BỨC ẢNH VÀ CHỒNG THƯ CŨ
Mở cái hộp giấy bị quên lăng sau những đợt chuyển nhà, trước mắt tôi hiện ra một túi ny lông mà khi trút ra bên trong có một chồng thư cũ. Những bức thư của gia đ́nh mà chủ yếu là những bức thư của ba tôi đă gửi trong suốt 36 năm tôi sống ở nước ngoài, cho đến ngày ông mất. Tôi như chợt thấy một đời người dồn lại. Chính vào giây phút đó, tôi ư thức rơ ràng rằng những người tuy đă mất đi nhưng vẫn c̣n hiện hữu, ở đây, lúc này, tuy vắng mặt mà hiện diện cùng tôi.
Tất nhiên tôi không thể nh́n thấy họ như bóng dáng xưa. Nhưng nếu
hiểu theo lời của thiền sư Thích Nhất Hạnh th́: “Ngày mai, tôi sẽ
tiếp tục hiện diện. Nhưng bạn sẽ phải rất cẩn thận mới có thể nh́n
thấy tôi. Tôi sẽ là một bông hoa hay một chiếc lá. Tôi sẽ ở trong
những h́nh dáng đó và vẫn gửi cho bạn một lời chào. Nếu bạn đủ nhận
biết, bạn sẽ nhận ra tôi, và bạn có thể mỉm cười với tôi. Tôi sẽ rất
hạnh phúc ”.
& Năm mươi năm dồn nén như một chiếc ḷ xo, nhưng khi bung ra th́ những ǵ xảy ra trong suốt quăng thời gian đó đồng loạt thức dậy. Chập chờn nhảy múa trong một bầu trời đầy sương mù của kư ức. Chỉ là một t́nh cờ hay có một sự sắp xếp nào đó của hoá công? Cách đây mấy tháng, một người bạn mất liên lạc hơn 40 năm t́nh cờ thấy và kết bạn với tôi trên Facebook. Dũng t́m được tôi nhờ đọc một bài báo trên BBC(1) tiếng việt kể về chuyến bay vào tâm dịch Italia để gặp Elena ngay khi nước này dịch Covid-19 đang bùng phát mănh liệt mà phần lớn các chuyến bay về Milano đều bị huỷ bỏ.
Mấy tuần sau anh gửi qua email mấy tấm h́nh mà tôi đă quên đi, không
c̣n nhớ. Đó là bức h́nh chụp vào sáng ngày 21/12/1971 khi chúng tôi,
một nhóm sinh viên 13 người vừa đặt chân đến sân bay quốc tế
Fiumicino ở Roma.
Đoàn “nai vàng ngơ
ngác" đến sân bay Fiumicino, Roma 21.12.1971. Ngày đầu ở Ư. Nh́n bức ảnh, cảm xúc trong buổi chiều 50 năm trước như vừa trỗi dậy. Những thanh niên lần đầu xuất ngoại, làm quen, nói cười rối rít, ai cũng cố tỏ ra ḿnh cứng rắn để che giấu những lo âu về con đường trước mặt. Mặt đăm chiêu, ngồi trịnh trọng trên chuyến bay Air Vietnam từ Sài G̣n qua Bangkok. Thế nhưng lớp vỏ mạnh mẽ như lớp sáp tan chảy khi máy bay cất cánh. Tiếng nhạc trong khoang đang mở to lời hát “Bài không tên số 2” của Vũ Thành An: “Xin một lần xiết tay nhau một lần cuối cho nhau, Xin một lần vẫy tay chào thôi ḍng đời đó cuốn người theo” th́ có tiếng thút thít từ các ghế ngồi. Một người, hai người… rồi tất cả đưa mắt nh́n nhau, khuôn mặt nhạt nhoà. Chờ cảm xúc lắng xuống, tôi ngồi nghĩ lại. Sau bao năm vật đổi sao dời, tuy khởi điểm là đi chung một chuyến tàu nhưng ḍng đời đă cuốn chúng tôi, mỗi người trôi theo một định mệnh khác nhau. Ai thuận buồm, ai ngược gió, quay cuồng “như lá úa trong cơn mưa chiều…” thành công hay thất bại ǵ th́ cũng ch́m trong bể khổ của đời.
& Bắt đầu từ chuyến bay định mệnh ấy là những ngày tháng xa quê hương, bè bạn và những người thân. Mọi gian khổ vất vả th́ chịu được mà sự cô đơn, trống vắng th́ nó mênh mang mà không biết tỏ bày hay chia sẻ cùng ai.
Niềm an ủi lúc đó là được nghe một giọng nói thân quen, nhưng đó là
điều không tưởng. Sinh viên th́ nhà làm ǵ có điện thoại mà gọi bằng
gettone qua điện thoại công cộng, chi phí một cuộc gọi đường dài có
khi bằng sinh hoạt cả tháng!
Gettone là đồng xu nhỏ, có một rảnh ở giữa và bỏ lên một khe nằm trên máy điện thoại. Sau khi kết nối nó sẽ rớt vào máy, thời gian rớt được tính bằng khoảng cách từ nơi gọi đến nơi nhận. Gần chậm, xa mau. Khi gọi xa th́ tiếng gettone rơi nhanh như nhịp tim người gọi. Khi thời lượng tương ứng với số tiền trả sắp hết máy rung chuông báo, nếu không nạp kịp gettone là cuộc gọi bị ngắt! Thập niên 1970 tôi thường gọi Elena bằng cách này. Ngày nào ăn chiều xong chúng tôi cũng nói chuyện với nhau vài phút, nhưng cũng có khi cao hứng, nói với nhau cả nửa tiếng hay nhiều hơn. V́ là điện thoại công cộng nên có nhiều người khác đứng chờ bên ngoài. Có khi sốt ruột họ gơ cửa cabin hối thúc. Đứng bên trong, tôi xoè bàn tay trái đang nắm một mớ gettone, nh́n thấy, họ lắc đầu, miệng làu bàu rồi bỏ đi t́m máy khác! Những khi nói nhiều, tiếng gettone rơi làm ḿnh chóng mặt mà ở đầu giây bên kia c̣n nghe tiếng mẹ Elena mắng: nói ǵ mà lâu dữ vậy! V́ gọi điện khó khăn và đắt đỏ như thế nên mỗi khi gọi bạn bè ở xa như Pháp, Đức, Thụy Sĩ… th́ chúng tôi xem như mời bạn cà phê, nói lâu hơn là xem như mời bữa ăn trưa, liên lục địa.
Vào năm 1981, lần đầu tiên tôi hẹn hai em Xuân, Minh vừa mới định cư
ở Sidney (Úc) đến nhà cô dượng Tàu Năm để chờ nghe điện thoại, giọng
chúng tôi run lên v́ hơn 10 năm anh em mới nghe được giọng nói của
nhau. Người nghe, kẻ nói đều đă chuẩn bị sẵn nội dung, tranh thủ nói
nhanh để nói được nhiều!
& Những bức thư cất giữ trong chừng ấy năm làm tôi nhớ tới một thời đă qua và âm hưởng vẫn c̣n đọng tới bây giờ. Nó như những chiếc cầu cho tôi nối lại với cuộc đời ch́m sâu trong kỷ niệm. Mỗi khi nhận được thư của ba tôi, có khi viết tay, có khi đánh máy, tôi thường đọc đi đọc lại nhiều lần, dù đó là những bức thư thật dài, có khi hơn 10 trang giấy. Ba tôi đánh máy rất nhanh, c̣n viết th́ thư ông chỉ có tôi là đọc “ro ro” c̣n các em tôi th́ vừa đọc vừa phải… đoán. Sau khi buông thư tôi thường nằm dài suy nghĩ. Có khi tôi nghe như từ những bức thư đang thở ra hơi thở của ba tôi và trên sàn nhà đang thầm th́ bước chân của ông, rơ ràng đến nỗi tôi suưt buột miệng gọi ông. Có khi tôi chăng nghe mà chỉ thấy những khuôn mặt xa xôi hiện về. Nhạt nḥa, nhưng vẫn thấy ba má và tất cả các anh em Hiếu, Nga, Nguyệt, Xuân, Minh và tôi đang ngồi chen chúc quanh bàn ăn ấm cúng. Có lúc tôi mơ chân trần bước đi trên cát biển Qui nhơn, thỉnh thoảng ra mé nước nghe sóng vỗ dưới chân. Tuổi thơ của tôi đă trôi như một ḍng sông và những lúc lặng lẽ ấy chỉ c̣n lại những hoài niệm mà thời gian đă mang đi xa lắc. Đôi lúc tôi thấy tiếc nuối nhưng chỉ một thoáng thôi, v́ nhiều nỗi lo toan khi nh́n đến thực tại nơi đất khách. Những ngày sau 1975 thời gian rảnh rổi không nhiều v́ từ một chàng công tử vô tư tôi phải vừa làm vừa học. Áp lực kinh tế, học hành, tôi phải thanh thủ học trên xe bus lúc đông người mỗi khi đi đến chỗ làm hay lúc về nhà. Trong những lúc mềm ḷng, tôi rất cần một bàn tay để nắm. Nghe được một giọng nói thân thương, không cần họ làm ǵ để giúp mà chỉ cần biết có ai đó quan tâm đến ḿnh. Nhưng xung quanh nào có ai đâu! Không có sự chọn lựa nào khác là tự bước đi bằng đôi chân, nhận lấy trách nhiệm cho cuộc sống và tương lai của ḿnh. Hồi đó, trong suốt bao nhiêu năm… tôi mong chờ những bức thư như một bộ hành mơ nguồn nước trong sa mạc. Gửi thư đi, trung b́nh 3 tháng mới nhận được trả lời. Biết thế, nhưng viết xong th́ ngày nào cũng chờ. Mỗi sáng ra khỏi nhà đều nh́n vào hộp thư, dù biết chắc là không có mà ḷng vẫn hụt hẫng. Những bức thư thường làm tôi bâng khuâng, rộn ràng, đầy ắp niềm vui song cũng man mác, bồi hồi. V́ những điều kiện khách quan nên tôi không được sống gần ba ḿnh. Thế nhưng trong thời gian ít ỏi đó những bài học của ông vẫn theo tôi suốt cuộc đời. Những lời dạy từ nhỏ vẫn ảnh hưởng rất lớn đến quá tŕnh h́nh thành nhân cách cũng như quan niệm về cuộc sống. Trong thư, ba dặn ra xứ người con sẽ phải hoà nhập vào văn hoá và xă hội mới nhưng đừng để bị làm mờ cái gốc của ḿnh. Tôi nằm ḷng lời căn dặn đó. Sống nhiều năm ở trời Tây, mà khi về Việt Nam ít ai nhận ra tôi là “Việt Kiều” v́ phong cách dân dă chân quê, như bùn đất quê hương vẫn c̣n bám từ bấy đến nay. Tuy đă từng ngắm tuyết ở trời Âu nhưng cũng đă từng tắm truồng trên ḍng sông Côn; Từng ở khách sạn 5 sao lộng lẫy ở nước ngoài nhưng cũng đă từng ăn bát cơm nóng nấu trong nồi đất vào ngày mưa ở Vĩnh Thạnh, nh́n gió núi lùa qua cửa sổ, thấy người thân ở quê ngoại rét run người với chiếc áo phong phanh… bấy nhiêu năm, tuy sống xa nhà mà nề nếp, thói quen, tính cách của ngày xưa vẫn c̣n đậm nét. Tiếng Việt của tôi vẫn như xưa, thời gian đầu có chút bỡ ngỡ về vài từ mới nhưng chỉ nghe qua một lần là nhớ, và tuy sống ở nước ngoài 50 năm nhưng tôi chưa bao giờ “độn” thêm từ ngoại quốc nào trong giao tiếp, tôi nghĩ viết “chúc mừng năm mới” là đủ nghĩa chứ thấy không cần phải viết “happy new year” làm ǵ. Có thể nói cái tâm là ba tôi đă dạy cho tôi. Sau 1975, ông biết tôi sẽ gặp khó khăn và những buồn phiền không thể tránh: "Đă làm người, th́ con phải chấp nhận gánh vác. Đôi khi c̣n phải gánh cả những việc oan ức..." “Nhưng dù thế nào cũng không được thù hận và đánh mất niềm tin vào tính thiện lương của con người”. “Nếu có điều kiện th́ cứ giúp người, thà bị sai lầm c̣n hơn là ân hận”.. Trong những bức thư ấy có điều tôi hiểu ngay nhưng cũng có những lời dạy, mà măi nhiều năm sau, quá tuổi 60, nghiệm ra tôi mới hiểu. “Sống là phải làm tốt vai tṛ và bổn phận của ḿnh trong xă hội, nhưng cố bỏ cái tôi để sống an nhiên và hạnh phúc với chính ḿnh.” “Tài năng ǵ cũng chỉ là bọt bèo. Đừng kiêu căng hay đuổi theo ảo ảnh; Danh tiếng, địa vị ǵ cũng đều phụ thuộc vào lời khen chê của kẻ khác. Đừng để tâm trí ḿnh dao động v́ những việc nằm ngoài tầm kiểm soát đó để không bị biến thành con rối của miệng đời.” …Rồi biến cố đau buồn. Vẫn c̣n trẻ và đẹp nhưng trái tim ông đă lặng lẽ ngừng đập. Ông chỉ sống vừa đủ lâu để thấy những thay đổi của đất nước và ḷng người.
Nhưng ba tôi không mất. Ông chỉ nằm an nghỉ trong trái tim tôi mà
thôi.
& Những bức thư ấy là những nhịp cầu nối liền khoảng cách và kết nối t́nh thân. Xa bỗng hóa gần. Ngày xưa… liên lạc với nhau rất khó! Nhưng hôm nay, với phương tiện sẵn sàng, mọi cuộc gọi đều tức thời và miễn phí nhưng con người lại ít kết nối với nhau! Ai cũng than rằng ḿnh rất “bận”. Là không có thời gian? Nhưng có thực là chúng ta bận đến nỗi đến không thể gửi một tin nhắn vài phút để hỏi thăm, để biết là ḿnh đang nghĩ đến và chia sẻ với người thân? Đúng là cuộc sống hôm nay tất bật, nhưng một cuộc gọi, một tin nhắn để biết rằng đang nghĩ đến nhau là luôn cần thiết. Với một khoảng cách quá xa, có khi cách nhau nửa ṿng trái đất, th́ một tin nhắn có nghĩa là ta vẫn hiện diện khi… đang vắng mặt. Người ở xa cũng không đ̣i hỏi ǵ nhiều. Một cuộc gọi ngẫu nhiên, để một thoáng quên đi những bận bịu cơm áo thường ngày hay tạm quên đi những muộn phiền không đáng nhớ. Nghe giọng một người quen ở xa là một niềm an ủi. Biết rằng trên đời này c̣n có ai đó nhớ đến ḿnh. Gọi thăm thôi. Cần chi mục đích? V́ thực ra mục đích quư báu nhất là thăm hỏi mà không có mục đích nào. Nhưng dường như mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi cú điện thoại đều v́ một điều ǵ. Không cần, không liên lạc! Ngày nay, con người thực dụng nên cân đong đo đếm t́nh cảm bằng những điều kiện sinh tồn chăng? Đôi lúc v́ dửng dưng mà ta làm nhạt nḥa những t́nh cảm đẹp, đánh mất những hạnh phúc giản đơn. Với các lư do “gần như” hợp lư, nhiều người biện minh cho sự bận rộn v́ nỗi lo cơm áo, mà thực tế là trên mạng xă hội hằng ngày họ vẫn đưa h́nh khoe con khoe cháu, tiệc tùng ăn uống hay hiện diện ở các địa điểm du lịch đấy thôi. Hăy sử dụng tốt thời gian v́ không ai biết ḿnh sẽ c̣n bao lâu nữa. Hơn hai năm bị mắc kẹt Covid ở Ư, tôi đă nhận ra: có một số người nếu không chủ động t́m, họ chẳng bao giờ hỏi đến. Nhờ thời gian đó mà hiểu ai mới thật sự là người quan tâm đến ḿnh. May là suốt những ngày bị cách ly ở Milano v́ Covid-19… tôi đă sống toàn tâm toàn ư với t́nh yêu văn chương. Đọc và viết rất nhiều. Tôi dành trọn ngày đêm để viết những quyển sách của ḿnh, thi thoảng sửa lại một vài truyện ngắn hay dịch vài đoạn văn hay. Trên bàn làm việc luôn có một b́nh hoa nhỏ đa sắc mà Elena đă trang điểm cho không gian sáng tác. Pḥng làm việc có một cửa sổ lớn nh́n ra ngoài, bầu trời có khi xám xịt, có lúc trong sáng tùy theo mùa. Những lúc nghĩ ngợi, tôi thường nh́n cây lê đơm hoa trắng muốt báo mùa xuân, rồi hoa rụng báo mùa hè, rồi lại lá lại vàng để báo thu sang, sau đó th́ trút lá, cành trần trụi trong sương tuyết khi một mùa đông đang đến. Hoa lê trắng c̣n nở lần thứ hai để mùa xuân khác đến rồi sẽ sớm trôi qua vào mùa hè, mùa thu và mùa đông thứ hai. Thế giới, kư ức về Việt Nam như càng ngày càng xa. Thế rồi, đùng một cái, ánh sáng như chói chang rực rỡ hơn từ cái thế giới sáng tạo chiếu vào cái không gian chật hẹp tù túng của những ngày bị cách ly, khi tiểu thuyết Ước Hẹn Cuối Cùng bước vào giai đọan cuối. Nh́n khuôn mặt rạng rỡ của tôi, Elena liền hỏi: anh viết xong rồi hả? Năm mươi năm qua, không cảm xúc nào của tôi mà không bị vợ ḿnh phát hiện. Suốt hơn hai năm tôi đắm ḿnh cho tiểu thuyết, miệt mài buồn vui hạnh phúc khổ đau cùng nhân vật. Câu chuyện trong tiểu thuyết vô vàn đắm say mà cũng đầy thăng trầm, sầu khổ. Nhưng câu trả lời của tôi là một tràng cười. Điều kỳ lạ là tiếng cười của ḿnh làm tôi kinh ngạc. Cảm tưởng như 50 năm về trước tôi đă nghe chính giọng của ḿnh trong một máy ghi âm trên băng casette. Lúc đầu tôi hoàn toàn không nhận ra, tuy nó đúng là giọng của tôi, nhưng đó là cái giọng mà người khác nghe chứ không phải cái giọng mà bản thân tôi nghe được như máu thịt đến từ bên trong của con người ḿnh. Suốt hai năm qua tôi âm thầm và im lặng làm bạn cùng nhân vật, ḥa ḿnh với những đau thương, chết chóc nên tôi như đă quên đi thực tại. Cười như thế nào? Và bây giờ giống như lần đầu tiên tôi nghe tiếng ḿnh cười. Lệnh giăn cách lúc này đang nới lỏng và sắp chấm hết. Tôi sẽ được tự do bay về Việt Nam để gặp lại bạn bè và lo việc in ấn tác phẩm tâm huyết của ḿnh. Thế nhưng khi dịch bản thảo ra tiếng Ư- L’ultima promessa- cho hai người bạn thân th́ họ khuyên nên in trước bằng tiếng Ư v́ bối cảnh tiểu thuyết ở Milano và những vấn đề liên quan đến văn hóa và luật pháp ở Ư…
Tôi sẽ làm ǵ với ánh sáng chói chang của những ngày “tự do” sắp
tới? Tôi sẽ làm ǵ với những thói quen cũ, gặp gỡ bạn bè bị gián
đoạn sau một thời gian dài? Một quyển sách sắp in không thể trả lại
cho tôi những ngày bị cướp mất v́ đại dịch. Nó như một đứa con sắp
được sinh ra, cần phải chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ, giúp nó tránh
những cạm bẫy, những phê phán, đố kỵ hay yêu thương chào đón… tất cả
những hệ quả mà ḿnh đă mường tượng trong lúc h́nh thành câu chữ.
Vâng, tôi biết khi sách ra đời, nó cũng không thể nào tránh được
những hệ lụy như một con người, cái đề tài mà trước đây tôi đă từng
trăn trở khi viết tiểu thuyết Tṛ chuyện với thiên thần. Milano 10.2022
Trương văn Dân |