Thân Trọng Sơn
TỪ
DE PÈRE INCONNU ĐẾN CHA VÔ DANH
 |
 |

1. CHA VÔ DANH.
Nhan đề phụ là “ Chuyện kể cuộc đời một người Việt lai Pháp “, từ lúc
mới sinh ra ( 1944) cho đến lúc tác giả hoàn thành tác phẩm ( 2018 ).
Tất nhiên, cuộc đời một người gắn liền với thời đại và nơi chốn anh ta
sống, liên quan đến thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp, láng giềng... , tất
cả những người quen biết cùng sống với anh ta. Tuy thời gian kéo dài như
thế, với số lượng nhân vật đông đảo như thế, tác giả vẫn lôi cuốn người
đọc bằng sự chọn lọc tinh tế những chi tiết được kể, bằng giọng văn nhẹ
nhàng, giản dị mà không kém trau chuốt, bóng bẩy. Kể chuyện đời ḿnh,
tác giả không theo tŕnh tự thời gian, lớp lang sau trước, mà theo ḍng
cảm xúc dẫn dắt người đọc từ một việc gần đây bỗng thụt lùi hai ba chục
năm trước hoặc ngược lại. Kể chuyện đời ḿnh, ít nhiều tác phẩm có tính
chất một tự truyện, nhưng người đọc nhiều lứa tuổi, tŕnh độ hiểu biết
và nền tảng văn hoá khác nhau vẫn hào hứng theo dơi khi tác giả công bố
dần dà ( theo nhịp độ viết ) trên facebook và blog cá nhân, mỗi lần một
đoạn theo kiểu viết feuilleton. Và hẳn ai cũng mong thấy tác phẩm được
xuất bản để có thể đọc liền mạch, khỏi thấp thỏm chờ đợi.
Cuối năm 2018, tôi may mắn được đọc “ bản in thử “, hơn 400 trang trên
cỡ giấy A4. Không đủ thời gian và tŕnh độ để viết một review đầy đủ,
tôi xin ghi lại đây đôi điều cảm nghĩ từ một người đọc trân trọng công
sức và tài năng người viết.
Điều đáng nói đầu tiên là bất cứ ai đọc tác phẩm sẽ không khỏi ngạc
nhiên và thán phục trước trí nhớ phi thường của tác giả: anh nhớ và kể
lại tường tận tất cả những ǵ xảy ra từ thời đi học, tiểu học và trung
học, tại Hà Nội và Đà Lạt, với đầy đủ thầy và bạn, chuyện học hành, vui
chơi, giải trí. Sau đó là chuyện tốt nghiệp đại học, công việc làm,
những biến cố của cuộc đời đi kèm biến cố lịch sử đất nước từ năm 1975,
chuyện đi định cư ở Pháp rồi những chuyến về lại quê hương từ hơn hai
mươi năm nay. Trí nhớ đó được sự trợ giúp hữu hiệu của h́nh ảnh và ghi
chép mà không hiểu sao anh lưu giữ tài t́nh đến thế. ( Chỉ tiếc là ba
tập vở học tṛ anh ghi chép tháng ngày “ học tập cải tạo “ đă bị thất
lạc dù đă được gởi sang Pháp - nếu không sẽ là những trang viết quư
giá.).
Đấy là những chuyện liên quan trực tiếp đến chính anh, c̣n chuyện của
các nhân vật khác, có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của anh th́ anh dùng
thủ thuật “ chuyện kể của nhân vật “ để ghi nhận sự kiện. Có ba nhân vật
chính đă kể chuyện kiểu này: người mẹ, bà ngoại và người cha dượng. Anh
đă viết về bà mẹ qua các đoạn 2 ( Cô gái mồ côi hận đời - 1934 ), đoạn 3
( Phải chăng là bốc đồng - 1943 ), nhảy qua vài đoạn để trở lại với đoạn
11 và 13. Qua chuyện kể của bà mẹ, anh đă dựng lại những chi tiết cặn kẽ
về cuộc đời đấy sóng gió và gian truân của người thân yêu nhất của anh.
Đọc những trang này, người đọc có thể thấy rằng ngoài lời kể chuyện của
nhân vật, thấp thoáng có sự can thiệp của tác giả, tức là sử dụng thủ
pháp “ nhân vật - người kể chuyện “, personnage - narrateur, xen kẽ với
“ tác giả - người kể chuyện “ , auteur - narrateur . Điều này rơ ràng
hơn với “ chuyện kể của cha dượng “, suốt những đoạn 8, 9 và 10. Kể
chuyện gia đ́nh vào những năm chiến tranh ( từ 1945 ), rồi chuyện tản
cư, hồi cư, anh say sưa nói rất dài
( về đảo chính Nhật, cách mạng tháng tám, các đảng phái chính trị, các
nhân vật lịch sử Bảo Đại, Hồ Chí Minh )...
Tất nhiên tôi hiểu thiện ư của anh muốn lồng câu chuyện đời ḿnh trong
bối cảnh lịch sử, giúp người đọc hiểu thêm về một giai đoạn cần được t́m
hiểu và giải thích từ nhiều góc nh́n khác nhau. Nhưng nói nhiều như thế
làm cho ư nghĩa của chuyện kể của cha dượng giảm bớt phần đáng tin (
vraisemblable ). Giá mà anh lược bớt đi, để dành phần lớn chi tiết cho
phần Ghi chú ở cuối sách!
Phần này, anh ghi là Chú thích, thực chất là những ghi chú lịch sử, địa
lư và văn hoá. Trong bản in thử, anh đă dành ra 33 trang chữ nhỏ để viết
đến 149 ghi chú, giải thích nhiều vấn đề khác nhau về ba lĩnh vực nói
trên, căn cứ vào những tư liệu, chứng cứ và tham khảo phong phú từ nhiều
nguồn đáng tin cậy, đặc biệt là những nguồn khó tiếp cận, mà bằng kinh
nghiệm của một người từng làm công tác nghiên cứu để viết luận án muốn
chia sẻ với độc giả. Ghi chú liên quan đến địa lư, giải thích các địa
danh nổi tiếng và chưa nổi tiếng, Hà Đông, Hà Nội, Lạng Sơn, Ban Mê
Thuột, Đèo Cả, Sông Gianh, Bà Điểm... Ghi chú về lịch sử phong phú hơn
và đầy bất ngờ, từ các nhân vật lớn ( Bảo Đại, Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh
Diệm, Vua Thành Thái, Trương Vĩnh Kư , Yersin, Alexandre de Rhodes,
Kennedy, Nguyễn Văn Thiệu...) đến các sự kiện quan trọng ( về thời Đệ
Nhất, Đệ Nhị Cộng Hoà, các cuộc đảo chính, phong trào đấu tranh đô thị,
hiệp định Paris, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam... ) và bao nhiêu
việc lớn nhỏ khác. Ghi chú về văn hoá, các danh nhân, nhạc sĩ, các ca
khúc, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ... ). Thật lạ lùng, không thiếu một thứ ǵ,
bằng những lời giải thích ngắn gọn, súc tích, đủ để thoả măn sự ṭ ṃ
muốn t́m hiểu của người đọc.
Phần chú thích này có thể được đọc độc lập, tách khỏi cuốn truyện, mà
không hề nhàm chán.
Tách phần chú thích ra, để dành thời gian mà đọc chính tác phẩm 74 đoạn,
không theo kiểu đọc ngấu nghiến, mà thong thả nghiền ngẫm từng đoạn một,
để thưởng thức, hồi hộp, ngạc nhiên, bật cười rồi lắng đọng, ch́m trong
tận cùng cảm xúc qua phận người lận đận, vận nước nổi trôi, tất cả qua
ngọn bút tài hoa của người dược sĩ, thầy giáo, nhạc sĩ, ca sĩ “ thấm
nhuần hai nền văn hoá Việt - Pháp.”
74 đoạn này có thể có thêm một nhan đề phụ nữa là : Chuyện kể cuộc truy
t́m tung tích người “ cha vô danh “, công việc mà nhân vật chính, cũng
là tác giả, đă thực hiện từ lúc ông mới đặt chân sang đất Pháp, có lúc
gián đoạn, rồi lại tiếp tục và kết thúc trong tuyệt vọng khi ông nhận
được câu trả lời của cơ quan lịch sử quân đội Pháp là không thể t́m ra
hồ sơ cá nhân của người ông muốn t́m ( tháng 11/2008 ). Cuối cùng, tác
giả phải ngậm ngùi thốt lên: “ Cha tôi không muốn cho tôi biết ông là
ai, ông muốn tiếp tục là người cha vô danh.” ( kết thúc đoạn 74 ).
Lẽ nào điều đó lại xảy đến với một người nặng t́nh quê hương, thiết tha
gắn bó với gia đ́nh, một người xa quê lâu năm lúc có dịp trở về là làm
ngay các cuộc “ hành hương “ về với kỷ niệm, nơi sinh ra, nơi sống những
ngày tuổi thơ xa lơ xa lắc?
Nếu đây là một tác phẩm hư cấu, độc giả mong muốn có một happy ending,
một cái kết có hậu hơn. C̣n nếu đây là chuyện kể “ về những người có
thật đă sống trên đất nước Việt Nam “ th́ độc giả lại càng mong muốn
công sức của người truy t́m phải được đền đáp, sự thiệt tḥi mất mát của
người có ḷng phải được bù đắp. Cho hợp lẽ trời, cho thuận ḷng người!
Đọc hết 74 đoạn, độc giả tưởng chừng sẽ gấp sách lại với tâm trạng ngậm
ngùi như chính tác giả với câu cảm thán nhắc đến bên trên.
Nhưng mà KHÔNG!
Tiếp theo sau đó c̣n có mấy trang nữa, tác giả không ghi đoạn 75 mà là
LỜI CUỐI. Và đây là bất ngờ thú vị không hề chờ đợi, không thể tưởng
tượng nổi dành cho mọi người. Đến lúc hầu như không c̣n chút hy vọng ǵ
và đành chấp nhận bỏ cuộc th́ anh được người có trách nhiệm ở kho lưu
trữ, sau khi t́m kiếm, chính thức báo tin “ Tôi t́m ra hồ sơ cá nhân của
cha ông rồi.” Đây là thông tin chính xác tuyệt đối, nhờ đó anh đă lần
theo dấu vết người cha, t́m ra lai lịch, quê hương, gia đ́nh, và nhờ
những h́nh ảnh, kỷ vật gia đ́nh lưu giữ, anh đă dựng lại tiểu sử người
thân của ḿnh, đă t́m gặp gia đ́nh, chú bác, anh chị em họ. Và thuyết
phục hơn hết thảy là anh đă công bố ảnh của người cha lúc 25 tuổi và ảnh
chính tác giả tức là người con, lúc 24 tuổi. Cùng một khuôn mặt, mũi
miệng mắt trán giống hệt nhau!
Đoạn “ lời cuối “ này là những trang viết cảm động nhất, gây ấn tượng
mạnh nơi người đọc.
Sở dĩ câu chuyện chuyển hướng bất ngờ thế này là do việc anh trở lại lâu
đài Vincennes, tức là văn khố của quân đội Pháp, cốt để tặng thư viện ở
đây cuốn sách anh mới xuất bản, bởi nhiều người làm việc ở văn khố đă
từng giúp đỡ anh nhiệt t́nh và chu đáo trong suốt bao nhiêu năm t́m
kiếm. Lần này th́ anh được toại nguyện. ( Sự việc xảy ra vào tháng
4/2015, hai tháng sau khi xuất bản cuốn sách ).
Cuốn sách nói đến đây là DE PÈRE INCONNU, do chính anh viết bằng tiếng
Pháp, được nhà xuất bản L’ Harmattan công bố vào tháng 2/2015.
CHA VÔ DANH chính là phiên bản tiếng Việt, “ không phải là bản dịch từ
tiếng Pháp, mà là cuốn sách viết bằng tiếng Việt bởi một người Việt cho
người Việt đọc”.
2. DE PÈRE INCONNU
Chuyện kể về đất nước Việt Nam nửa sau thế kỷ XX.
Cuốn sách tiếng Pháp ra đời trước có nhan đề phụ như trên, tức là khác
với phiên bản tiếng Việt, đơn giản v́ đối tượng nhắm đến hoàn toàn khác
( thế hệ trẻ người Việt sống ngoài nước, giúp họ hiểu thêm quê hương của
tổ tiên ḿnh ).
Vẫn là câu chuyện truy t́m tung tích người cha vô danh ( À la recherche
du père inconnu ) được tác giả thuật lại trong bốn phần, anh gọi là hồi
( acte ), hồi 1 ngay đầu sách, ba hồi c̣n lại dồn hết vào phần cuối. C̣n
lại là những chuyện kể, được tŕnh bày như những chương ( chapitre )
tương đối ngắn, có thể đọc riêng rẽ.
Cũng do đối tượng độc giả được xác định như thế nên trong 500 trang của
cuốn sách, tác giả luôn lưu tâm nhắc đến, giải thích, có khi b́nh luận,
những vấn đề về văn hoá Việt Nam, bên cạnh những sự kiện lịch sử tất
nhiên không thể thiếu. Anh nói về truyền thống dân tộc, việc thờ cúng tổ
tiên, t́nh cảm gia đ́nh, quan hệ láng giềng, làng mạc... Rất thú vị khi
đọc về Tết cổ truyền, bánh chưng, bánh tét, các loại mứt ( trang 168,
169 ), thậm chí cả rau muống luộc ( t 122 ), tiết canh vịt ( t 123 ).
Rồi các quan niệm về hôn nhân, chuyện môn đăng hộ đối ( t 35 ), hôn nhân
khác tôn giáo, các nghi thức hôn lễ ( t 36 ). Làm sao giải thích khái
niệm “ làm dâu “ cho một bạn trẻ Pháp gốc Việt hiểu? Anh nói giản dị: “
Vivre avec la grande famille du mari pour la servir en tant que
bru”.Thật tài t́nh mấy chữ “ pour la servir “ ! Anh không bỏ lỡ cơ hội
để giải thích mọi chuyện lớn nhỏ, “ xe ôm “ chẳng hạn. Thật khó, phải
không? Anh phải dịch, littéralement, “ véhicule où il faut enlacer “, “
véhicule où il faut serrer dans ses bras “. Vậy thôi, ( tôi đề nghị thêm
vào moto-taxi ).
Ngay cả chuyện t́nh yêu, anh cũng nh́n bằng con mắt dân gian. Chương “
Peut-on résister au destin?” trang 209, ngoài chuyện học hành thi cử ở
đại học là chuyện anh t́nh cờ gặp cô gái ở Saigon, khi anh đi dạy kèm về
t́nh cờ đi ngang chỗ nàng tạm nghỉ trong lần từ Đà Lạt về chơi. Gặp rồi
nói chuyện, nhận ra đă quen biết, thư từ qua lại sau đó, và bén duyên
nhau. Trước đó nhiều năm, cả hai cùng sống ở thành phố hoa, có lúc là
láng giềng khi cùng ở trên đường Graffeuil, nàng đă có lần đi xem anh
đấu bóng chuyền, vậy mà chưa một lần gặp gỡ chuyện tṛ. C̣n lần này th́
t́nh cờ quá đỗi mà nên vợ nên chồng. Anh nói chỉ là “duyên số” thôi!
Những điều bên trên là dành cho bạn đọc ham hiểu biết, c̣n những người
yêu văn chương lại có mối quan tâm khác. Và họ không khó khăn để nhận ra
nét chủ đạo của ng̣i bút PHẠM NGỌC LÂN. Kể chuyện nửa thế kỷ, đầy ắp sự
kiện, ngồn ngộn biến cố, anh vẫn không quên cốt lơi tác phẩm là nhân vật
chính anh nêu ngay trong nhan đề sách. Dấu ấn của nhà văn có tài là việc
chọn lọc CHI TIẾT, tưởng là nhỏ nhặt, thoáng qua, nhưng thực ra là điểm
mở nút thắt ( dénouement ) tài t́nh.
Anh ra đời trong hoàn cảnh nào? Trong các chương “Récit d’une mère “,
anh để bà mẹ thuật lại cuộc đời đầy sóng gió từ lúc mới sinh, nhắc đến
ông bà ngoại, tuổi thơ vất vả, t́nh yêu dang dở, cuối cùng, qua sự giới
thiệu của bạn, chấp nhận làm quen, đồng ư kết hôn sau khi gia đ́nh nhận
lễ vật của một sĩ quan Pháp dù chỉ mới trao đổi thư từ, h́nh ảnh. Bằng
một quyết định bất ngờ ( anh gọi là coup de tête ), bà một thân một ḿnh
t́m đến với chàng trai trên một ḥn đảo nơi chưa hề nghe tên. Và cũng lạ
lùng nữa, bà bỏ ra về chỉ sau mười bảy ngày sống chung ở đó. Không giải
thích lư do. Và sau đó, không liên lạc, tin tức ǵ nữa. Kết thúc câu
chuyện dài này là tiết lộ gọn lỏn: “ J’ étais enceinte .” ( Mẹ đă mang
thai. )
Từ chi tiết mịt mù thân phận đó mới dẫn tới cuộc truy t́m tung tích
người cha của nhân vật chính, với nhiều công sức, mất nhiều thời gian,
gần ra manh mối rồi lại rơi vào ngơ cụt. Người đọc thắc mắc, lẽ nào
ngoài cái tên của người cha ra, bà mẹ không để lại cho anh một chứng cứ
ǵ khác sao? Mẹ đă kể là có viết thư, gởi ảnh cho nhau kia mà? Anh giải
đáp thắc mắc này một cách khéo léo bằng một chi tiết trong đoạn “ chuyện
kể của bà ngoại “. Đó là thời kỳ gia đ́nh chuyển vào sống ở Saigon, gặp
lúc chiến tranh, tối nào cũng bị máy bay ném bom. Cả nhà phải t́m chỗ ẩn
nấp buổi tối. Bà ngoại t́m được chỗ nấp an toàn hơn, nhà một gia đ́nh
người Pháp. Cứ tối tối là chạy đến đó, không quên mang theo chiếc va-li
nhỏ đựng giấy tờ và những thứ quư giá nhất. Một tối, nhà đó bị trộm, cả
nhà ra về không kịp lấy chiếc va-li. Lúc trở lại định lấy mới biết cảnh
binh thu hết để điều tra, bà sợ liên luỵ nên không dám lấy nữa.
“ C’est ainsi que ta mère perdit toute trace de ton père, car dans cette
valise, il y avait toutes les lettres, les photos, les cadeaux... tout
ce qu’elle avait de lui.” ( trang 50 ).
( Và như thế, mẹ con đă mất hết vết tích của ba con, v́ trong chiếc va
li đó là tất cả thư từ, h́nh ảnh, quà cáp... tất cả những ǵ mẹ lưu giữ
của ba con. )
Cái cách sử dụng những chi tiết rất “ đắt “ như thế khiến ta liên tưởng
đến một bậc thầy truyện ngắn của văn học Pháp là Guy de Maupassant.
Từ De père inconnu đến Cha vô danh, câu chuyện có những nét tương đồng,
nhưng cách diễn đạt khác, cách khai thác đậm nhạt khác, tuỳ đối tượng
độc giả, cho nên ban đầu tưởng là truyện tuy hai mà một, nhưng đọc kỹ,
hoá ra tuy một mà hai. Và cả hai tác phẩm, tiếng Pháp và tiếng Việt, đều
cho thấy tài năng một nhà văn đích thực. Tài năng đó, chủ yếu thể hiện ở
tính sáng tạo. Không có sáng tạo, nội dung có phong phú đến đâu, văn
phong có lưu loát đến đâu, cũng không đủ làm nên giá trị của tác phẩm.
3. BẢN PHÁC THẢO ĐẦU TIÊN.
Tôi không quá lời khi nhận định như thế:
Khoảng chục năm trước khi khởi công viết De père inconnu, Phạm Ngọc Lân
đă gởi về cho thân hữu tin cậy nhất của ḿnh bản thảo đầu tiên của tập
truyện. Đây là bản đánh máy vỏn vẹn 40 trang, gồm các phần sau.
Mở đầu là “ Retrouvailles manquées.”
Kể chuyện nhân vật đi t́m tung tích cha lần đầu tiên khi đến lâu đài
Vincennes, dẫn đến manh mối thứ nhất: t́m ra người trùng tên, anh đến
thăm mộ nhưng vẫn hồ nghi có phải là cha ḿnh đây không.
Sau phần này là các chuyện kể của bà mẹ, bà ngoại, cha dượng.
Récit d’une mère. Récit d’une grand-mère. Récit d’un beau-pėre.
Các chuyện kể này c̣n sơ sài chỉ ghi những nét chính.
Xen kẽ giữa những phần chuyện kể là các đoạn tường thuật những chuyến
anh về Việt Nam, chia làm ba phần, anh gọi là Hành hương ( pèlerinages
). Đây là chuyến đi xuyên Việt anh thực hiện cùng vợ chồng cô em, qua
Tây nguyên, ra miền Trung và đến tận Ninh B́nh, Phát Diệm, ngoài Bắc.
Phần 1 trọng tâm là thăm đảo B́nh Ba, nơi mẹ anh gặp cha anh. Phần 2 là
lúc về thăm quê ngoại Hà Hồi. Phần 3 nói riêng về Hà Nội và những thắng
cảnh của thành phố này. Bản thảo kết thúc với chuyện kể anh t́m đến
trường tiểu học Sainte- Marie, nơi lần đầu tiên anh đi học, và giờ này
biến thành bệnh viện.
Tất cả chỉ có thế.
Dựa vào đó, tác giả đă dụng công sửa chữa, bổ sung, phát triển rất
nhiều, ngay từ những chi tiết nhỏ. Trong bản sơ thảo, bà mẹ kể chuyện
tiết lộ thân phận của nhân vật khi anh 15 tuổi ( Tu avais 15 ans ), lúc
viết chính thức, anh sửa lại 17. ( Tu avais dix-sept ans ).
Ban đầu, anh cũng do dự, chưa biết chọn nhan đề nào cho cuốn sách.
Citoyen de nulle part?
Hay là L’homme aux quatre identités?
Cái titre sau hơi khó hiểu, chỉ biết được khi đọc tác phẩm chính thức, ở
chương Les quatre identités, từ trang 137, đấy là anh nói chuyện ḿnh
thay tên đổi họ, thay đổi quốc tịch.
Đầu tiên là quốc tịch Pháp, tên họ Pháp, sau đó nhập tịch Việt Nam, tên
họ Việt, có tên mẹ nhưng không có tên cha. Lần thứ ba, năm 1958, làm lại
Chứng thư thay giấy khai sinh, lần này đổi họ theo họ cha dượng, và khai
tên cha dượng. Cuối cùng, lúc đă sang Pháp lấy lại tên Pháp, quốc tịch
Pháp. Bốn lần thay đổi, bốn identité khác nhau. Bản tiếng Việt ( Cha vô
danh ) anh dịch identité là “ bản sắc “ ( đoạn 27, Bản sắc và giấy tờ ).
Trong ngữ cảnh này, đây là một thuật ngữ pháp lư, theo định nghĩa của
Larousse : “ personnalté civile d’un individu, légalement reconnue ou
constatée “. Nghĩa này thấy dùng ở pièces d’identité, carte d’identité.
Tôi thích dùng “ căn cước “ hơn.
Thế đó, từ bản phác thảo đơn giản, sơ sài đến tác phẩm hoàn chỉnh, phân
thành chương hồi, ra mắt bạn đọc qua nhà xuất bản l’ Harmattan có uy
tín. Mất đến 8 năm để hoàn thành cuốn sách, trong điều kiện vẫn làm
việc, sinh hoạt b́nh thường, chẳng phải là thành quả của một nhà văn
Việt, viết bằng ngôn ngữ Pháp, xứng đáng được phổ biến rộng răi, mở
đường cho phiên bản tiếng Việt, Cha vô danh, sắp xuất bản hay sao?
THÂN TRỌNG SƠN
Đà Lạt, 1/2019.
_____
PS:
Đến nay ( 2025 ), Phạm Ngọc Lân đă viết thêm bản
tiếng Anh ( Unknown Father )
( Nhà giáo hưu trí - giảng dạy trung học và cao đẳng lần lượt tại Ban Mê
Thuột, Huế, Đà Lạt, từ 1967 - , viết văn, dịch thuật. Từng cộng tác với
các tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, Lang Bian, Sông Hương. Đă công bố nhiều
tác phẩm dịch, sang tiếng Pháp hoặc từ tiếng Anh, tiếng Pháp. Xuất bản
gần đây nhất : LĂNG DU MIỀN ĐẤT LẠ, tập thơ dịch, 2015 - CUỘC LY HÔN
TRÊN NÚI CAO, tập truyện dịch, 2017. )
Bài đăng trong phần Nhận định, cuốn Cha vô danh, xuất bản năm 2019.

Trang Thân Trọng
Sơn
art2all.net |