạy lên chạy xuống và chạy qua lại! Chúng kêu ré lên, cào cấu và gặm nhấm làm sao! Làm thế nào mà chúng, dần dần táo bạo hơn, tiến đến miệng các lỗ hang, tới các khe, các vết nứt và vết nứt trên ván ốp tường cho đến khi mắt chúng sáng lên như những ngọn đèn nhỏ khi ánh lửa lên xuống. Nhưng đối với anh, giờ đây chắc chắn đă quen với chúng, đôi mắt của chúng không hề độc ác; chỉ có sự vui đùa của chúng làm anh cảm động. Đôi khi những con táo bạo nhất trong số chúng chạy cả ra sàn nhà hoặc dọc theo các đường gờ của ván ốp tường. Thỉnh thoảng khi chúng làm phiền anh, Malcolmson phát ra âm thanh khiến chúng sợ hăi, anh dùng tay đập xuống bàn hoặc phát ra tiếng 'Hsh, hsh' dữ dội khiến chúng bỏ chạy thẳng về hang của ḿnh.

Và thế là nửa đêm đă trôi qua, và bất chấp tiếng ồn, Malcolmson ngày càng đắm ch́m vào công việc của ḿnh.

Đột nhiên anh dừng lại, giống như đêm hôm trước, bị choáng ngợp bởi một cảm giác im lặng đột ngột. Không có một chút âm thanh nào của tiếng gặm, tiếng cào hay tiếng rít. Sự im lặng giống như nấm mồ. Anh nhớ lại sự việc kỳ lạ xảy ra đêm qua, và theo bản năng anh nh́n chiếc ghế đặt cạnh ḷ sưởi. Và rồi một cảm giác rất kỳ lạ tràn ngập trong anh.


Ở đó, trên chiếc ghế gỗ sồi chạm khắc lưng cao cũ kỹ bên cạnh ḷ sưởi cũng có một con chuột khổng lồ đang ngồi nh́n anh chằm chằm với đôi mắt đầy hiểm độc.

Theo bản năng, anh lấy vật gần nhất trong tay ḿnh, một cuốn sách logarit và ném nó vào đó. Cuốn sách nhắm không trúng và con chuột không nhúc nhích nên màn đuổi nhau với cái cời than tối hôm trước lại lặp lại; và một lần nữa con chuột, bị truy đuổi gắt gao, đă bỏ chạy theo sợi dây của chuông báo động. Điều kỳ lạ nữa là sự ra đi của con chuột này ngay lập tức kéo theo sự ồn ào mới của cộng đồng chuột nói chung. Lần này, cũng như lần trước, Malcolmson không thể nh́n thấy con chuột biến mất ở phần nào của căn pḥng, v́ chao đèn xanh lục của ngọn đèn khiến phần trên của căn pḥng ch́m trong bóng tối và ngọn lửa đă cháy lụi tàn.

Khi nh́n đồng hồ, anh thấy đă gần nửa đêm; và, để nghỉ ngơi chốc lát, anh nhóm lửa và tự pha cho ḿnh b́nh trà hàng đêm. Anh đă trải qua một thời gian làm việc tốt và nghĩ rằng ḿnh có quyền hút thuốc lá, thế là anh ngồi trên chiếc ghế gỗ sồi lớn trước đống lửa và tận hưởng nó. Trong khi hút thuốc, anh bắt đầu nghĩ rằng anh muốn biết con chuột biến đi đâu, v́ anh có những ư tưởng nhất định cho ngày mai có phần lớn liên quan đến bẫy chuột.

Sau đó, anh thắp một ngọn đèn khác và đặt nó sao cho nó chiếu sáng rơ vào góc bên phải bức tường cạnh ḷ sưởi. Sau đó, anh lấy tất cả những cuốn sách mang theo bên ḿnh và đặt chúng sẵn sàng để ném vào con chuột quỷ. Cuối cùng, anh nhấc sợi dây của chuông báo động lên và đặt một đầu của nó lên bàn, cố định phần cuối bên dưới ngọn đèn. Khi cầm nó, anh không thể không nhận thấy nó dẻo đến mức nào, đặc biệt đối với một sợi dây quá chắc chắn và lại không được sử dụng. “ Bạn có thể treo cổ một người đàn ông với nó,” anh tự nghĩ. Sau khi chuẩn bị xong, anh nh́n quanh và nói một cách tự măn:

“ Này, bạn của tôi, tôi nghĩ lần này chúng ta sẽ học được điều ǵ đó từ bạn! “ Anh bắt đầu lại công việc của ḿnh, và mặc dù lúc đầu hơi bối rối v́ tiếng ồn của lũ chuột, nhưng anh nhanh chóng ch́m đắm trong những đề xuất và vấn đề của ḿnh.

Một lần nữa anh tự nhiên lại cảnh giác đến sự việc quanh ḿnh. Lần này có lẽ không chỉ sự im lặng đột ngột thu hút sự chú ư của anh, có một chuyển động nhẹ của sợi dây và ngọn đèn cũng chuyển động. Không nhúc nhích, anh nh́n xem chồng sách của ḿnh có nằm trong phạm vi không, rồi đưa mắt dọc theo sợi dây. Khi nh́n, anh thấy con chuột lớn thả ḿnh ra khỏi sợi dây trên chiếc ghế bành bằng gỗ sồi và ngồi đó trừng mắt nh́n anh. Anh giơ một cuốn sách lên trong tay phải và nhắm cẩn thận, ném nó vào con chuột. Con vật, với một động tác nhanh nhẹn, nhảy sang một bên và né được cú phóng. Thế rồi anh lấy một cuốn sách khác và cuốn sách thứ ba, lần lượt ném chúng vào con chuột, nhưng lần nào cũng không thành công.

Cuối cùng, khi anh đứng với một cuốn sách trong tay sẵn sàng ném đi, con chuột kêu ré lên và có vẻ sợ hăi. Điều này khiến Malcolmson háo hức ra đ̣n hơn bao giờ hết, cuốn sách bay đi và giáng một đ̣n chí tử vào con chuột. Nó kêu lên một tiếng kinh hăi, và nh́n kẻ đuổi theo bằng ánh mắt ác độc khủng khiếp, rồi chạy lên lưng ghế và nhảy một cú thật mạnh vào sợi dây của chuông báo động rồi chạy lên đó nhanh như chớp. Chiếc đèn lắc lư dưới lực căng đột ngột, nhưng nó nặng và không bị đổ. Malcolmson để mắt đến con chuột và nh́n thấy nó dưới ánh sáng của ngọn đèn thứ hai nhảy lên khuôn của ván ốp tường và biến mất qua một cái lỗ trên một trong những bức tranh lớn treo trên tường, bị che khuất và vô h́nh qua lớp bụi bẩn phủ trên đó.

“Sáng mai tôi sẽ t́m nơi ở của bạn,” người sinh viên nói khi đi nhặt sách. “ Bức tranh thứ ba từ ḷ sưởi, tôi sẽ không quên.” Anh nhặt từng cuốn sách lên, b́nh luận về chúng khi nhấc chúng lên. “ Nó không bận tâm đến Phần h́nh nón, Dao động tṛn, Nguyên tắc, cũng không phải Quaternions, cũng không phải Nhiệt động lực học. Bây giờ là cuốn sách đă ném cho nó chạy đây! “ Malcolmson cầm nó lên và nh́n nó. Khi làm vậy, anh giật ḿnh, và khuôn mặt anh ta đột nhiên tái xanh. Anh khó chịu nh́n quanh và hơi rùng ḿnh, rồi lẩm bẩm một ḿnh:

“ Cuốn Kinh Thánh mẹ tôi đă cho tôi! Thật là một sự trùng hợp kỳ lạ.” Anh lại ngồi xuống làm việc, và lũ chuột trong ván ốp tường tiếp tục tṛ chơi của chúng. Tuy nhiên, chúng không làm phiền anh, bằng cách nào đó sự hiện diện của chúng mang lại cho anh cảm giác đồng hành. Nhưng anh không thể tập trung vào công việc của ḿnh, và sau khi cố gắng nắm vững chủ đề đang theo đuổi, anh đă từ bỏ nó trong tuyệt vọng và đi ngủ khi vệt b́nh minh đầu tiên ló dạng qua cửa sổ phía đông.


Anh ngủ say nhưng khó chịu và mơ nhiều, và khi bà Dempster đánh thức anh vào sáng muộn, anh có vẻ không thoải mái, và trong vài phút dường như không nhận ra chính xác ḿnh đang ở đâu. Yêu cầu đầu tiên của anh khiến người hầu khá ngạc nhiên.

“ Bà Dempster, hôm nay khi tôi ra ngoài, tôi mong bà bước lên bậc thềm và phủi bụi hoặc lau sạch những bức tranh đó - đặc biệt là bức thứ ba trên ḷ sưởi - tôi muốn xem chúng là ǵ”.

Vào cuối buổi chiều, Malcolmson đang ngồi đọc sách trong lối đi râm mát, và cảm giác vui vẻ của ngày hôm trước quay trở lại với anh khi ngày đó trôi qua, và anh nhận thấy khả năng đọc của ḿnh đang tiến triển tốt. Anh đă t́m ra một kết luận thỏa đáng cho tất cả những vấn đề mà anh vẫn c̣n bối rối, và trong tâm trạng hân hoan, anh đă đến thăm bà Witham tại “ The Good Traveller “. Anh thấy một người lạ trong pḥng khách ấm cúng cùng với bà chủ nhà, người được giới thiệu với anh là Bác sĩ Thornhill. Bà không hoàn toàn thoải mái, và điều này, cộng với việc bác sĩ ngay lập tức lao vào một loạt câu hỏi, khiến Malcolmson đi đến kết luận rằng sự có mặt của anh không phải là một sự t́nh cờ, v́ vậy anh nói ngay:

“ Bác sĩ Thornhill, tôi rất hân hạnh trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà ông có thể chọn để hỏi tôi nếu ông trả lời tôi một câu hỏi trước.”


Bác sĩ có vẻ ngạc nhiên, nhưng ông mỉm cười và trả lời ngay: 'Được rồi ! Nó là ǵ thế?”

“ Bà Witham có yêu cầu ông đến đây gặp tôi và cho tôi lời khuyên không?”

Bác sĩ Thornhill sửng sốt một lúc, c̣n bà Witham th́ đỏ bừng mặt và quay đi, nhưng bác sĩ là một người thẳng thắn và sẵn sàng, ông trả lời ngay lập tức và cởi mở:

“Bà ấy có yêu cầu thật nhưng bà không có ư định để anh biết điều đó. Tôi cho rằng chính sự vội vàng vụng về của tôi đă khiến anh nghi ngờ. Bà ấy nói với tôi rằng bà không thích ư tưởng anh ở trong ngôi nhà đó một ḿnh và bà nghĩ anh đă uống quá nhiều trà đặc. Thực ra, bà muốn tôi khuyên anh nếu có thể hăy từ bỏ việc uống trà và thức khuya. Vào thời của tôi, tôi là một sinh viên khá nhiệt t́nh, v́ vậy tôi cho rằng tôi có thể tin vào sự tự do của một sinh viên đại học, và tôi không có ư chống đối, nhưng tôi không khuyên anh như một người lạ đâu.”

Malcolmson với nụ cười rạng rỡ đưa tay ra. “ Bắt tay! như người ta nói ở Mỹ”, anh nói. “ Tôi phải cảm ơn ḷng tốt của ông và cả bà Witham nữa, và ḷng tốt của ông xứng đáng được đáp lại từ phía tôi. Tôi hứa sẽ không uống trà đặc nữa - không uống trà cho đến khi ông cho phép - và tối nay tôi sẽ đi ngủ muộn nhất là một giờ. Liệu điều đó có hiệu quả không?”

“Tốt lắm,” bác sĩ nói. 'Bây giờ hăy kể cho chúng tôi tất cả những ǵ anh đă để ư thấy trong ngôi nhà cũ,' và thế là Malcolmson kể lại chi tiết từng phút tất cả những ǵ đă xảy ra trong hai đêm qua. Thỉnh thoảng anh bị gián đoạn bởi một vài câu cảm thán từ bà Witham, cho đến khi cuối cùng khi anh kể về t́nh tiết về Kinh thánh, những cảm xúc dồn nén của bà chủ nhà được trút ra thành một tiếng thét, và phải đến khi uống xong một ly rượu mạnh và nước, bà mới b́nh tĩnh trở lại. Bác sĩ Thornhill lắng nghe với vẻ mặt ngày càng nghiêm túc, và khi câu chuyện kết thúc và bà Witham đă b́nh tĩnh lại, ông hỏi:


“ Con chuột luôn leo lên dây chuông báo động? “

“ Luôn luôn.”

“ Tôi nghĩ rằng anh biết “, bác sĩ nói sau một lúc im lặng, “ sợi dây là ǵ? “

“ Không ! “

'Đó chính là', bác sĩ chậm răi nói, 'sợi dây mà tên treo cổ đă sử dụng cho tất cả các nạn nhân phạm tội trong ṭa xử của Thẩm phán!' Tại đây, ông bị gián đoạn bởi một tiếng hét khác từ bà Witham, và phải thực hiện các bước để giúp bà hồi phục. Malcolmson nh́n đồng hồ và thấy rằng đă gần đến giờ ăn tối nên đă về nhà trước khi bà b́nh phục hoàn toàn.

Khi bà Witham tỉnh lại, bà gần như tấn công bác sĩ bằng những câu hỏi giận dữ về ư nghĩa của việc ông đặt những ư tưởng khủng khiếp như vậy vào tâm trí chàng trai trẻ tội nghiệp. “Anh ấy đă có đủ thứ để làm hoang mang rồi,” bà nói thêm. Bác sĩ Thornhill trả lời:

'Thưa bà thân mến, tôi có mục đích rơ ràng trong đó! Tôi muốn thu hút sự chú ư của anh ấy vào sợi dây chuông và để yên nó ở đó. Có thể anh ấy đang trong t́nh trạng quá căng thẳng và học hành quá nhiều, mặc dù tôi buộc phải nói rằng anh có vẻ là một thanh niên khỏe mạnh, cả về tinh thần lẫn thể chất, như tôi từng thấy - nhưng mà nói về lũ chuột - và ư tưởng về ma quỷ...”

Bác sĩ lắc đầu rồi nói tiếp. “ Tôi đáng lẽ phải nên đề nghị đến và ở lại đêm đầu tiên với anh ấy nhưng tôi cảm thấy chắc chắn rằng điều ấy sẽ gây ra sự mếch ḷng. Anh ta có thể gặp phải một cảm giác sợ hăi hoặc ảo giác kỳ lạ nào đó vào ban đêm; và nếu vậy tôi muốn anh ta kéo sợi dây đó. Anh ta chỉ có một ḿnh ở đó thôi, làm vậy anh ta sẽ báo động cho chúng ta và chúng ta có thể đến với anh kịp thời để giúp đỡ. Tối nay tôi sẽ thức khá khuya và sẽ phải chú ư lắng nghe. Đừng lo lắng nếu Benchurch gặp bất ngờ trước khi trời sáng.”

“ Ồ, bác sĩ, ư ông là ǵ? Ư ông là ǵ? “

“ Ư tôi là thế này; rằng có thể - không, có lẽ hơn - tối nay chúng ta sẽ nghe thấy tiếng chuông báo động lớn từ Nhà Thẩm phán “, và bác sĩ giải thích đến một lối thoát hiệu quả nhất có thể nghĩ ra.

Khi Malcolmson về đến nhà, anh nhận ra rằng đă muộn hơn một chút so với thời gian thường lệ của anh và bà Dempster đă đi vắng - không được phép bỏ qua các quy tắc của Tổ chức từ thiện Greenhow. Anh vui mừng khi thấy nơi này sáng sủa và ngăn nắp với ngọn lửa vui tươi và ngọn đèn được cắt tỉa cẩn thận. Buổi tối có thể lạnh hơn dự đoán vào tháng Tư, và gió lớn đang thổi với cường độ ngày càng nhanh đến mức có khả năng sẽ có băo trong đêm. Trong vài phút sau khi anh bước vào, tiếng ồn ào của lũ chuột đă chấm dứt, nhưng ngay khi chúng đă quen với sự hiện diện của anh, chúng lại bắt đầu.

Anh vui mừng khi nghe thấy chúng, v́ một lần nữa anh cảm thấy có cảm giác đồng hành trong tiếng ồn ào của chúng, và tâm trí anh nhớ lại sự thật kỳ lạ là chúng chỉ ngừng xuất hiện khi con chuột kia - con chuột to lớn với đôi mắt hiểm độc - xuất hiện. Chỉ có chiếc đèn đọc sách được thắp sáng và chụp đèn xanh lục của nó khiến trần nhà và phần trên của căn pḥng ch́m trong bóng tối, nhờ vậy ánh sáng vui tươi từ ḷ sưởi trải khắp sàn và chiếu lên tấm vải trắng trải ở cuối bàn ấm áp và sảng khoái. Malcolmson ngồi vào bữa tối với tâm trạng ngon miệng và tinh thần sảng khoái. Sau khi ăn tối và hút thuốc, anh ngồi vững vàng làm việc, quyết tâm không để bất cứ điều ǵ làm phiền ḿnh, v́ anh nhớ lời hứa với bác sĩ và quyết định tận dụng thời gian theo ư ḿnh.

Trong khoảng một giờ, anh làm việc ổn thỏa, và rồi suy nghĩ của anh bắt đầu lang thang khỏi những cuốn sách. Hoàn cảnh thực tế xung quanh anh, thể chất mệt mỏi và thần kinh nhạy cảm của anh không thể phủ nhận được. Lúc này gió đă trở thành gió giật và gió mạnh đă trở thành băo. Ngôi nhà cũ, dù kiên cố, dường như rung chuyển đến tận nền móng, cơn băo gầm lên và hoành hành qua nhiều ống khói và những đầu hồi cũ kỹ kỳ lạ của nó, tạo ra những âm thanh kỳ lạ, siêu phàm trong những căn pḥng và hành lang trống rỗng. Ngay cả chiếc chuông báo động lớn trên mái nhà cũng phải cảm nhận được sức mạnh của gió, v́ sợi dây nâng lên hạ xuống nhẹ nhàng, như thể chiếc chuông thỉnh thoảng bị dịch chuyển một chút và sợi dây mềm mại rơi xuống sàn gỗ sồi một cách mạnh mẽ và nặng nề âm thanh rỗng.

Khi Malcolmson nghe nó, anh nghĩ đến những lời của bác sĩ, 'Đó là sợi dây mà người treo cổ đă sử dụng cho các nạn nhân phạm tội trong ṭa án của Thẩm phán,' và anh đi đến góc ḷ sưởi và cầm nó trên tay để nh́n vào đó. Dường như có một mối quan hệ chết người nào đó đối với nó, và khi đứng đó, anh mất một lúc để suy đoán xem những nạn nhân này là ai, và mong muốn nghiệt ngă của Thẩm phán là có được một di vật khủng khiếp như vậy dưới mắt ông ta. Khi anh đứng đó, cái chuông lắc lư trên mái nhà thỉnh thoảng vẫn nhấc sợi dây lên; nhưng ngay sau đó lại có một cảm giác mới - một loại rung chuyển ở sợi dây, như thể có thứ ǵ đó đang chuyển động dọc theo nó.

Theo bản năng, Malcolmson nh́n lên và thấy con chuột lớn đang từ từ đi xuống phía ḿnh, nh́n chằm chằm vào anh. Anh thả sợi dây ra và đáp lại nó với một lời nguyền rủa lẩm bẩm, và con chuột quay lại chạy lên sợi dây và biến mất, cùng lúc đó Malcolmson nhận ra rằng tiếng động của lũ chuột, vốn đă ngừng được một lúc, lại bắt đầu xuất hiện.

Tất cả những điều này khiến anh phải suy nghĩ, và anh chợt nhận ra rằng ḿnh đă không điều tra hang ổ của con chuột hay xem những bức tranh như anh đă dự định. Anh thắp chiếc đèn c̣n lại không có chụp, rồi giơ nó lên và đứng đối diện với bức tranh thứ ba từ ḷ sưởi ở phía bên phải, nơi anh đă nh́n thấy con chuột biến mất vào đêm hôm trước.

Thoạt nh́n, anh giật ḿnh quay lại đột ngột đến mức suưt đánh rơi chiếc đèn, và khuôn mặt anh xanh xao chết người. Đầu gối anh run lên, trên trán lấm tấm những giọt mồ hôi dày đặc, anh run rẩy như một cây dương. Nhưng anh c̣n trẻ và may mắn, đă b́nh tĩnh lại và sau vài giây dừng lại, anh lại bước tới, giơ đèn lên và xem xét bức tranh đă được lau bụi và rửa sạch, giờ đây đă nổi bật rơ ràng.

Đó là h́nh ảnh một thẩm phán mặc áo choàng màu đỏ tươi và có lông chồn ermine. Khuôn mặt hắn mạnh mẽ và tàn nhẫn, độc ác, xảo quyệt và đầy thù hận, với cái miệng gợi cảm, chiếc mũi khoằm màu hồng hào và có h́nh dạng giống như mỏ của một con chim săn mồi. Phần c̣n lại của khuôn mặt mang màu sắc xác chết. Đôi mắt sáng rực rỡ và có vẻ ác độc khủng khiếp. Khi nh́n vào chúng, Malcolmson trở nên ớn lạnh v́ anh thấy đó chính là bản sao của đôi mắt của con chuột lớn. Chiếc đèn gần như rơi khỏi tay, anh nh́n thấy con chuột với đôi mắt hiểm độc đang nh́n ra ngoài qua cái lỗ ở góc bức tranh, và nhận thấy sự ồn ào đột ngột của những con chuột khác. Tuy nhiên, anh đă b́nh tĩnh lại và tiếp tục xem xét bức tranh.

Thẩm phán ngồi trên một chiếc ghế gỗ sồi chạm khắc có lưng cao, bên phải một ḷ sưởi bằng đá lớn, ở trong góc, một sợi dây treo từ trần nhà xuống, đầu dây nằm cuộn trên sàn. Với một cảm giác ǵ đó giống như kinh hoàng, Malcolmson nhận ra khung cảnh căn pḥng như nó đang đứng, và nh́n quanh ḿnh với vẻ kinh hăi như thể anh mong đợi sẽ t́m thấy một sự hiện diện kỳ lạ nào đó đằng sau lưng. Rồi anh nh́n sang góc ḷ sưởi - và hét lớn, anh làm rơi chiếc đèn khỏi tay ḿnh.

Ở đó, trên chiếc ghế bành của Thẩm phán, với sợi dây treo phía sau, con chuột có đôi mắt đầy hiểm độc của Thẩm phán, giờ đă trở nên dữ dội và có cái liếc mắt quỷ quyệt. Ngoại trừ tiếng gào thét của cơn băo chỉ có sự im lặng.

Chiếc đèn rơi khiến Malcolmson b́nh tỉnh lại. May mắn là nó làm bằng kim loại nên dầu không bị đổ ra ngoài. Tuy nhiên, nhu cầu thực tế của việc giải quyết nó ngay lập tức làm tan nỗi lo lắng của anh. Khi lật nó lên rồi, anh lau trán và suy nghĩ một lúc.

“Việc này sẽ không ổn,” anh tự nhủ. 'Nếu ta tiếp tục như thế này ta sẽ trở thành một kẻ điên rồ. Việc này phải dừng lại! Ta đă hứa với bác sĩ là sẽ không uống trà. Quả thực, ông ấy nói khá đúng! Dây thần kinh của ta chắc đang rơi vào trạng thái kỳ lạ. Buồn cười là ta không nhận ra điều đó. Ta chưa bao giờ cảm thấy tốt hơn trong cuộc sống của ḿnh. Tuy nhiên, bây giờ mọi chuyện đă ổn và tôi sẽ không ngu ngốc như vậy nữa.'

Sau đó, anh pha cho ḿnh một ly rượu mạnh với nước rồi kiên quyết ngồi xuống làm việc.

Phải gần một giờ sau anh mới rời mắt khỏi cuốn sách, bối rối v́ sự tĩnh lặng đột ngột. Ngoài kia, gió hú và gầm to hơn bao giờ hết, và mưa trút từng mảng vào cửa sổ, đập như mưa đá trên kính; nhưng bên trong không có âm thanh nào ngoại trừ tiếng gió gầm rú trong ống khói lớn, và thỉnh thoảng có tiếng rít khi một vài hạt mưa t́m đường xuống ống khói khi cơn băo tạm lắng.

Ngọn lửa đă lụi tàn và ngừng cháy, tuy nhiên nó vẫn tỏa ra ánh sáng đỏ. Malcolmson chăm chú lắng nghe và ngay lập tức nghe thấy một tiếng động nhỏ, cót két, rất yếu ớt. Nó phát ra từ góc pḥng, nơi sợi dây treo xuống, và anh nghĩ đó là tiếng cọt kẹt của sợi dây trên sàn khi chiếc chuông lắc lư lên xuống. Tuy nhiên, nh́n lên, anh thấy trong ánh sáng lờ mờ con chuột lớn đang bám vào sợi dây và gặm nó. Sợi dây gần như đă bị gặm đứt - anh có thể nh́n thấy màu nhạt hơn ở chỗ những sợi dây được để trần. Khi anh nh́n công việc đă hoàn thành, đầu sợi dây bị đứt rơi xuống sàn gỗ sồi, trong khi trong chốc lát, con chuột lớn vẫn c̣n giống như một cái núm hoặc tua ở đầu sợi dây, giờ bắt đầu đung đưa qua lại. Malcolmson trong giây lát cảm thấy một nỗi kinh hoàng khác khi nghĩ rằng giờ đây khả năng kêu gọi thế giới bên ngoài giúp đỡ anh đă bị cắt đứt, nhưng một cơn tức giận dữ dội đă thay thế nó, và anh giật lấy cuốn sách đang đọc và ném nó vào con chuột. Cú đánh được nhắm chính xác, nhưng trước khi tên lửa có thể chạm tới nó, con chuột đă rơi xuống và đập xuống sàn với một tiếng uỵch nhẹ. Malcolmson ngay lập tức lao về phía nó, nhưng nó lao đi và biến mất trong bóng tối của căn pḥng.

Malcolmson cảm thấy rằng công việc của ḿnh đă kết thúc trong đêm, và quyết tâm thay đổi sự đơn điệu của quá tŕnh diễn ra bằng cách săn chuột, đồng thời tháo chụp đèn xanh lục ra để đảm bảo ánh sáng lan rộng hơn. Khi anh làm vậy, bóng tối ở phần trên của căn pḥng giảm bớt, và trong luồng ánh sáng mới, so với bóng tối trước đó, những bức tranh trên tường nổi bật một cách táo bạo. Từ chỗ anh đứng, Malcolmson nh́n thấy ngay đối diện anh bức tranh thứ ba trên tường tính từ bên phải ḷ sưởi. Anh dụi mắt ngạc nhiên, và rồi một nỗi sợ hăi lớn lao bắt đầu ập đến với anh.

Ở giữa bức tranh là một mảng vải màu nâu không đều đặn, vẫn tươi mới như khi nó được căng trên khung. Bối cảnh vẫn như trước, với chiếc ghế, góc ống khói và dây thừng, nhưng bóng dáng của Thẩm phán đă biến mất.

Malcolmson, gần như ớn lạnh v́ kinh hoàng, từ từ quay lại, rồi bắt đầu run như một người bị liệt. Sức lực của anh dường như đă rời bỏ anh, và anh không thể hành động hay cử động, thậm chí gần như không thể suy nghĩ. Anh chỉ có thể nh́n và nghe.

Ở đó, trên chiếc ghế gỗ sồi chạm khắc có lưng cao, Thẩm phán trong bộ áo choàng màu đỏ tươi chồn ermine, với đôi mắt hiểm độc nh́n trừng trừng đầy vẻ báo thù, và nụ cười đắc thắng trên cái miệng kiên quyết, độc ác khi ông giơ tay nhấc chiếc mũ lưỡi trai màu đen. Malcolmson cảm thấy như máu đang chảy ra từ trái tim ḿnh, giống như người ta cảm thấy trong những giây phút hồi hộp kéo dài. Có tiếng hát vang vọng bên tai anh.

Ngoài ra, anh có thể nghe thấy tiếng gầm và tiếng hú của cơn băo, và qua cơn băo, bị cuốn theo cơn băo, tiếng chuông của cái đồng hồ  lớn ở khu chợ bắt đầu điểm báo nửa giờ khuya. Anh đứng đó trong một khoảng thời gian mà đối với anh dường như bất động vô tận như một bức tượng, với đôi mắt mở to kinh hoàng, khó thở. Đồng hồ càng gơ, nụ cười đắc thắng trên khuôn mặt Thẩm phán càng đậm thêm, và khi những tiếng gơ cuối vang lên, ông đội chiếc mũ đen lên đầu.

Một cách chậm răi và thận trọng, Thẩm phán đứng dậy khỏi ghế và nhặt đoạn dây của chiếc chuông báo động nằm trên sàn, kéo nó qua tay như thể ông ấy rất thích sự đụng chạm của nó, rồi cố t́nh bắt đầu thắt một đầu của nó, biến nó thành một cái tḥng lọng. Ông siết chặt và kiểm tra nó bằng chân, kéo mạnh cho đến khi hài ḷng rồi tạo một chiếc tḥng lọng chạy trên tay và cầm nó trong tay. Sau đó, ông bắt đầu di chuyển dọc theo chiếc bàn ở phía đối diện với Malcolmson, mắt luôn luôn nh́n anh cho đến khi ông đi ngang qua anh, và thoắt một cái, ông đến đứng ngay trước cửa. Malcolmson sau đó bắt đầu cảm thấy ḿnh bị mắc kẹt và cố gắng nghĩ xem ḿnh nên làm ǵ. Có một sự mê hoặc nào đó trong đôi mắt của Thẩm phán khiến anh không rời mắt khỏi, và anh buộc phải nh́n. Anh nh́n thấy Thẩm phán tiến đến - vẫn giữ khoảng cách giữa anh và cánh cửa - và giơ sợi dây tḥng lọng lên và ném về phía anh như thể muốn cột anh lại . Với một nỗ lực lớn lao, anh di chuyển nhanh sang một bên và nh́n thấy sợi dây rơi xuống bên cạnh ḿnh và nghe thấy tiếng nó chạm vào sàn gỗ sồi.

Một lần nữa, Thẩm phán lại giơ sợi dây tḥng lọng lên và cố tṛng anh, luôn dán chặt đôi mắt hiểm độc vào anh, và mỗi lần như vậy, bằng một nỗ lực phi thường, người sinh viên chỉ t́m cách tránh được nó. Cứ thế lặp đi lặp lại nhiều lần, thẩm phán dường như không bao giờ nản ḷng hay mất b́nh tĩnh trước thất bại mà chơi như mèo vờn chuột. Cuối cùng, trong nỗi tuyệt vọng đă lên tới đỉnh điểm, Malcolmson liếc nhanh xung quanh. Ngọn đèn h́nh như đă sáng lên, trong pḥng có ánh sáng khá tốt. Tại nhiều hang chuột, trong các kẽ nứt và kẽ hở của ván ốp tường, anh nh́n thấy mắt chuột; và khía cạnh này, hoàn toàn là thể chất, mang lại cho anh một tia an ủi. Anh nh́n quanh và thấy sợi dây của chiếc chuông báo động lớn đầy chuột. Mỗi inch của nó đều bị chúng bao phủ, và ngày càng nhiều thứ khác đổ vào lỗ tṛn nhỏ trên trần nhà nơi nó nhô ra, đến nỗi với sức nặng của chúng, chiếc chuông bắt đầu lắc lư.

Nghe đây! nó lắc lư cho đến khi người gơ chuông chạm vào chuông. Âm thanh đó chỉ là một âm thanh rất nhỏ, nhưng chiếc chuông chỉ mới bắt đầu lắc lư và nó sẽ tăng lên.

Khi nghe thấy âm thanh đó, Thẩm phán, người vẫn đang dán mắt vào Malcolmson, nh́n lên và vẻ giận dữ quỷ quái hiện rơ trên khuôn mặt ông ta. Đôi mắt ông sáng rực như than hồng, dậm chân phát ra âm thanh tưởng chừng như rung chuyển cả căn nhà.

Một tiếng sấm khủng khiếp vang lên trên đầu khi ông lại giơ sợi dây lên, trong khi lũ chuột vẫn chạy lên chạy xuống sợi dây như thể đang chạy đua với thời gian. Lần này, thay v́ ném dây, ông tiến tới nạn nhân của ḿnh và giữ tḥng lọng mở ra khi ông đến gần. Khi ông ta đến sát, dường như có thứ ǵ đó làm cho tê liệt trước sự hiện diện của ông, và Malcolmson đứng cứng đờ như một xác chết. Anh cảm thấy những ngón tay lạnh giá của Thẩm phán chạm vào cổ họng ḿnh khi ông điều chỉnh sợi dây, chiếc tḥng lọng thắt chặt - thắt chặt. Sau đó, Thẩm phán ôm lấy thân h́nh cứng đờ của người sinh viên, bế anh ta đến đặt đứng trên chiếc ghế gỗ sồi, rồi leo lên bên cạnh anh, giơ tay lên nắm lấy đầu sợi dây lắc lư của chuông báo động. Khi ông giơ tay lên, lũ chuột kêu rít lên bỏ chạy và biến mất qua cái lỗ trên trần nhà. Lấy đầu dây tḥng lọng tṛng quanh cổ Malcolmson, ông buộc nó vào sợi dây treo chuông, rồi leo xuống kéo chiếc ghế ra.

Khi chuông báo động của Nhà Thẩm phán bắt đầu vang lên, một đám đông nhanh chóng tụ tập lại. Đèn và đuốc đủ loại xuất hiện, chẳng mấy chốc một đám đông im lặng đă vội vă đến nơi. Họ gơ cửa ầm ĩ nhưng không có tiếng trả lời. Sau đó họ xông vào cửa và tràn vào pḥng ăn lớn, bác sĩ đứng đầu.

Ở đó, nơi đầu sợi dây của chiếc chuông báo động lớn có treo thi thể của anh sinh viên, và trên khuôn mặt của Thẩm phán trong ảnh là một nụ cười nham hiểm.


THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
( tháng 9 / 2024 )


Nguồn:
https://americanliterature.com/author/bram-stoker/short-story/the-judges-house/


( Nhà Thẩm Phán được vinh danh là Truyện ngắn trong ngày vào thứ Tư, ngày 20 tháng 10 năm 2021 )

 

 

art2all.net